CHƯƠNG V
THIÊN ĐƯỜNG CỦA
THẦN LINH
Không có một xứ nào mà tôn giáo có thế lực và
đóng một vai trò quan trọng bằng ở Ấn Độ. Người Ấn sở dĩ dễ chấp
nhận sự thống trị của ngoại nhân một phần vì họ không cần biết
những kẻ thống trị họ thuộc giống người nào; họ cho tôn giáo mới
là cốt yếu, chứ không phải chính trị; linh hồn mới là chính, chứ
không phải thể xác; các kiếp sau mới là vô tận chứ kiếp này chỉ
là phù du! Khi vua Akbar đã thành một vị thánh và gần như theo
Ấn giáo, thì mọi người đều thấy sức mạnh phi thường của tôn
giáo, cả những người phản đối nó nhất. Ngày nay, chính là một vị
thánh
chứ không phải một chính khách, một nhà cầm quyền, đã thống nhất
được Ấn Độ, mà sự thống nhất đó là lần đầu tiên trong lịch sử
họ.
I. THỜI ĐẠI CUỐI CÙNG
CỦA ĐẠO PHẬT
Thời cực thịnh của đạo
Phật – Tiểu thặng và đại thặng – Mahayana – Đạo Phật, đạo khắc
kỉ và đạo Ki Tô – Đạo Phật suy vi – Đạo Phật truyền qua: Tích
Lan, Miến Điện, Turkistan, Tây Tạng, Cao Miên, Trung Hoa và Nhật
Bản.
Vua Açoka mất được khoảng hai trăm năm thì
đạo Phật đạt tới mức độ cực thịnh ở Ấn Độ. Thời gian phát triển
của đạo đó, từ triều đại Açoka tới triều đại Harsha, cũng chính
là hoàng kim thời đại của tôn giáo về nhiều phương diện. Nhưng
Phật giáo thời thịnh đó không còn là đạo của Phật Tổ nữa, mà có
thể nói là đạo của Subhadda,
người đệ tử đã phản kháng lại Ngài khi hay tin Ngài tịch, bảo
với mười chín tăng sĩ: “Khóc bấy nhiêu đủ rồi, rên rỉ bấy nhiêu
đủ rồi! Bây giờ chúng ta thoát li được đại Samana (Sa
Môn) rồi. Từ nay khỏi phải nghe hoài: “Điều này nên làm, điều nọ
không nên”. Từ nay chính mình tha hồ muốn làm gì thì làm, và
khỏi bị bắt buộc làm điều mình không muốn làm nữa”.
Họ lợi dụng ngay sự tự do đó và tự tách ra
thành hai giáo phái. Hai thế kỉ sau Phật Tổ tịch, di sản tinh
thần của Ngài chia thành mười tám giáo phái. Những Phật tử ở Nam
Ấn và Tích Lan còn giữ đúng trong một thời gian giáo lí giản dị
và thuần khiết của Ngài, mà người ta gọi là Hinayana
(Tiểu thặng hay Tiểu thừa): họ thờ Phật Tổ không phải như một vị
thần mà như một vị truyền đạo vĩ đại, và Thánh kinh của họ là
những bản bằng tiếng Pali chép giáo lý nguyên thuỷ. Trái lại,
tại khắp Bắc Ấn, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa và Nhật Bản người
ta theo giáo lí Mahayama (Đại thặng hay Đại thừa) mà Hội
nghị tôn giáo Kanishka đã xác định rồi truyền bá; những nhà thần
học này tuyên bố rằng Phật Tổ là Đấng Thần Linh, chung quanh
Ngài có vô số Bồ Tát, La Hán; họ theo phép tu khổ hạnh yoga
của Patanjali và in một bản kinh mới bằng tiếng sanscrit;
kinh này mặc dầu chứa đầy những tế vi siêu hình và thần học, tạo
ra một tôn giáo được bình dân (ở Ấn) theo nhiều hơn là đạo
nghiêm khắc, bi quan của Thích Ca Mâu Ni.
Đại thặng là một thứ Phật giáo pha nhạt vì có
thêm nhiều vị thần, nhiều tập quán, lễ nghi, huyền thoại Bà La
Môn hợp với người Tartare ở Kushan, người Mông Cổ ở Tây Tạng, mà
vua Kanishka thống trị. Người ta tưởng tượng một cõi trời trên
đó có nhiều vị Phật, mà Phật Amida (A-Di-Đà), Đấng Cứu Thế, được
dân chúng thờ phụng nhiều nhất: phải có một Thiên đường và một
Địa ngục để khuyến thiện trừng ác chứ, thế là nhà vua có cách
dùng quân lính vào một việc khác nữa. Trong thần thuyết mới đó,
các vị thánh tối cao là các Bodhisattwa (Bồ Tát), tức
những đấng đáng được lên cõi Niết Bàn rồi (nghĩa là thoát vòng
luân hồi rồi), nhưng tự nguyện đầu thai trong nhiều kiếp nữa để
giúp những những kẻ ở trên trần tìm được chính đạo.
Cũng như trong các giáo phái Ki Tô ở miền Địa Trung Hải, các vị
Bồ Tát đó được dân chúng thờ phụng tới nỗi át hẳn Phật Tổ trong
sự lễ bái cũng như trong nghệ thuật. Rồi người ta cũng thờ Phật
tích, Phật cốt, cũng dùng nước dương, đốt nhang, đèn, lần tràng
hạt, dùng mọi thứ trang sức thuộc về giáo hội, cũng dùng một tử
ngữ
trong các kinh kệ, rồi tăng ni phải xuống tóc, phải ở độc thân,
phải trường trai, phải tụng kinh sám hối, cũng phong thánh những
người tử vì đạo, cũng tạo ra tĩnh-tội-giới, cũng tụng kinh siêu
độ cho người chết, tóm lại là Phật giáo Đại Thặng có đủ những
hình thức lễ nghi của Ki Tô giáo thời Trung cổ, và hình như
nhiều hình thức lễ nghi của Ki Tô đã mượn của Phật giáo.
Thành thử Đại Thặng đối với Tiểu Thặng tức Phật giáo nguyên thuỷ
cũng tựa như Công giáo đối với đạo Khắc Kỉ và Ki Tô giáo nguyên
thuỷ. Phật Tổ, cũng như Luther sau này, đã tưởng lầm rằng nghi
thức – một thứ bi kịch tôn giáo – có thể thay bằng những lời
thuyết pháp và dạy luân lí; vì vậy mà một thứ Phật giáo nhiều
thần thoại, phép màu, lễ bái, có vô số các vị thần thánh làm
trung gian giữa tín đồ và Đấng Tối Cao, đã thắng Phật giáo
nguyên thuỷ, cũng như Công giáo đa sắc thái, chú trọng tới bề
ngoài đã thắng Ki Tô giáo giản dị, nghiêm khắc thời nguyên thuỷ
và thắng đạo Tin Lành thời cận đại.
Chính vì dân chúng thích đa thần giáo, thích
phép màu và huyền thoại mà làm cho Phật giáo nguyên thuỷ suy
tàn, rốt cuộc chính Đại Thặng cũng bị linh lạc ngay trên đất Ấn
Độ nữa. Vì nói theo cái giọng các sử gia làm khôn hơn cổ nhân
– Phật giáo mượn của Ấn giáo các huyền thoại và các lời thần,
lần lần lấp được cái hố giữa hai tôn giáo thời nguyên thuỷ và
người ta có thể biết trước được rằng tôn giáo nào đâm rễ sâu
trong dân chúng nhất, hợp với nguyện vọng của quần chúng nhất,
sau cùng, có những nguồn lợi kinh tế lớn nhất, được chính quyền
ủng hộ nhất, sẽ nuốt được tôn giáo kia. Tức thì cái lòng tin dị
đoan nó chính là da thịt, khí huyết của loài người, từ tôn giáo
cũ truyền qua tôn giáo mới, tới nỗi những lễ nghi về sự thờ
phụng dương vật của các giáo phái Shakti cũng thấy xuất hiện
trong đạo Phật nữa. Các tu sĩ Bà La Môn vốn kiên nhẫn vô cùng,
lần lần phục hồi được uy tín và lại được nhà vua bảo hộ, và rốt
cuộc, triết gia trẻ tuổi Shankara, lại làm cho các kinh Veda
thành căn bản của tư tưởng Ấn Độ và từ đó Phật giáo mất địa vị
lãnh đạo tinh thần ở Ấn.
Tuy nhiên đòn tối hậu không phải tự đạo Bà La
Môn mà tự ngoại nhân tung ra và có thể nói là chính Phật giáo đã
tự gây hoạ cho mình. Uy tín của Sangha (Tăng Già) đã thu hút vua
Açoka và dòng dõi quí phái nhất của giới Magadha (tức những
người mà mẹ thuộc tập cấp kshatriya, cha thuộc tập cấp vaisya),
mà tạo thành một tăng lữ độc thân yêu hoà bình; ngay thời Phật
Tổ đã có vài nhà ái quốc than rằng “tăng sĩ Gautama khuyến khích
người ta đừng sinh con đẻ cái nữa, như vậy các gia đình sẽ tuyệt
tự mất”. Sự phát triển của Phật giáo và chế độ tăng viện ở đầu
kỉ nguyên một mặt, sự chia rẽ về chính trị mặt khác, cả hai đều
làm cho sức chống cự của Ấn suy đi và Ấn dễ bị ngoại nhân xâm
lăng. Khi người Ả Rập vô cõi, nóng nảy muốn truyền bá một nhất
thần giáo giản dị, khắc khổ, trông thấy các nhà sư biếng nhác,
ham tiền, sống nhờ lòng mê tín của các tín đồ ngu xuẩn thì họ
chẳng những khinh bỉ ra mặt mà còn thấy gai mắt, cho phá hết các
chùa chiền, giết hàng ngàn nhà sư, mà dân chúng ngại không còn
ai muốn đầu Phật nữa. Những kẻ sống sót bị đạo Bà La Môn thu hút
trở lại, thế là tôn giáo chính thống thời xưa tiếp nhận các
người theo “tà giáo” đã biết hối hận, và “đạo Bà La Môn thân
thiện bóp chết Phật giáo”. Đạo Bà La Môn bao giờ cũng khoan
dung: lịch sử các cuộc thịnh suy, lên xuống của đạo Phật và cả
trăm giáo phái khác đầy những chuyện tranh biện, gây lộn, nhưng
tuyệt nhiên không có một vụ tàn sát nào cả. Trái lại, đạo Bà La
Môn còn nhận Phật Tổ là một vị thần – hoá thân của thần Vichnou
– thành thử có vẻ khuyến khích người con hoang [Phật tử] trở về
mái nhà cũ [đạo Bà La Môn]; không những vậy còn chấp nhận thuyết
của Phật cho rằng mọi sinh vật đều thiêng liêng, do đó cấm sự
giết súc vật để tế thần; thế là sau năm trăm năm suy lần, đạo
Phật biến mất ở Ấn Độ một cách êm ái, ôn hoà.
Nhưng đạo Phật đã lan tràn tới khắp các xứ
khác ở Á châu. Giáo lí, nghệ thuật, văn học của nó truyền qua
đảo Tích Lan, bán đảo Mã Lai ở phía Nam, qua Tây Tạng, Turkestan
ở phía Bắc, qua Miến Điện, Thái Lan,
Cao Miên, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản ở phía Đông, và nhờ
đạo đó mà đem văn minh vô các xứ đó – trừ Viễn Đông đã có một
nền văn minh rồi – cũng như ở thời Trung cổ, nhờ các tu sĩ La Mã
và Byzantine mà văn minh vô được Tây Âu và Nga. Có thể nói tại
các xứ đó, văn minh đạt được cực điểm chính là nhờ đạo Phật. Từ
thời Açoka cho tới thế kỉ thứ IX, lúc mà đạo Phật bắt đầu suy
vi, thành phố Anuradhapura ở Tích Lan là một trong những thành
phố lớn nhất ở phương Đông, tại đó từ hai ngàn năm nay người ta
vẫn thờ cây bồ đề và ngôi đền ở trên cao nguyên Kandy
là một thánh địa của 150 triệu người theo đạo Phật ở châu Á.
Có lẽ chỉ ở Miến Điện là các nhà sư thường gần giữ được lí tưởng
của Phật Tổ, mà đạo Phật còn được thuần tuý hơn cả; nhờ các nhà
sư đó mà 13 triệu dân Miến có một mức sống tương đối cao hơn mức
sống ở Ấn. Sven Hedin, Aurel Stein và Pelliot đã tìm được ở
Turkestan mấy trăm bản viết tay thời cổ về đạo Phật và nhiều di
tích khác của một nền văn hóa đã thịnh ở xứ đó từ thời đại
Kanishka tới thế kỉ XIII. Thế kỉ thứ VII, một chiến sĩ yêu văn
minh, Srong–tsan Gampo, lập một chính quyền vững vàng ở Tây
Tạng, chiếm xứ Népal, và dựng ở Lhassa một kinh đô, chẳng bao
lâu rất thịnh vượng vì là một trung tâm tích trữ các hàng hoá từ
Ấn qua Trung Hoa và từ Trung Hoa qua Ấn. Sau khi mời các nhà sư
tới Tây Tạng, sau khi truyền bá giáo dục và đạo Phật trong dân
chúng, ông tạm rời ngôi báu trong bốn năm để tập đọc tập viết và
mở đầu cho thời đại hoàng kim ở Tây Tạng. Ông cho xây cất mấy
ngàn ngôi chùa Phật trên các núi và cao nguyên, và cho in một bộ
kinh, luận gồm ba trăm ba mươi ba cuốn, bảo tồn được cho các học
giả ngày nay biết bao tác phẩm quí giá mà nguyên bản ở Ấn Độ đã
mất từ lâu. Chính ở Tây Tạng cách biệt với thế giới bên ngoài mà
Phật giáo có vô số dị đoan, một chế độ tăng viện và một chủ
nghĩa giáo tôn (cléricalisme) mà khắp thế giới, ngoài châu Âu
thời đầu Trung cổ, không nơi nào sánh kịp. Còn vị Dalai-Lama
(Đạt-Lai Đạt-Ma, tức Hoạt Phật ở Tây Tạng) Ngài ở trong tịnh
thất của đại tu viện Po-ta-la, ở trên chỗ cao nhất của kinh đô
Lhassa; ngày nay dân Tây Tạng còn coi Ngài là hiện thân của Đức
Bồ Tát Avalokiteshvara.
Ở Cao Miên, đạo Phật và đạo Ấn dung hoà với nhau đã gây một tinh
thần tôn giáo làm nẩy nở một giai đoạn đẹp đẽ nhất của nghệ
thuật Đông phương.
Cũng như Ki Tô giáo, đạo Phật ra khỏi xứ rồi mới phát triển rực
rỡ nhất. Ta nên nói thêm rằng đạo đó thắng lợi như vậy mà không
hề làm đổ một giọt máu.
II. CÁC THẦN LINH MỚI
Ấn giáo – Brama, Vichnou,
Shiva – Krishna Kali – Các thần thú vật – Thần Bò cái – Phiếm
thần giáo và nhất thần giáo.
Từ nay Ấn giáo thay thế Phật giáo, sự thực nó
không phải là một tôn giáo, có thể nói thêm rằng: nó không phải
chỉ là một tôn giáo; nó là một mớ lộn xộn gồm đủ các tín ngưỡng,
các nghi thức cúng vái mà tín đồ và các người chủ tế chỉ có bốn
điểm này chung với nhau: họ đều công nhận chế độ tập cấp mà tập
cấp cao nhất là tập cấp Bà La Môn; họ
cùng thờ Bò cái; cùng tin luật Karma và thuyết luân hồi;
sau cùng họ đã thay các thần cũ trong các kinh Veda bằng
những thần mới. Một phần những tín ngưỡng đó đã có từ trước thời
Veda, và đã tồn tại được; một phần khác gồm những nghi thức và
thần linh, huyền thoại, dị đoan cũng do các tu sĩ Bà La Môn gom
góp nhưng không có trong các Thánh kinh và hầu hết là trái ngược
với tinh thần trong các kinh Veda; tất cả cái mớ hổ lốn
đó được tinh thần tôn giáo Ấn Độ nhào lộn lại chính trong thời
đại mà uy tín của Phật giáo suy nhược. Các thần của Ấn giáo có
đặc điểm này là có quyền uy rất lớn, có khả năng tri và hành phi
thường, vì dáng vóc, cơ thể mạnh quá, “tràn” ra, mọc thêm ra.
Chẳng hạn thần Brahma thời đại này có tới bốn mặt, thần
Kartikeya có sáu mặt, thần Shiva có ba mắt, thần Indra có ngàn
mắt và hầu hết các vị thần đó đều có bốn cánh tay. Thần Brahma
là chúa tể của các vị thần đó nhưng ngài ngự trị một cách lơ là,
hơi khuất mặt, tránh sự thờ phục của dân chúng, cũng tựa thái độ
của các ông vua lập hiến ở châu Âu hiện nay. Thần Vichnou và
thần Shiva hợp với ngài thành một bộ ba – chứ không phải là tam
vị nhất thể. Vichnou là một vị thần nhân ái, một ông thiện, luôn
sẵn sàng giáng trần để cứu nhân độ thế. Krishna thường là hoá
thân của ông, sinh trong khám, làm những việc oanh liệt phi
thường không thua các nhân vật tiểu thuyết để cứu người điếc,
người mù, an ủi người cùi, bênh vực kẻ nghèo và cải tử hoàn sinh
những người chết. Ông có một đệ tử thân tín, Arjuna, và gặp mặt
Arjuna, ông luôn luôn biến hình đổi dạng. Có người bảo ông bị
tên mà chết, có người lại bảo ông bị đóng đinh lên thân cây.
Chết rồi, ông xuống địa ngục rồi lên thiên đường, rồi tới ngày
tận thế ông sẽ trở xuống để xử kẻ sống và người chết.
Người Ấn cho rằng đời sống cũng như vũ trụ,
qua ba giai đoạn liên tiếp: sinh, trưởng rồi diệt. Vì vậy có ba
thứ thần: thần Brahma, đức Sáng tạo; thần Vichnou, đức Bảo tồn;
và thần Shiva, đức Huỷ diệt: đó là Tri-murti,
tức “ba hình thức” mà tất cả các người Ấn, trừ những tín đồ Jaïn
[và Hồi giáo, dĩ nhiên] đều theo.
Có hai phái: phái tôn thần Vichnou và phái
tôn thần Shiva. Hai phái đó hoà thuận với nhau và đôi khi cúng
tế chung trong một ngôi đền; còn các Bà La Môn luôn luôn thận
trọng, được đa số dân chúng theo, thờ cả hai vị thần đó ngang
nhau, không thiên vị nào. Mỗi buổi sáng, tín đồ phái tôn Vichnou
vẽ lên trán bằng thổ hoàng (ocre)
dấu hiệu của Vichnou; còn tín đồ phái tôn Shiva thì bôi lên lông
mày một vạch ngang bằng than phân bò cái, hoặc đeo ở cánh tay, ở
cổ cái linga, tượng trưng dương vật.
Sự thờ phụng thần Shiva đáng kể là cổ nhất
trong Ấn giáo mà đồng thời cũng là một yếu tố thâm thuý nhất,
ghê gớm nhất. Ông John Marshall bảo ở Mohenjo Daro có những “dấu
vết không cãi được” của sự thờ phụng Shiva: có một cái tượng nhỏ
của Shiva ba đầu và có ba cái cột nhỏ bằng đá mà ông cho là
tượng trưng dương vật. Rồi ông kết luận: “Như vậy sự thờ phụng
Shiva là tôn giáo cổ nhất thế giới”.
Tên của vị thần đó là một cách uyển từ,
nói ngược với ý mình muốn diễn, vì nghĩa gốc của từ ngữ Shiva là
tốt, có hảo ý, mà thần Shiva lại là một ông Ác, tàn phá mọi vật,
tượng trưng cái năng lực thiên nhiên tàn khốc huỷ diệt mọi cơ
thể, mọi loài vật, mọi lí tưởng, mọi công trình, mọi hành tinh,
nghĩa là huỷ diệt hết thảy không chừa một cái gì. Không có một
dân tộc nào khác mà dám nhận định một cách thành thực như vậy
tính cách thay đổi của mọi hình thức cùng sự vô tư của thiên
nhiên, và cũng nhận một cách thành thực vô cùng rằng cái ác bù
cho cái thiện, rằng có sáng tạo thì có huỷ diệt, và hễ sinh ra
là mắc một tội lớn, sẽ phải chịu cái hình phạt là chết. Người Ấn
phải chịu cả ngàn nỗi thống khổ, tai vạ, cho rằng nguyên do là
có một sức mạnh nào đó hoạt động không ngừng, chỉ thích đập phá
tan tành những gì mà thần Brahma – đức Sáng tạo vũ trụ – đã sinh
ra. Thần Shiva làm mưa làm gió trong một vũ trụ luôn luôn tự
sinh thành, rồi huỷ diệt để lại tự sinh thành nữa.
Nữ thần Kali
(http://www.gangesindia.com/catalog/images/DSC_1290-Brs-Kali-Big.jpg)
Tử là trừng phạt Sinh, thì Sinh lại là thắng
được Tử; cho nên chính vị thần tượng trưng cho sự huỷ diệt, đối
với người Ấn, cũng đồng thời tượng trưng cái dòng cuồn cuộn sinh
sinh bất tuyệt nó làm cho giống nòi được trường tồn mặc dầu cá
nhân phải thoát xác. Trong vài miền ở Ấn, đặc biệt là miền
Bengale, cái năng lực Sinh hoá, Sáng tạo đó (Shakti) của
thần Shiva – tức của thiên nhiên – được tượng trưng bằng nữ thần
Kali (hoặc Parvati, Uma, Durga) vợ của Shiva. Cho tới thế kỉ
trước, sự thờ phụng này gồm nhiều nghi thức đổ máu, có khi còn
giết người để tế nữa, nhưng ngày nay nữ thần chỉ đòi được tế
bằng dê cái thôi. Dân chúng tạc hình nữ thần đó, mặt mày đen
thui, miệng hoác, lưỡi lè ra; nữ thần trang sức bằng những con
rắn, và thần múa trên một thây ma, bông tay là xác đàn ông,
chuổi hột gồm toàn những sọ người, mặt và ngực bôi đầy máu. Thần
có bốn tay, một tay cầm thanh gươm, một tay cầm một đầu người
mới chặt, còn hai tay kia đưa ra như để ban phúc và che chở. Vì
Kali-Parvati không phải chỉ là thần Chết, huỷ diệt, mà còn là
thần Sanh đẻ nữa, vừa hiền hậu, vừa tàn ác, giết chóc đấy nhưng
cũng có thể mỉm cười. Có lẽ hồi xưa, hồi còn ở Sumérie, chưa
được đem vô Ấn Độ, nữ thần chưa ghê gớm như vậy, mà chỉ là một
nữ thần phù hộ cho các bà mẹ. Người Ấn cho nữ thần và chồng của
bà những nét rùng rợn có lẽ là để cho tín đồ phải sợ và có lẽ
cũng để cho họ phải rộng rãi cúng tiền và tặng vật cho các thầy
tu.
Ở trên tôi đã kể năm vị thần thượng đẳng của
Ấn giáo; dưới năm vị đó có lẽ còn tới ba chục triệu thần lớn nhỏ
nữa, mà nội việc kể tên thôi cũng đặc cả trăm cuốn sách. Có một
số chỉ là những thiên sứ (angle), một số khác là quỉ, một số nữa
là thiên thể, như mặt trời; một số nữa chỉ như một thứ thần hộ
thân, như Lakshmi (thần May mắn), đa số là những thú dữ
trong rừng và chim trên trời. Người Ấn không phân biệt hẳn người
và vật; họ cho người và vật đều có linh hồn, và linh hồn người
có thể nhập vào một cơ thể vật, mà linh hồn vật cũng có thể nhập
vào cơ thể người: mọi loài đều phải chịu chung luật Quả báo và
chết rồi linh hồn phải thác sinh. Chẳng hạn con voi thành thần
Ganesha và được coi là con của thần Shiva; nó tượng trưng khía
cạnh thú vật của con người và hình ảnh của nó đồng thời dùng làm
bùa trừ tà được. Khỉ và rắn thời xưa đáng sợ lắm, nên cũng được
phong làm thần. Con rắn cobra [một thứ rắn hổ], hoặc
naga, rất độc, cắn ai thì người ấy
gần như chết tức khắc, nên được đặc biệt thờ phụng, và ở
nhiều miền, mỗi năm dân chúng mở hội, làm lễ, đặt ở cửa hang
rắn, nào chuối nào sữa để cúng rắn. Ở miền Đông xứ Mysore người
ta còn dựng đền thờ rắn nữa: vô số rắn được nuôi trong đền và có
những tu sĩ chuyên lo việc hầu hạ rắn. Cá sấu, cọp, công, vẹt,
cả chuột nữa cũng được cúng tế.
Nhưng người Ấn cho rằng không có con vật nào
thiêng liêng bằng con bò cái. Trong các đền chùa, trong các tư
gia, ngay cả tại những chỗ công cộng, đâu đâu cũng thấy hình và
tượng bò mộng; lớn nhỏ đủ cỡ và đúc, nặn, khắc bằng đủ vật liệu;
nhưng chính con bò cái mới được toàn thể dân chúng quí trọng,
thờ phụng nhất; nó nghênh ngang đi giữa đường phố trong châu
thành; phân của nó được dùng để đốt hoặc để làm một thứ thuốc
cao linh nghiệm; nước tiểu của nó có tính cách linh thiêng, tẩy
được mọi ô uế ở ngoài cũng như ở trong cơ thể. Người Ấn (dĩ
nhiên không kể những người Hồi giáo ở Ấn) không khi nào chịu ăn
thịt nó, dùng da nó làm nón, găng tay, giày dép; khi nó chết
người ta làm lễ táng nó một cách long trọng theo nghi thức tôn
giáo. Có lẽ xưa kia một nhà cầm quyền nào đó đã tạo ra sự cấm kị
đó để cho dân Ấn, mỗi ngày mỗi tăng, có đủ bò kéo cày; ngày nay
ở Ấn cứ bốn người dân thì có một con bò cái. Người Ấn cho rằng
yêu bò cái, không ăn thịt nó, là điều rất hữu lí, cũng như yêu
chó mèo, không ăn thịt chó mèo vậy; nhưng có điều này chua chát,
mỉa mai là các tu sĩ Bà La Môn cấm giết bò cái, cấm làm đau đớn
con giun, cái kiến, mà đồng thời lại khuyên người ta thiêu sống
các quả phụ. Sự thực trong lịch sử, dân tộc nào cũng đã thờ loài
vật, và nếu đã phải phong thần cho một loài vật nào thì theo
tôi, con bò cái hiền lành đáng được thờ như bất kì con vật nào
khác. Với lại chúng ta có quyền gì để chê bai người Ấn đã thờ
biết bao loài vật như vậy? Chúng ta chẳng có con rắn trong vườn
Thượng Uyển Eden, con bò vàng trong kinh Cựu Ước, con cá
thần trong các hầm mộ và con Cừu con rất dễ thương của Chúa đấy
ư?
Sở dĩ có phiếm thần giáo là vì con người chất
phác không thể suy nghĩ bằng những từ ngữ trừu tượng, mà dễ hiểu
những cái gì cụ thể, dễ tuân theo ý muốn của một quyền uy nào đó
hơn là những mệnh lệnh của luật pháp. Người Ấn lờ mờ nhận thấy
rằng ngũ quan của chúng ta chỉ thấy được cái bề ngoài; sau cái
bề ngoài của mọi biến cố, có vô số sinh vật siêu tự nhiên mà
chúng ta chỉ cảm thấy được thôi chứ không trông thấy, như Kant
đã nói. Lại thêm các tu sĩ Bà La Môn đã khoan hoà, chấp nhận mọi
thứ thần linh của mỗi miền, của mỗi bộ lạc, mời lên ngồi chung
cái điện như chư thần đông nghẹt của họ, thành thử một vị thần
đã có trước rồi, lại được hoá thân thành mấy vị thần khác nữa mà
cũng được đồng thời thờ với nhau.
Tín ngưỡng nào cũng được trọng hết, miễn là tín đồ phải cúng
tiền cho hàng tư tế [tức như bọn thầy cúng]. Rốt cuộc, vị thần
nào cũng là một thuộc tính, một tượng trưng hoặc một hậu thân
của một vị thần khác, và người Ấn nào biết suy tư sẽ thấy cả
triệu vị thần của họ hỗn hợp với nhau thành một vị thần duy
nhất, mà phiếm thần giáo của họ gần thành một thứ nhất thần
giáo, một thứ nhất nguyên luận. Một tín đồ Ki Tô giáo ngoan đạo
tuy thờ phụng Thánh Mẫu
và chư thánh đấy mà vẫn là theo nhất thần giáo vì chỉ có một
Đấng Tối Cao là Chúa, thì người Ấn cũng vậy, cầu nguyện Kali,
Rama, Krishna hoặc Ganesha mà đâu có quên rằng những thần đó
chưa phải là thần tối cao.
Một số người Ấn cho Vichnou là vị thần tối cao, còn Shiva chỉ là
một thần thứ đẳng, một số khác lại coi Shiva là thần tối cao, mà
Vichnou chỉ là một thiên sứ, sở dĩ chỉ một số ít thờ Brahma là
vì Brahma không có hình thể như người, không đụng chạm tới được,
ở xa thăm thẳm trên chín từng, không cho loài người thấy mặt;
cũng chính vì những lí do đó mà đa số giáo đường Ki Tô giáo được
dựng lên để thờ Đức Thánh Mẫu
hoặc một vị thánh nào đó, mãi tới thế kỉ XVIII, Voltaire mới
dựng riêng một tiểu giáo đường để thờ
Thiên Chúa thôi, chứ không thờ thánh nào hết.
III. CÁC TÍN NGƯỠNG
Các Purana –
Sự thác sinh của vạn vật – Sự đầu thai của linh hồn – Luật quả
báo – Khía cạnh triết lí của luật đó – Sống là khổ - Giải thoát.
Song song với thần học phức tạp còn có một
thần thoại cũng phức tạp không kém, mặc dầu sâu sắc nhưng cũng
chứa đầy những điều dị đoan. Các kinh Veda viết bằng
tiếng Sancrit – một cổ ngữ sau thành tử ngữ – do đó mà cũng hoá
ra mất sinh khí, mà phần siêu hình của các giáo phái Bà La Môn
khó quá, dân chúng không hiểu nổi; vì vậy Vyasa và vài nhà khác,
trong khoảng một ngàn năm (từ 500 trước Công nguyên tới 500 sau
Công nguyên), viết mười tám Purana, “truyện cổ”, gồm
400.000 thi đoạn để giảng cho tín đồ những chân lí về sáng tạo,
sự biến chuyển và sự huỷ diệt của thế giới theo từng chu kì; họ
còn lập một phổ-hệ của các vị thần và chép lại chuyện thời đại
anh hùng nữa. Các tác giả bộ đó không có ý làm văn, không trình
bày theo một thứ tự hợp lí và không dè dặt chút nào cả khi đưa
những con số; chẳng hạn họ cứ mạnh dạn tuyên bố rằng cặp tình
nhân – tình thần thì có phần đúng hơn – Urvashi và Pururavas,
sống sáu mươi mốt ngàn năm trong cảnh vui vẻ hoan lạc. Nhưng nhờ
ngôn ngữ sáng sủa, có nhiều ngụ ngôn lí thú mà thuyết lại hợp
với chính giáo, nên các Purana đó thành như Thánh kinh thứ nhì
của Ấn giáo, cái kho bảo tồn những dị đoan, thần thoại, cả triết
lí của Ấn giáo nữa, chẳng hạn chúng ta thấy trong
Vichnoupurana – nghĩa là Purana viết về thần Vichnou –
thuyết rất cổ mà vẫn còn mới hoài trong tư tưởng Ấn Độ: Cái
“ngã” của mỗi vật chỉ là ảo tưởng, và đời sống nào cũng đồng
nhất thể:
Sau ngàn năm, Ribhu tới
Châu thành Nidagha ở để giảng cho Nidagha
hiểu biết thêm.
Ribhu gặp Nidagha ở ngoài châu thành.
Đúng lúc nhà vua sắp vô thành, phía sau là
một đám đông tuỳ tùng hộ giá;
Nidagha đứng xa xa ở ngoài đám đông dân
chúng,
Cổ ngẳng ra vì nhịn đói lâu ngày, ông ta mới
ở rừng về với ít cành khô và cỏ.
Ribhu thấy ông ta, bèn lại gần, chào, hỏi:
“Anh Bà La Môn, làm gì thơ thẩn một mình đó?”
Nidagha đáp: “Ngó dân chúng đi coi nhà vua
kìa,
Nhà vua đương về thành. Vì vậy mà tôi đứng né
ra đây”.
Ribhu hỏi: “Người nào là vua?
Và người nào không phải là vua?
Anh chỉ giùm cho tôi, vì coi bộ anh thông
thạo lắm”.
Nidagha đáp: “Người ngồi trên lưng con voi to
lớn kia, hiên ngang như ngọn núi,
Người đó là vua. Còn những người khác là bọn
tuỳ tùng”.
Ribhu bảo: “Anh nói tới hai “người”, ông vua
và con voi.
Mà không chỉ cho tôi cách phân biệt được
người này với người khác;
Tôi muốn biết ai đâu là vua, ai đâu là voi”.
Nidagha đáp: “Voi ở dưới, Vua cưỡi lên lưng
voi;
Ai mà chẳng biết rõ kẻ cưỡi và kẻ bị cưỡi, kẻ
nào ở trên, kẻ nào ở dưới”
Ribhu bảo: “Vậy xin anh chỉ cho tôi biết
Nghĩa của những tiếng
ở dưới và ở trên”.
Tức thì Nidagha nhảy ngay lên lưng Guru
và bảo:
“Đây, nghĩa những tiếng ấy như vầy:
Tôi cưỡi ở trên như nhà vua đây nè, còn thầy
ở dưới như con voi đấy
Thí dụ như vậy để cho thầy hiểu”.
Ribhu bảo: “Ừ thì cho rằng anh ở địa vị nhà
vua, còn tôi ở địa vị con voi,
Nhưng anh cho tôi biết thêm điều này nữa: hai
chúng ta đây, ai là anh, ai là tôi?”
Tức thì Nidagha vội tụt xuống, cúi rạp xuống
ôm hôn chân Ribhu, bảo:
“Bẩm chính thần là Ribhu, tôn sư của con…
Nghe thầy nói, con hiểu rằng chính thầy, Guru
của con đã tới”.
Ribhu bảo: “Phải, ta tới để giảng cho con bài
học đó,
Vì con nhiệt tâm hầu hạ ta.
Ta tên là Ribhu, ta lại đây tìm con,
Và đã vắn tắt chỉ cho con,
Cái tâm điểm của chân lí tối cao này: hoàn
toàn không có nhị nguyên tính.
Nói xong, Guru Ribhu biến mất.
Từ đó, Nidagha, nhờ cách giảng dạy tượng
trưng đó mà chăm chú tìm hiểu sự Vô nhị nguyên.
Từ đó ông ta không phân biệt vạn vật với ông
ta nữa.
Và ông ta thành một Brahman. Và đạt được vĩnh
phúc.
Chúng ta thấy một thuyết rất “kim thời”
về vũ trụ trong những Purana và những sách tương tự ở
thời Trung cổ Ấn; nhưng có sự Sáng tạo ra vũ trụ: vũ trụ luôn
luôn biến hoá, tan ra, sinh trưởng rồi suy tàn, như cây cỏ, cơ
thể, hết chu kì này tới chu kì khác. Brahma – đúng hơn là
Prajapati, vì các sách gọi Đức Sáng tạo là Prajapati – là năng
lực vô hình nó giữ cho sự chuyển biến đó xảy ra bất tuyệt. Nếu
vũ trụ có khởi nguyên thì chúng ta không biết khởi nguyên đó ra
sao; các Purana bảo có thể Brahma đã đẻ ra vũ trụ, như gà đẻ
trứng, rồi ngồi lên vũ trụ để ấp cho nó nở; có thể vũ trụ này
chỉ là hậu quả một sự lầm lẫn hoặc một trò đùa của Hoá công.
Trong lịch sử thế giới, mỗi chu kì hay kalpa (kiếp) chia
làm ngàn mahayuga hay thời vận, mỗi thời vận 4.320.000
năm; rồi mỗi mahayuga lại gồm bốn yuga hay thời
đại, trong đó nhân loại cứ mỗi ngày mỗi suy. Trong mahayuga
chúng ta sống đây, đã qua ba yuga, tức 3.888.888 năm rồi; thời
đại chúng ta là yuga cuối cùng, gọi là kaliyuga, thời đại
khốn khổ, mà chỉ mới qua được 5.035 năm trong thời đại đó, còn
phải qua 426.965 năm nữa mới hết.
Lúc đó là tới đúng hạn chết của thế giới và Brahma sẽ bắt đầu
một “ngày mới của Brahma”, nghĩa là bắt đầu chu kì kalpa
mới là 4.320 triệu năm nữa. Trong
mỗi chu kì, thế giới biến hoá theo những phương tiện và một cách
thức tự nhiên, rồi suy vi cũng theo những phương tiện và một
cách thức tự nhiên; sự huỷ diệt của toàn thể vũ trụ cũng chắc
chắn như cái chết của con chuột, chứ không quan trọng gì hơn,
trong con mắt của triết gia. Vũ trụ được tạo ra không phải để
đạt tới mục đích, cứu cánh nào hết; không có gì là “tiến bộ”,
chỉ là một sự lặp đi lặp lại hoài không khi nào dứt.
Trong những thời vận và thời đại đó, hằng tỉ
năm đã qua, loài này chuyển sinh qua loài khác, kiếp này qua
kiếp khác, vật này qua vật khác, cứ vãng lai như vậy đến chán
ngấy. Sự thực một cá thể không phải là một cá thể, chỉ là một
cái khoen trong cái dây xích sinh sinh, một trang của lịch sử
một linh hồn; một loài nào đó không có một thực thể riêng biệt,
vì linh hồn của các bông hoa, các sâu bọ kia, kiếp trước hoặc
kiếp sau này có thể là linh hồn của con người; cả cái “sinh” chỉ
là nhất thể. Một người nào đó chỉ có một phần là người thôi, một
phần khác là loài vật; có những mảnh, những âm vang của những
kiếp trước còn lưu lại trong kiếp này và làm cho người đó gần
với con thú hơn là gần với nhà hiền triết. Loài người chỉ là một
phần của vũ trụ, không phải là trung tâm, là chủ của vũ trụ, một
đời người hay vật chỉ là một phần của trọn đời một linh hồn;
hình thức nào cũng là tạm thời hết. Chỉ cái thực thể là tiếp nối
hoài và duy nhất. Một linh hồn phải trải qua biết bao nhiêu lần
đầu thai, cũng như một đời người có biết bao nhiêu ngày, mỗi lần
đầu thai của linh hồn có thể là một tấn bộ hoặc một suy đồi,
cũng như trong đời có ngày tốt, ngày xấu. Một đời người ngắn
ngủi như vậy, trong cái dòng “sinh” dằng dặt kia, làm sao có thể
chứa tất cả lịch sử một linh hồn mà bảo rằng hễ làm điều thiện
thì linh hồn được thưởng, làm điều ác thì linh hồn bị phạt? Mà
nếu linh hồn đã bất diệt thì làm sao có thể nghĩ rằng số phận nó
sau này tuỳ thuộc một đời người ngắn ngủi như vậy được?
Người Ấn bảo muốn hiểu được đời sống thì có
cách là nhận rằng mỗi kiếp người chịu hậu quả của những hành vi
các kiếp trước. Không một hành vi lớn hoặc nhỏ, tốt hoặc xấu nào
mà không tác động tới kiếp sau, mỗi cử chỉ đều có hậu quả của
nó. Đó là luật karma, luật quả báo trong thế giới tâm
linh; nó là luật tối thượng mà cũng ghê gớm nhất. Một người mà
làm điều thiện tránh điều ác thì một đời người đó chưa đủ để
thưởng công cho người đó; phần thưởng sẽ chia ra làm nhiều kiếp
sau này của người đó, và nếu trong những kiếp này cũng vẫn tiếp
tục làm điều thiện thì sẽ được hưởng những địa vị mỗi ngày mỗi
cao, được hưởng phúc mỗi ngày mỗi nhiều; trái lại nếu làm nhiều
điều ác thì có thể sẽ phải đầu thai làm hạng tiện dân, làm chồn,
làm chó.
Luật karma đó, cũng như luật Moira, tức định mạng,
của người Hi Lạp, chẳng những người mà ngay cả thần linh cũng
không thể chống nó được, cái mà các nhà thần học gọi là ý chí
của thần linh, chính là cái mà người Ấn gọi là karma. Nhưng
karma khác với số phận, vì nói tới số phận tức là nhận rằng con
người không làm sao thay đổi số phận của mình được, các thần
linh đã bắt sao phải chịu vậy; còn theo luật karma (nếu chúng ta
coi tất cả những kiếp nối tiếp nhau chỉ là một kiếp duy nhất)
thì chính chúng ta làm chủ, tạo ra cái nghiệp của ta. Thiên
đường, Địa ngục đều không thể làm dứt cái tác động của karma
được; hoặc làm ngưng cái chuỗi sinh sinh tử tử được; sau khi thể
xác chết rồi, linh hồn có thể phải xuống Địa ngục để chịu một
hình phạt nào đó hoặc lên Thiên đường để hưởng một phần thưởng
nào đó; nhưng không có linh hồn nào bị đày hoài dưới Địa ngục và
rất ít linh hồn được ở hoài trên Thiên đường; hầu hết các linh
hồn đều qua cảnh Địa ngục và Thiên đường rồi sớm muộn gì lại trở
về cõi trần để sống nốt cái karma của mình trong những kiếp đầu
thai khác.
Về phương diện sinh lí, thuyết đó đúng một
phần lớn. Chúng ta là hậu thân của tổ tiên chúng ta và con cháu
chúng ta sẽ là hậu thân của chúng ta; mà những tật của cha có
thể di truyền lại cho con cháu, có khi tới mấy đời (mặc dầu
không luôn luôn như vậy như một số người lạc hậu nghĩ lầm).
Người Ấn đã khéo đặt ra huyền thoại karma để khuyến thiện trừng
ác, làm cho cái thú tính con người giảm đi, bớt chém giết nhau,
ăn cắp, làm biếng, hoặc bớt keo kiệt khi cúng dường các thầy tu;
hơn nữa, nó cho ta một ý niệm vạn vật nhất thể, làm cho con
người phải giữ bổn phận luân lí suốt đời, mà luân lí có được một
khu vực áp dụng rộng hơn nhiều, hợp lí hơn nhiều, không nền văn
minh nào khác sánh kịp được. Có những người Ấn chân chính rán
hết sức không làm thương tổn sinh mạng của một con sâu, cái
kiến; “cả những người chỉ hơi có tinh thần đạo đức thôi cũng coi
các loài vật như bầy em khốn khổ hơn mình chứ không coi là những
loài ti tiện mà mình là chúa tể”. Luật karma lại là một triết lí
giảng được vài nét trong đời sống Ấn Độ có vẻ khó hiểu hoặc bất
công. Những bất bình đẳng bất tuyệt giữa con người với nhau có
vẻ như thách thức những nguyện vọng bình đẳng và công bằng của
chúng ta; tất cả mọi hình thức của cái ác nó phủ lên thế giới
một màn hắc ám, nhuộm đỏ lịch sử của nhân loại, tất cả những nỗi
đau khổ nó đeo đẳng con người từ lúc sơ sinh cho tới lúc tắt
thở, tất cả những cái đó, người Ấn nào đã tin karma thì cho là
rất dễ hiểu; những đau khổ, những bất công đó, sự cách biệt giữa
kẻ ngu đần và bậc thiên tài, kẻ nghèo hèn và kẻ giàu sang là cái
“quả” của những kiếp trước, là hậu quả không sao tránh được của
một cái luật mà nếu đem ra áp dụng vào một kiếp người, vào một
quãng thời gian thôi thì có vẻ bất công, nhưng nếu áp dụng vào
hết thảy các kiếp, cho tới cùng thì lại hoàn toàn công bằng.
Luật karma là một trong những sáng
kiến của loài người để rán kiên nhẫn chịu những đau khổ trong
đời và giữ được một chút hy vọng. Đa số các tôn giáo đều muốn
làm tròn cái nhiệm vụ giảng nguyên nhân sự khổ và tìm cách
khuyên tín đồ nếu không vui vẻ thì ít nhất cũng nên an phận,
lặng lẽ nhận nó, đừng than thở. Vấn đề làm cho mọi người thắc
mắc là tại sao con người lại phải khổ, nhất là những người chăm
chỉ, hiền lương không đáng khổ mà phải chịu khổ, và ta phải nhận
rằng nhờ Ấn giáo cho sự đau khổ có một ý nghĩa, một giá trị, mà
bi kịch của nhân loại hoá ra bớt chua chát. Trong thần học Ấn
Độ, linh hồn ít nhất cũng được điều an ủi này, ít nhất mình cũng
chỉ phải chịu cái “quả” của cái nhân chính mình gây ra; và nếu
ta tin thuyết luân hồi thì ta chịu được nỗi khổ, coi nó là một
hình phạt nhất thời, mà hi vọng điều thiện ta làm một ngày kia
thế nào cũng được thưởng một cách chắc chắn.
Nhưng sự thực người Ấn không chấp nhận hẳn
vấn đề đời sống đó, dù đời sống miên trường theo luật luân hồi.
Sống trong một khí hậu nóng nực, bực bội, thấy quốc gia lệ thuộc
ngoại nhân, chính mình bị bóc lột về kinh tế, họ muốn coi đời là
một hình phạt nghiêm khắc hơn là một cảnh vui vẻ, hưởng phần
thưởng của kiếp trước. Các kinh Veda có tinh thần lạc
quan của một dân tộc bạo dạn, từ phương Bắc xuống; năm thế kỉ
sau, Phật Tổ đã phủ nhận giá trị của đời sống; rồi lại năm thế
kỉ sau nữa, tác giả các bộ Purana có một thái độ bi quan
mà phương Tây không hề có, trừ những lúc họ khủng hoảng nhất,
nghi ngờ hết thảy.
Phương Đông trước khi bị ảnh hưởng cuộc cách
mạng kĩ nghệ, không làm sau hiểu được tinh thần quá ham sống của
phương Tây; thấy chúng ta hăm hở hoạt động về kinh tế, tham lam
vô độ, tìm mọi cách làm việc cho mau, cho bớt mệt, mỗi ngày muốn
tiến bộ hơn, họ cho chúng ta là nông cạn, ngây thơ; họ không thể
hiểu cái tinh thần của chúng ta là tránh nhìn thẳng vào cái quan
trọng nhất mà nhìn đắm vào cái ngoại diện của sự vật; cũng như
phương Tây chúng ta không hiểu được sự thâm thuý của thái độ
thản nhiên bất động, “đình trệ”, “tuyệt vọng” của họ. Một bên là
nhiệt tâm, một bên là lãnh tâm, làm sao hiểu được nhau.
Yama hỏi Yudishthira: “Trên đời có cái gì lạ
lùng nhất?”, và Yudishthira đáp: “Lạ lùng nhất là người nào cũng
biết rằng mình sẽ chết, vậy mà vẫn tiếp tục lăng xăng làm cái
này cái nọ y như thể mình trường sinh bất tử”.
Trong anh hùng ca Mahabharata có câu: “Loài người đau khổ
về cảnh chết, già thì suy nhược. Đêm tới rồi đi, đi luôn, không
bao giờ lỡ hẹn. Khi biết rằng cái chết không khi nào ngừng một
lúc thì tôi còn dùng cái tri thức làm gì đâu?”. Và trong anh
hùng ca Ramayana, Sita đã trung tín, tận tuỵ với chồng
trong mọi cảnh cám dỗ, gian nan, chỉ xin được mỗi một phần
thưởng này, là chết:
Con đã giữ hết đạo với chồng,
Con xin được trút cái gánh nặng của đời, ôi
Mẹ Đất của con ơi!
Vậy rốt cuộc, người Ấn mộ đạo chỉ cầu được sự
giải thoát – moksha – giải thoát khỏi lòng dục rồi giải
thoát khỏi vòng sinh tử. Cảnh Niết Bàn có người hiểu là giải
thoát khỏi lòng dục, có kẻ hiểu là giải thoát khỏi vòng sinh tử,
nhưng phải giải thoát cả hai thì mới thật hoàn toàn. Hiền triết
Bhartri-Hari giảng hình thức thứ nhất như sau:
Trên cõi trần này, cái gì cũng làm cho ta sợ,
muốn hết sợ thì chỉ có cách là trút bỏ hết các ước vọng… Xưa kia
tôi thấy ngày dài quá mà lòng tôi đau khổ vô cùng vì tôi mong
được sung sướng như bọn giàu có; vậy mà chính thời đó tôi lại
thấy ngày ngắn quá vì tôi không thoả mãn được hết thị dục của
tôi. Nhưng bây giờ, thành triết nhân rồi, tôi ngồi trên phiến đá
lạnh trong hang, giữa rừng núi, nhiều khi nhớ lại cuộc đời thời
trước của tôi mà bật lên tiếng cười.
Còn Thánh Gandhi thì nghĩ tới hình thức giải
thoát thứ nhì, ngài bảo: “Tôi không muốn tái sinh”. Nguyện vọng
lớn nhất của người Ấn là thoát vòng luân hồi, khỏi phải đầu thai
vào một kiếp khác. Vĩnh phúc của con người không do đức tin,
cũng không do những việc từ thiện, mà chỉ do sự quên cái “ngã”
của mình đi, quên thật lâu chứ không phải trong chốc lát, không
cố ý, không vị lợi, tự nhiên nhi nhiên mà cho cái tiểu ngã tan
hoà vào trong cái Đại Ngã, tới mức cái tiểu ngã mất hẳn đi và do
đó không còn tái sinh nữa. Thế là cái địa ngục của cá thể tới
được cái bến Thiên đường của toàn thể, hoàn toàn nhập vào
trong cái Brahman,
nó là sức mạnh và linh hồn của vũ trụ.
IV. CÁC SỰ KÌ QUẶC VỀ TÔN GIÁO
Mê tín – Thuật chiêm tinh
– Thờ dương vật – Nghi thức – Giết vật tế thần – Tẩy uế - Các
nước thánh.
Ở một xứ mà môn thần học có chủ trương như
vậy: sống là sợ mọi thứ, là đau khổ, thì tất nhiên lòng mê tín
nảy nở mạnh vô cùng, và gặp cảnh bất như ý nào trong đời, người
ta cũng cầu nguyện thần linh phù hộ cho qua khỏi tai nạn. Cúng
bái, bùa phép trừ tà, chiêm tinh, cúng sao giải hạn, đọc thần
chú, cầu nguyện, coi tướng, coi chỉ tay đoán cát hung, bói toán,
2.728.812 thầy tu, thầy cúng, một triệu thầy số, thầy bói, một
trăm ngàn người dụ rắn, làm bùa phép, một triệu fakir
(cũng như phù thuỷ), yogi (Du già) và vô số các vị
“thánh” khác nữa; tất cả những kì quặc đó đều phải kể tới trong
lịch sử Ấn Độ. Trong một ngàn hai trăm năm, người Ấn đã có biết
bao nhiêu là Tantra (sách) thần bí về phù thuỷ, bói toàn,
chỉ những cách làm bùa phép mantra, để tín đồ cầu gì được
nấy. Các tu sĩ Bà La Môn khinh những trò ma thuật đó, nhưng mặc
cho dân chúng theo vì nghĩ rằng dân chúng tin nhảm như vậy thì
uy tín của chính họ mới vững, và có lẽ cũng vì họ cho rằng óc mê
tín của dân không sao gột được, trừ được mê tín này thì lại nảy
ra mê tín khác. Con người nào có chút lương tri thì dại gì mà
tấn công một sức mạnh có thể tái sinh dễ dàng như vậy.
Người Ấn ngây thơ – mà nhiều người Âu có học
thức thì cũng vậy – tin khoa chiêm tinh, cho rằng mỗi người có
một ngôi sao chiếu mạng, cuộc đời sẽ sung sướng hay khổ sở tuỳ
ngôi sao đó hết, nhất định như vậy. Đàn bà có tháng thì không
được ra ngoài trời vì ánh nắng mặt trời có thể làm cho mang
thai. Sách Upanishad Kaushitaki bảo cứ cúng vái trăng non
thì làm ăn sẽ phát đạt, tiền của dồi dào. Bọn thầy pháp, thầy
số, thầy bói, cứ tặng họ một chén cơm là họ kể vanh vách dĩ vãng
cùng tương lai của mình cho mà nghe sau khi coi chỉ tay, phân,
hoặc những lỗ chuột cắn trong quần áo của mình; họ lại đoán điềm
giải mộng; coi sao trên trời mà chỉ cách xu cát tị hung. Lẩm
nhẩm đọc một số câu thần chú nào đó mà chỉ riêng họ thuộc lòng,
họ làm cho ma quỉ xuất hiện, rắn và chim mê man bất tỉnh và có
thể bắt các thần linh xuống giúp những người tới cầu họ. Nếu
chịu nộp cho họ một số tiền lớn thì họ có thể làm cho quỉ thần
nhập vào thân thể kẻ thù của ta hoặc trừ tà trừ ma cho ta, có
thể làm cho kẻ thù của ta chết thình lình hoặc đau nặng. Chính
các tu sĩ Bà La Môn mỗi khi ngáp, cũng phải búng ngón tay “tách,
tách” ở bên phải bên trái để đuổi tà đi, kẻo nó chui vào miệng.
Cũng như một số nông dân châu Âu, người Ấn lúc nào cũng đề
phòng, lo sợ bị ma quỉ dòm ngó, bị kẻ thù dùng bùa phép hãm hại.
Nhưng bọn phù thuỷ còn có khả năng này mới quí: làm cho tráng
dương, làm cho người đàn bà nào đó mê mình, hoặc làm cho một
người đàn bà hiếm hoi có con được.
Người Ấn không thích gì bằng có con, dẫu cảnh
Niết Bàn, họ cũng không ao ước bằng. Vì vậy một phần mà họ trọng
cái khả năng tính dục, thờ những vật tượng trưng sự sinh sản,
con cái đầy nhà. Nhiều dân tộc khác cũng đã có một thời thờ
dương vật, duy ở Ấn là người ta thờ cái đó suốt từ thời Thượng
cổ tới thế kỉ XX, không lúc nào gián đoạn. Shiva là thần, mà
dương vật là hình ảnh, các Tantra (Chân ngôn) là kinh
sách. Shakti, tức năng lực sinh hoá, sáng tạo của Shiva
có khi qui cho nữ thần Kali (vợ Shiva), có khi là một âm bộ của
Shiva, thế là Shiva có cả âm lẫn dương mà người ta tượng trưng
bằng hai ngẫu tượng là linga và yoni, tức dương
vật và âm hộ. Ở Ấn Độ, nơi nào cũng thấy dấu vết của sự thờ
phụng sinh thực khí đó: khi thì là những dương vật trong các đền
ở Népal, ở Bénarères, vân vân, khi thì là những linga vĩ
đại ở các đền thờ Shiva, rồi những đám rước dương vật long
trọng, những hình dương vật người ta đeo ở cổ, ở cánh tay. Ngay
hai bên đường, cũng dựng các linga, người Ấn cầm trái dừa
đã lột vỏ, đập mạnh vào để tưới linga, đó là một cách
dâng lễ vật cho linga. Ở đền Rameshvaram, mỗi ngày người
ta lấy nước sông Gange chùi rửa linga rồi bán nước đó cho
những người muốn cầu tự, như chúng ta bán nước Thánh vậy. Nghi
thức thờ linga thường giản dị: chỉ cần lấy dầu hoặc một
nước riêng nào đó tưới vào, rồi lấy lá cây trang hoàng.
Dĩ nhiên, những người tinh thần thấp kém có
thể thấy một thú vui tục tĩu khi dự những đám rước dương vật và
âm hộ, nhưng đại đa số dân chúng không cho sự cung nghênh
linga và yoni có một chút ý nghĩa dâm đãng gì cả,
cũng như một tín đồ Kitô giáo nhìn hình Thánh Mẫu cho con bú vậy
thôi; riết rồi người ta quen đi, đã chẳng thấy chướng mắt mà còn
thấy thiêng liêng là khác. Hình như dân chúng từ lâu rồi không
nghĩ tới tính cách tượng trưng sinh thực khí của các vật đó nữa,
chỉ thấy đó là một cách thiêng liêng tổ tiên truyền lại để hình
dung quyền năng của thần Shiva. Người Âu và người Ấn bất đồng về
quan điểm đó thì nguyên do có lẽ tại họ bất đồng về tuổi kết
hôn; vì kết hôn sớm thì khỏi phải đè nén nhục dục, do đó không
có tà dục mà cũng không có ái tình lãng mạn. Xét chung thì ở Ấn,
luân lí và phong tục về phương diện tính dục, cao hơn ở Âu hoặc
ở Mĩ, dân chúng Ấn kín đáo hơn, bề ngoài đoan trang hơn. Trong
mọi sự thờ phụng, sự thờ phụng thần Shiva là có tính cách nghiêm
trang nhất, khắc khổ nhất, và phái thờ Linga là phái
nghiêm cách nhất ở Ấn Độ. Thánh Gandhi bảo: “Chính các du khách
phương Tây tới thăm nước chúng tôi đã phát giác cho chúng tôi
tính cách tục tĩu của nhiều tập quán từ trước chúng tôi vẫn theo
mà chẳng thấy tục chỗ nào cả. Riêng tôi, nhờ đọc một cuốn của
một nhà truyền giáo mà biết rằng cái linga của thần Shiva
có ý nghĩa tục tĩu”.
Sự thờ linga và yoni chỉ là một trong số cả ngàn,
cả ngàn lễ nghi mà một người ngoại quốc mới tới hoặc một du
khách chỉ đi ngang qua Ấn Độ, cho là hình thức, hơn nữa, là một
nửa cái tinh tuý của Ấn giáo. Mỗi hành động gì trong đời người,
dù chỉ là tắm rửa hay thay áo, cũng có một nghi thức tôn giáo.
Trong một gia đình ngoan đạo, ngày nào người ta cũng thờ cúng
các thần riêng và tổ tiên, sự thực một người Ấn theo đạo thờ
cúng ở nhà nhiều hơn là ở đền, chỉ những ngày tết, ngày hội họ
mới tới đền. Nhưng những ngày đó, tháng nào cũng có, dân chúng
vui vẻ tưng bừng, dự các đám rước lớn hoặc đi hành hương ở vô số
đền chùa. Họ không hiểu được những kinh tụng trong các nơi đó vì
kinh viết bằng tiếng sancrit, nhưng ít nhất họ cũng nhận ra được
các ngẫu tượng. Họ trang hoàng các ngẫu tượng, tô xanh tô đỏ,
nạm vàng nạm ngọc, có khi coi như một người sống vậy: đánh thức
dậy, đem tắm rửa, rồi mặc áo, đút cơm cho, có khi lại rầy nữa,
đến tối đưa đi ngủ.
Ở chỗ công cộng thì nghi thức chính là cúng
dường tế lễ, còn ở chỗ riêng tư thì nghi thức chính là tẩy uế.
Người Ấn không cho sự cúng thức ăn chỉ là chuyện bề ngoài đâu;
họ thực tình tin rằng nếu không cúng thì các thần linh sẽ đói. Ở
Ấn cũng như ở mọi xứ khác, khi loài người còn ăn thịt người, thì
người ta giết người để tế thần. Nữ thần Kali đặc biệt khoái thịt
người, nhưng các tu sĩ Bà La Môn giảng rằng nữ thần chỉ muốn ăn
thịt bọn hạ tiện thôi.
Rồi quan niệm về luân lí tiến bộ, các thần linh đành bỏ cái món
thịt người mà chịu ăn thịt các loài vật vậy mà được ăn hả hê,
thịt loài vật ê hề hơn thịt người nhiều. Các ngài thích nhất là
thịt dê, nên người ta cúng rất nhiều dê. Đạo Phật và đạo Jaïn
bãi bỏ cái tục cúng thịt đó đi, nhưng khi Ấn giáo thịnh trở lại,
chiếm địa vị của Phật giáo thì người ta lại cúng thịt. Ngày nay,
tục đó vẫn còn, tuy mỗi ngày mỗi suy. Nhưng nói cho ngay, các tu
sĩ Bà La Môn không chịu dự một cuộc lễ nào mà tín đồ thọc tiết
loài vật để tế thần.
Người Ấn mỗi ngày bỏ ra mấy giờ để tẩy uế, vì về sự vệ sinh sạch
sẽ, thì Ấn giáo không thua gì khoa vệ sinh học tân tiến nhất.
Lúc nào người Ấn cũng sợ bị nhiễm uế - ăn nhằm một thức ăn không
hợp với tôn giáo, đụng nhằm một đống rác hoặc một người Shudra,
một kẻ ở ngoài các tập cấp, một thây ma, và có cả trăm cách khác
nữa. Dĩ nhiên, đàn bà có tháng hoặc nằm chỗ, nhất định là ô uế
rồi; vì vậy luật Bà La Môn bắt họ phải ở riêng một chỗ và phải
theo những luật vệ sinh thật tỉ mỉ. Bị nhiễm uế - chúng ta gọi
là bị nhiễm độc hay bị lây – người Ấn phải làm những nghi thức
tẩy uế; nếu là trường hợp nhẹ thì cần tưới nước thánh; nếu nặng
thì nghi thức rắc rối hơn, nếu cực nặng thì phải làm phép
Panchagavia rất đáng sợ. Phép này là một cách trừng phạt kẻ
nào phạm phải những lỗi nặng, không theo luật của tập cấp (chẳng
hạn tội rời bỏ Ấn Độ): kẻ phạm tội phải uống một thứ nước trộn
“năm chất” của con bò cái linh thiêng: sửa lỏng, sửa đặc lại, bơ
nước, nước tiểu và phân”.
Tôn giáo còn bắt mỗi ngày phải tắm một lần,
điểm đó hợp với thói quen của chúng ta hơn: ở một xứ nhiệt đới,
qui tắc vệ sinh thực là có lợi; người ta khoác cho nó một hình
thức tôn giáo để chắc chắn được tín đồ giữ đúng. Họ đã xây những
cái hồ “thiêng”, người ta cho nước những con sông nào đó là
thiêng, và bảo tắm ở đó thì tẩy uế được cả cơ thể lẫn linh hồn.
Ngay từ thời Huyền Trang, đã có cả triệu người Ấn mới sáng sớm
nhảy xuống sông Hằng (Gange) tắm; từ hồi đó, không ngày nào là
mặt trời mọc trên con sông đó mà không khí không vang lên những
lời cầu nguyện của hằng hà sa số tín đồ muốn được tẩy uế và giải
thoát; thấy vầng dương ló dạng là họ đưa hai tay về phía mặt
trời, miệng niệm hoài huỷ mỗi một âm “Om, Om, Om”. Vì Bénarès ở
gần chỗ con sông Jumna đổ vào con sông Gange, cả hai đều linh
thiêng, nên châu thành đó thành một thánh địa, mỗi năm có mấy
triệu tín đồ tới hành hương, có những ông già bà cả từ rất xa
cũng lại đó tắm trên sông để mong khi chết được trong sạch, gột
được hết tội lỗi. Người ta không thể không rùng mình khi nghĩ
rằng từ hai ngàn năm nay, những tín đồ đó lại Bénarès để run lập
cập nhúng mình xuống nước lạnh mùa đông và ngại ngùng hít cái
mùi thịt cháy của các xác thiêu trên những giàn hoả gần đó, và
suốt thế kỉ này qua thế kỉ khác, tụng niệm cũng những lời kinh
đó, khấn vái cũng những thần linh im lặng đó. Thần không đáp,
nhưng không vì vậy mà dân chúng không sùng bái, và người Ấn ngày
nay còn tin hơn bao giờ hết những vị
thần từ thời xửa thời xưa vẫn một mực thản nhiên nhìn cái
cảnh đói rách bi thảm của họ.
V. CÁC VỊ THÁNH VÀ CÁC
NGƯỜI VÔ TÍN NGƯỠNG
Cách tu để thành thánh –
Các tà giáo – Tự do tín ngưỡng – Tổng quan về tôn giáo Ấn Độ.
Cơ hồ như không đâu nhiều thánh bằng Ấn Độ,
tới nỗi các du khách có thể nghĩ rằng thánh là một sản vật tự
nhiên của xứ đó, cũng như cây thẩu (nha phiến) hoặc loài rắn.
Đối với một người Ấn mộ đạo thì có ba con đường tu để thành
thánh: con đường Trầm tư, tức Inana-yoga; con đường Hành
động, tức Karma-yoga; và con đường Từ ái, tức
Bhakti-yoga. Trong bốn Ashrama, tức giai đoạn để tới
bực thánh, các Bà La Môn chấp nhận ba con đường đó. Người Bà La
Môn trẻ trước hết phải là một Bramachari đã, nghĩa là tự
giữ tinh khiết trước khi có vợ, phải tụng niệm, cúng bái, học
hỏi, nói đúng sự thật và hết lòng thờ Guru, thầy của
mình. Khi có vợ rồi – mà đủ mười tám tuổi thì phải cưới sơm sớm
– thanh niên đó bước qua giai đoạn thứ nhì của đời một Bà La
Môn, giai đoạn Grihastha, tức gia trưởng, và phải lo có
con trai để săn sóc mình và cúng giỗ tổ tiên. Qua giai đoạn thứ
ba (ngày nay ít người theo), người nào nguyện thành thánh, phải
dắt vợ con vào ở ẩn trong rừng núi, vui vẻ sống đời một
Vanaprastha, có ái ân với nhau thì chỉ để cho có con thôi.
Sau cùng, muốn đạt mức cao nhất, thành thánh thì người Bà La Môn
khi về già, phải bỏ nốt vợ, thành một Sannyasi, nghĩa là
“người đã từ bỏ xã hội”, từ bỏ hết của cải tiền bạc, cắt đứt mọi
luyến ái, hệ luỵ; chỉ còn giữ mỗi một miếng da sơn dương để che
mình, một chiếc gậy để chống và một cái bầu nước để uống. Mỗi
buổi sáng phải trát tro lên đầy mình, thường uống “năm chất”
[của bò cái thiêng] và khất thực để sống. Qui luật Bà La Môn
bảo: “Một Sannyasi phải coi mọi người là bình đẳng. Không
được để cho một biến cố làm động lòng, phải thản nhiên nhìn các
cuộc cách mạng lật đổ các triều vua, mà chỉ nhắm mục đích duy
nhất là luyện cho được cái sáng suốt tâm linh để hoà đồng với
Thượng Đế mà chúng ta bị lòng dục và vật chất chung quanh làm
cho cách biệt”.
Trong cái không khí tín ngưỡng rất mực thành
kính đó, đôi khi người ta nghe thấy nổi lên một giọng lạc điệu
hẳn, trái với giọng nghiêm trang thường có của người Ấn. Khi nào
Ấn gặp thời phú thịnh thì dĩ nhiên số người hoài nghi tăng lên,
vì nhân loại càng điêu đứng thì càng tôn sùng thần thánh, càng
sung sướng thì càng nghi ngờ các ngài. Chúng tôi đã nói về các
Charvaka và các bọn tà giáo khác ở thời Phật Tổ. Còn một
cuốn sách cũng gần cổ như vậy nhan đề là một từ ngữ rất dài:
Shwasamvedyopanishad, tóm tắt tất cả các môn thần học vào
trong bốn điều dưới đây: 1.- Không có sự đầu thai, không có
Thượng Đế, Thiên đường, Địa ngục gì cả, không có cả vũ trụ; 2.-
tất cả các sách tôn giáo truyền lại đều là tác phẩm của bọn điên
rồ tự cao tự đại. 3.- Thiên Nhiên sáng tạo mọi vật rồi Thời Gian
huỷ diệt mọi vật, người nào cũng được nhận một phần sướng một
phần khổ, sướng khổ nhiều hay ít không phải là vì ta làm nhiều
điều thiện hay nhiều điều ác. 4.- dân chúng bị các lời đẹp đẽ
[của các tu sĩ] mê hoặc, nên bám lấy các thần, các đền, các tu
sĩ, chứ sự thật thần Vichnou với một con chó thì cũng y hệt
nhau, chẳng khác gì cả.
Trong Thánh kinh Ki Tô giáo, chép thêm
thiên Truyền-đạo-thư (Ecclésiastre, trong Cựu Ước), là
điều khờ khạo ra sao, thì trong kinh điển Phật giáo viết bằng
tiếng Pali, chép thêm thiên về “Những câu hỏi của vua Milida”
cũng khờ khạo như vậy. Thiên đó cũng cổ như Ki Tô giáo. Vua Hi
Lạp – Bactriane
tên là Ménandre,
cuối thế kỉ thứ I trước Công nguyên thống trị miền Bắc Ấn, hỏi
hoà thượng Nagasena (Na Tiên) nhiều câu về tôn giáo. Nagasena
đáp rằng tôn giáo không phải chỉ giúp cho người tự giải thoát
được khỏi cảnh khổ, mà còn chỉ bảo con đường giác ngộ, chẳng cần
biết có Thiên Đường, Thượng Đế hay không, vì sự thực chẳng có
Thiên Đường mà cũng chẳng có Thượng Đế. Anh hùng ca
Mahabharata mạt sát những kẻ hoài nghi, không tin thần,
không tin có linh hồn, chẳng cần biết chết đi, linh hồn diệt hay
bất diệt; những kẻ như vậy (cũng vẫn là lời trong anh hùng ca)
“đầy dẫy trên mặt đất” và chết đi sẽ phải chịu hình phạt mà
thành chó rừng ăn xác thú: một con chó rừng đó bảo rằng sở dĩ nó
bị đầu thai mà sống cái kiếp khốn khổ tàn nhẫn, ăn những xác hôi
thối như vậy, vì một kiếp trước nó là “một người duy lí, chỉ
trích cái kinh Veda… đánh chửi các tu sĩ… chẳng tin gì
cả, hoài nghi hết thẩy”.
Bộ Bhagavad-Gita nhắc tới một bọn tà
giáo không tin có Thượng Đế và bảo “thế giới chỉ là một ổ truỵ
lạc”. Chính các tu sĩ Bà La Môn cũng nhiều khi hoài nghi nhưng
họ quá hoài nghi nên không đả đảo tín ngưỡng của dân chúng. Và
mặc dầu các thi sĩ Ấn đa số là mộ đạo, nhưng cũng có những nhà
như Kabir
và Vemana chủ trương một thứ hữu thần luận rất khoáng đạt, tự
do.
Vemana, thi sĩ miền Nam Ấn Độ, sống ở thế kỉ
XVII khinh các ẩn sĩ tu hành khổ hạnh, các cuộc hành hương và
chế độ tập cấp:
Đó là đời sống cô độc của con chó! Lối trầm
tư của con sếu! Tiếng hát của con lừa! Lối tắm gội của con
ếch!... Trát tro lên đầy mình thì có khoẻ mạnh hơn tí nào không?
Các người chỉ nên nghĩ tới Thượng Đế. Còn ngoài ra, một con lừa
cũng có thể lăn trong bụi cát như các người vậy… Những cuốn sách
người ta gọi là Veda chỉ như những con điếm, lừa gạt người ta mà
ý tứ thật khó dò, còn cái ý thức rằng có Thượng Đế ở đâu đó, thì
như một người đàn bà lương thiện… Trát tro trắng vào mình, các
người cho như vậy là làm mất được mùi rượu đi ư? Cột một dây
thừng vào cổ, như vậy đủ cho các người thành một người “sinh hai
lần” ư?... Tại sao các người cứ chửi hoài bọn ti tiện
(paria)?... Người nào bảo: “Tôi chẳng biết gì hết” là người ấy
khôn ngoan nhất.
Thật là một điều lạ, những lời mạt sát kịch
liệt như vậy mà không bị trừng trị trong cái xã hội bị một tập
cấp tăng lữ thống trị về tinh thần, là Ấn Độ. Trừ vài cuộc đàn
áp của ngoại nhân, có lẽ vì các ông vua không phải là người Ấn
đó không biết thiết tha gì với các tín ngưỡng của người Ấn, dân
chúng được hưởng sự tự do tư tưởng vô cùng cao hơn châu Âu thời
Trung cổ, thời mà hai nền văn minh Ấn, Âu cũng ngang nhau. Các
tu sĩ Bà La Môn thực ra đã thống trị tinh thần dân chúng một
cách sáng suốt và khoan dung. Họ trông vào óc thủ cựu của dân
nghèo để duy trì chính giáo, và họ không bị thất vọng. Rồi khi
các tà giáo và các tôn giáo ngoại lai được phổ biến trong dân
chúng tới mức có thể gây mối nguy cơ được thì họ bao dung hết và
hút cả vào cái hang mênh mông chứa các tín ngưỡng cố hữu của Ấn
Độ, thêm hay bớt một thần linh nữa thì có hại quái gì. Vì vậy mà
không bao giờ thấy những sự thù hằn giữa các giáo phái trong xã
hội Ấn, còn giữa Ấn và Hồi thì khác hẳn. Ở Ấn đã có những lần đổ
máu vì tôn giáo, nhưng toàn là do bọn ngoại xâm gây ra cả. Người
Hồi giáo và Ki Tô giáo vô Ấn rồi gây ra những cuộc đàn áp ngoại
đạo; người Hồi muốn mua chỗ ngồi trên Thiên Đường bằng máu của
bọn “bất trung” [tức bọn dị giáo, không thờ Allah]; còn bọn Bồ
Đào Nha, vừa mới chiếm thành Goa xong là thành lập ngay Tôn giáo
Pháp đình, đem cái văn minh phương Tây đó vô Ấn.
Nếu chúng ta rán lục lọi trong cái rừng tín ngưỡng và dị đoan đó
để tìm một vài yếu tố chung thì chúng ta thấy rằng hầu hết các
người Ấn đều thờ thần Shiva và thần Vichnou, đều trọng các kinh
Veda, các tu sĩ Bà La Môn, con bò cái và đều coi các bộ
Mahabharata và Ramayana là sách thiêng hàng nhì,
dưới các Veda, chứ không phải chỉ là những anh hùng ca
giá trị văn chương. Về phương diện đó, có điểm này nhiều ý nghĩa
nhất là các thần linh, giáo lí của Ấn ngày nay không còn là
những thần linh, giáo lí trong các kinh Veda nữa; như vậy
là thổ dân Ấn Độ và các dân tộc Dravidien đã át được phần nào
dân tộc Aryen thời Veda, mà Ấn giáo là biểu hiện của sự lấn áp
đó. Sự xâm lăng của ngoại nhân, sự cướp bóc, sự khốn khổ đã làm
cho da thịt và tinh thần Ấn Độ mang những vết thương nặng cho
nên họ đã tìm cách trốn vào trong thần thoại và tưởng tượng để
quên cái kiếp trần. Mặc dầu có những tư tưởng cao thượng siêu
thoát, đạo Phật cũng như đạo khắc kỉ, vẫn là thứ triết lí của
hạng người lệ thuộc. Phật giáo do một vị Hoàng tử sáng lập thật
đấy, nhưng vẫn khuyên ta diệt dục, từ bỏ mọi sự chiến đấu, ngay
cả sự chiến đấu cho tự do, cho cá nhân, cho quốc gia, mà coi
thái độ tiêu cực rầu rĩ là lí tưởng của cuộc sống. Chắc chắn,
thời tiết nóng nực làm cho người Ấn kiệt sức, đã ảnh hưởng tới
thứ triết lí đó, tới cách sống sao cho bớt mệt đó. Sau Phật
giáo, Ấn giáo tiếp tục làm cho Ấn Độ suy nhược, vì theo chế độ
tập cấp mà dân chúng Ấn phải vĩnh viễn chịu cái ách của giai cấp
tăng lữ; Ấn giáo tạo ra những thần linh thản nhiên, không quan
tâm tới luân lí,
duy trì trong bao nhiêu thế kỉ những tục lệ dã man, như tục giết
người để tế thần, tục hoả thiêu quả phụ, mà nhiều nước khác từ
bỏ từ lâu; tôn giáo đó cho sống là khổ, không sao tránh được,
làm cho tín đồ mất hết nghị lực, sinh ra chán đời, ủ rũ; rồi lại
cho mọi sự trên đời chỉ là ảo ảnh, cho nên không còn phân biệt
tự do và nô lệ, thiện và ác, sự đồi truỵ và sự gắng sức tiến
lên. Một người Ấn có tinh thần đã nói: “lần lần Ấn giáo… đã trở
thành một thứ thờ ngẫu tượng, hủ hoá, chỉ còn những nghi thức có
tính cách hoàn toàn cổ truyền, nghi thức là tất cả mà bản thể
chẳng là gì hết”. Chịu chế độ bạo ngược của các tu sĩ, khắp xứ
chỗ nào cũng thấy đầy những “thánh”. Ấn Độ hiện nay vẫn còn ngấm
ngầm mà nóng lòng đợi thời Phục hưng, thời Cải cách và Thời đại
Ánh sáng của họ.
Tuy nhiên khi suy nghĩ về Ấn, chúng ta nên giữ tinh thần bình
tĩnh của sử gia; phương Tây chúng ta cũng có thời Trung cổ, và
chúng ta đã thích sự thần bí hơn khoa học, sự thống trị của các
tu sĩ hơn là sự thống trị của tiền bạc – biết đâu chừng, một
ngày kia chúng ta chẳng trở lại tình trạng đó? Chúng ta không
thể phê phán các nhà thần bí của Ấn được vì những quan niệm của
chúng ta thường căn cứ trên kinh nghiện bản thân và những dữ
kiện vật chất mà một tu sĩ Ấn cho là hời hợt bề ngoài, không có
chút giá trị gì cả.
Mà xét cho cùng thì biết đâu chừng, phú quí, quyền hành, chiến
tranh, xâm lăng, tất cả những cái đó chẳng phải là những ảo ảnh,
không đáng cho một người có óc già giặn quan tâm tới? Và cái
khoa học của chúng ta này, căn cứ trên những nguyên tử có tính
cách giả thiết, những nguyên tử kì quặc đó, biết đâu chừng chẳng
là một tín ngưỡng như mọi tín ngưỡng khác, một tín ngưỡng
lạ lùng nhất, khó tin nhất mà cũng phù du nhất? Và có lẽ, phương
Đông chán cái thân phận lệ thuộc và nghèo khổ, sắp nghiên cứu
khoa học, phát triển kĩ nghệ, vào cái lúc mà phương Tây chán
những máy móc chỉ làm hại họ, những môn học chỉ đem lại thất
vọng cho họ, cũng sắp thấy các châu thành, máy móc của họ bị
cách mạng và chiến tranh tàn phá khiến họ hoá ra điêu đứng mà
muốn trở về đời sống ruộng đồng, để tạo một tín ngưỡng thần bí
nào mới mẻ hầu có thể lấy lại chút can đảm cần thiết để đương
đầu với cái đói, sự tàn nhẫn, sự bất công và cái chết.
A, hài hước thay lịch sử!
Tác giả muốn ám chỉ Thánh
Gandhi. (ND).
Không biết Subhadda được nói ở đây
có phải là người cuối cùng, một du sĩ, được Đức Phật
giáo hoá, lúc Ngài sắp tịch không? (Goldfish).
Trong một Purana (tên chung chỉ
các sách dạy giáo lí cho các tập cấp không phải Bà La
Môn) có chép huyền thoại đặc biệt này: một ông vua đáng
được lên Thiên đường mà tự nguyện ở lại Địa ngục để chia
sẻ nỗi khổ của những kẻ bị đày xuống đó, cho tới khi nào
họ được cứu rỗi hết rồi mới lên Niết Bàn mà thành Phật.
Tử ngữ (sách in sai thành từ ngữ):
tác giả ám chỉ tiếng sanscrit. (Goldfish).
Fergusson bảo: “Tín đồ Phật giáo
đã đi trước Giáo hội La Mã… cả năm thế kỉ trong việc
sáng lập và thi hành các cuộc lễ và các nghi thức chung
cho cả hai tôn giáo”. Còn Edmunds thì vạch các chi tiết
để làm nổi bật lên những điểm giống nhau các Thánh kinh
Ki Tô giáo và Phật giáo. Tuy nhiên sự hiểu biết của
chúng ta về nguyên thuỷ của các tục lệ và tín ngưỡng đó
còn mơ hồ quá, nên chưa thể kết luận dứt khoát rằng Ki
Tô giáo có chịu ảnh hưởng của Phật giáo không.
Bản tiếng Pháp là: la sagesse a
posteriori mà tôi có thể dịch là cái khôn hậu luận,
nghĩa là thấy cổ nhân lầm lẫn rồi, sử gia mới rút ra một
kết luận như tỏ rằng mình khôn hơn cổ nhân. (ND).
Hiện nay ở Ấn chỉ còn khoảng ba
triệu người theo đạo Phật, tức chưa đầy một phần trăm
dân chúng.
Thái Lan: nguyên văn tiếng Anh là
Siam. Trong cuốn Nguồn gốc văn minh, cụ Nguyễn Hiến Lê
dịch là Xiêm và ghi thêm trong phần chú thích: “Tên bây
giờ là Thái Lan. Cuốn này viết từ trước thế chiến thứ
nhì”. (Goldfish).
Kandy là kinh đô của Tích Lan, ở
trên một cao nguyên. (ND).
Chính ở đền Kandy này, người ta
còn giữ cái “răng của mắt” (!) Phật Tổ dài năm phân,
trực kính hai phân rưỡi. Răng đựng trong cái hộp trang
sức bằng nhiều bảo vật, cất kỉ một nơi không cho công
chúng thấy; người ta đặt chiếc hộp trong một cái kiệu
khiêng đi trong một cuộc rước long trọng thu hút không
biết bao nhiêu tín đồ hành hương từ khắp nơi ở Á châu
tới cung chiêm. Trên tường của ngôi đền, có những bích
hoạ vẽ Phật tử từ bi đang giết các kẻ phạm tội ở Địa
ngục. “Đời sống” của bậc vĩ nhân nào sau khi chết, cũng
bị hậu thế làm sai hẳn đi, mất chân tướng đi một cách
nhơ nhớp.
[“Răng của mắt” Phật: nguyên văn
tiếng Anh là “eye-tooth of Buddha”, tức răng nanh của
Phật. Theo Tỳ Kheo Indacanda (Trương Đình Dũng) thì đó
là “xá lợi răng bên trái của đức Phật” (theo
http://suoinguonhanhphuc.com/InfoShow.aspx?InfoID=497).
(Goldfish)].
Tức Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
(Goldfish).
Ở Cao Miên: bản tiếng Anh chép
là: In Cambodia, or Indo-China, nghĩa là: ở Cao Miên
hoặc Đông Dương. (Goldfish).
Tri-Murti: Bản tiếng Anh chép là
Trimurti. Bảng Danh từ Ấn, Hồi ở cuối sách ghi:
Trimurti: Tượng thần Shiva có ba mặt. (Goldfish).
Sau lần điều tra năm 1921, các
tôn giáo Ấn Độ chia ra như: Ấn giáo 216.261.000 tín đồ;
Jaïn 1.178.000; Phật giáo 11.571.000 (mà trên đất Ấn có
khoảng 3.000.000 còn lại bao nhiêu ở Tích Lan và Miến
Điện); đạo Zoroastre 102.000; Hồi giáo 68.735.000; Do
Thái giáo 22.000; Ki Tô giáo 4.754.000 (đa số người Âu).
Bản tiếng Anh chép là: red clay,
nghĩa là một thứ đất sét màu đỏ. (Goldfish).
Nhưng cũng phải nhận rằng tên
Shiva cũng như tên Brahmane không thấy có trong Rig
Veda. Nhà ngữ pháp học Patanjali bảo có những hình ảnh
Shiva và các tín đồ thờ thần đó vào khoảng 150 trước
Công nguyên.
Nguyên văn: euphemism, nghĩa là
cách nói trại, lời nói trại, uyển ngữ. (Goldfish).
Đáng để ý rằng các tu sĩ trong
phái thờ thần Shiva, rất ít khi là người Bà La Môn; đa
số Bà La Môn chê những nghi tiết kì cục, quá lố trong sự
thờ phụng Shakti.
Chẳng hạn trong kinh Veda đã có
thần Mặt trời rồi, sau bộ lạc X, bộ lạc Y cũng có thần
Mặt trời mà gọi tên khác, và người Bà La Môn cũng thờ
chung ba vị đó mà không sợ trùng.
Thánh Mẫu: nguyên văn là Madonna.
(Godfish).
Trích trong báo cáo trình lên
chính quyền Ấn về công việc kiểm tra năm 1901: “Sau khi
nghiên cứu chúng tôi rút ra kết luận này: đại đa số
người Ấn tin chắc có một Đấng Tối Cao”.
Đức Thánh Mẫu: nguyên văn là
Mary. (Goldfish).
Nghĩa tựa như tiếng Thầy hay Phu
tử của ta. (ND).
Advaitam (Bất nhị): đây là điểm
cốt yếu của triết lí Ấn Độ, coi đoạn sau.
Nghĩa là thời đó mà người Ấn đã
nghĩ như các nhà bác học thời nay. (ND).
Mỗi malhayuga là 4.320.000 năm
thì một yuga, tức 1/4 malhayuga, là 1.080.000 năm, ba
yuga phải là 3.240.000 năm. Kaliyuga, yuga cuối cùng
cũng bằng 1.080.000 năm, trừ 5.035 đã qua thì phải còn
1.074.965 năm. Không hiểu tác giả tính cách nào mà có
con số 3.888.888 và 426.965? (Goldfish).
Hỏi một người Ấn tại sao chúng ta
không còn nhớ chút gì về những kiếp trước của ta, thì họ
sẽ đáp rằng lí do cũng như chúng ta đã quên hết những
điều trong tuổi thơ của mình; họ bảo kiếp này chúng ta
được một địa vị, một chức phận nào đó là nhờ những kiếp
trước, cũng như người lớn làm nên hay không là tại tuổi
thơ siêng năng, ngoan ngoản hay không.
Một tu sĩ ăn mạnh lạ lùng, bảo
rằng sở dĩ vầy vì kiếp trước ông ta là một con voi, và
luật karma cho ông ta làm người, thay đổi cơ thể ông mà
quên không giảm sức ăn mạnh của con voi, tiền thân của
ông. Một người đàn bà mà hôi nồng nặc thì họ cho rằng
tại kiếp trước là cá.
Người Ấn tin rằng có bảy cõi
“dương” mà cõi thứ nhất là trần gian, còn sáu cõi kia cứ
ở bực cao lần lần lên; có hai mươi mốt cõi âm chia làm
bảy khu…
…Các kẻ ác chỉ chịu hình phạt trong
một thời gian thôi nhưng có rất nhiều thứ hình phạt.
Theo tu viện trưởng Dubois thì các cảnh Địa ngụ Ấn không
thua gì cảnh Địa ngục mà thi hào Dante đã tả: thì ra
những nỗi sợ của loài người ở đâu cũng nhiều vô số kể mà
óc tưởng tượng cuồng bạo của họ cũng phong phú vô cùng.
“Lửa, sắt, rắn, rết, ác thú, mãnh cầm, mật đắng, độc
dược, các mùi hôi thối, tóm lại không thiếu thứ gì mà
không dùng để trừng trị kẻ có tội. Kẻ thì xỏ dây vào mũi
rồi đặt lên những lưỡi búa rất bén cứ thế lôi hoài; kẻ
thì buộc phải chui qua một lỗ kim; kẻ phải nằm giữa hai
phiến đá dẹp mà quỉ sứ đẩy lại gần nhau để kẹp tội nhân
cho thật đau chứ không tới nỗi chết, kẻ kia bị những con
kên kên đói mổ mắt để ăn; có cả ngàn kẻ phải lội bì bõm
hoài trong một cái ao đầy nước tiểu của chó và nhày nhụa
nước mũi của người”. Có lẽ hạng người Ấn thấp kém nhất
và các nhà thần học nghiêm chỉnh nhất tin như vậy thật.
Chúng ta đừng chê họ mà nên nhớ rằng chính cảnh Địa ngục
của chúng ta có nhiều hình phạt không thua gì họ mà lại
còn vĩnh cửu nữa, đã xuống đó thì bị đày hoài không được
trở lên cõi trần.
Chế độ tập cấp của Ấn Độ, ít nhất
về lí thuyết, dựa vào sự tin tưởng ở luật Quả báo
(karma) và luân hồi. Vì người Ấn theo chính giáo cho
rằng tuỳ linh hồn trong các kiếp trước đã hành động ra
sao mà kiếp này đầu thai vào tập cấp này hay tập cấp
khác; như vậy tập cấp là một trật tự trời tạo nên, nếu
sửa đổi thì sẽ bị tội bất kính.
Schopenhauer cũng như Phật tổ cho
mọi nỗi khổ đều do con người ham sống và ham sinh đẻ để
duy trì giòng giống, ông khuyên mọi người tự ý tuyệt tự
để cho nòi giống tuyệt diệt. Còn Heine thì không có đoạn
thơ nào mà không nói đến cái chết, hai câu dưới đây của
ông thật có cái giọng Ấn Độ:
Êm đềm thay giấc ngủ, nhưng cái chết
còn êm đềm hơn;
Sướng hơn nữa là đừng sinh để khỏi
tử.
Kant mỉa mai tinh thần lạc quan của
Leibnitz, hỏi: “Có con người nào óc lành mạnh, sau khi
đã sống một thời gian, suy tư về sự vô ích của đời người
rồi mà còn muốn bắt đầu diễn lại cái bi kịch của nhân
sinh trong bất kì điều kiện, hoàn cảnh mà người đó đã
trải qua”.
Theo chú thích trong bản tiếng
Anh thì đoạn đối thoại này cũng trích trong Mahabharata.
(Goldfish.
Chúng ta nên phân biệt: Brahman:
linh hồn vũ trụ; Brahamane: Bà La Môn; Brahma: tên vị
thần; Brahmana: Phạn Chí, tên sách thần chú của các Bà
La Môn viết. (ND).
Tới năm 1854 mà người ta còn thấy
những vụ giết người để tế thần. Xưa kia người ta tin
rằng có những người rất mộ đạo tự hiến thân để tế thần,
chẳng hạn những người tự ý đâm vào xe trước thần
Juggernaut (tiếng Ấn là Jagannath) cho xe cán; nhưng
ngày nay người ta bảo những trường hợp đó rất hiếm, có
lẽ là do tai nạn hơn là do ý muốn quyên sinh để tế thần.
(Tên châu thành thờ vị thần đó cũng gọi là Juggernaut).
Tu viện trưởng Dubois bảo: “Người
Ấn cho nước tiểu là thứ công hiệu nhất để tẩy mọi thứ ô
uế. Tôi đã thấy những người Ấn mê tín đi theo các con bò
cái khi nó ra đồng ăn cỏ và rình hứng nước tiểu nóng hổi
quí báu của nó bằng những bình bằng đồng, rồi đem về
nhà; có khi họ đưa tay ra hứng uống ngay một ngụm, còn
lại thì dùng để rửa mặt”.
Tu viện trưởng Dubois luôn luôn
nghi ngờ các tín ngưỡng không phải tín ngưỡng của ông,
viết thêm rằng: “Các người Ấn trí thức thường cho đa số
các sannyasi chỉ là bọn bịp bợm”.
Tôi thêm chữ vua vì trong bản
tiếng Anh chép là: King Milinda. (Goldfish).
Bactriane là Tây Vực thời xưa.
(ND).
Người Ấn gọi là Milinda (Di Lan
Đà). (ND).
Kabir: sách in là Kabie, tôi sửa
lại theo bản tiếng Anh. (Goldfish).
Chắc tác giả muốn nói một thứ
luân lí nào đó thôi. (ND).
---o0o---
Nguồn: vnthuquan.net
Trình bày: Anna
Cập nhật: 01-9-2011