II. PHẨM TIẾNG RỐNG CON SƯ TỬ
(I) (11) SAU KHI AN CƯ
1. Như vậy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindikam, rồi Tôn giả Sàrioutta
đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con đã sống an cư
trong mùa mưa tại Sàvatthi. Bạch Thế Tôn, nay con muốn ra đi du hành trong
quốc độ.
- Này Sàriputta, nay Thầy hãy làm những
gì Thầy nghĩ là hợp thời.
Rồi Tôn giả Sàriputta từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra
đi.
2. Rồi một Tỷ-kheo, sau khi Tôn giả
Sàriputta ra đi không bao lâu, bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta
xâm phạm con, đã bỏ đi du hành không có xin lỗi con.
Thế Tôn cho gọi một Tỷ-kheo:
- Này Tỷ-kheo, hãy đến nhân danh
Ta, nói với Sàriputta: "Thưa Hiền giả, bậc Đạo Sư cho gọi Hiền giả".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy, vâng đáp Thế Tôn,
đi đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến, nói với Tôn giả Sàriputta:
- Thưa Hiền giả Sàriputta, bậc Đạo
Sư cho gọi Hiền giả.
- Thưa vâng, này Hiền giả.
Tôn giả Sàriputta vâng đáp Tỷ-kheo
ấy. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahà Moggallàna và Tôn giả Ànanda cầm chìa
khóa, đi từ tinh xá này đến tinh xá khác nói rằng:
- Chư Tôn giả hãy đến! Chư Tôn
giả hãy đến! Nay Tôn giả Sàriputta sẽ rống tiếng rống con sư tử trước
mặt Thế Tôn.
3. Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến
Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên Thế Tôn,
nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên:
- Ở đây, này Sàriputta, một đồng
Phạm hạnh có điều bất mãn với Thầy: "Bạch Thế Tôn, Tôn giả
Sàriputta xâm phạm con đã ra đi không có xin lỗi con".
4. - Thật vậy, bạch Thế Tôn, với
ai không an trú thân niệm trên thân, người ấy, ở đây, sau khi xâm phạm
một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi.
Ví như, bạch Thế Tôn, trên đất,
người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ bất tịnh, quăng phẩn uế, quăng nước
tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo
âu, không xấu hổ, hay không nhàm chán. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an
trú với tâm như đất, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng, không hận, không
sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây,
sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, không
có xin lỗi.
Ví như, bạch Thế Tôn, trong nước
người ta rửa đồ tịnh, rửa đồ bất tịnh, rửa sạch phẩn uế, rửa
sạch nước tiểu, rửa sạch nước miếng, rửa sạch máu, rửa sạch mủ;
tuy vậy nước không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán. Cũng vậy, bạch
Thế Tôn, con an trú với tâm như nước, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng,
không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm, người
ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi
du hành, không có xin lỗi.
Ví như, bạch Thế Tôn, lửa đốt
các đồ tịnh, đốt các đồ bất tịnh, đốt phẩn uế, đốt nước tiểu,
đốt nước miếng, đốt mủ, đốt máu; tuy vậy lửa không lo âu, không xấu
hổ, không nhàm chán. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm như lửa,
rộng rãi, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với
ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng
Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi.
Ví như, bạch Thế Tôn, gió thổi
các đồ tịnh, thổi các đồ bất tịnh, thổi phẩn uế, thổi nước tiểu,
thổi nước miếng, thổi mủ, thổi máu; tuy vậy gió không lo âu, không xấu
hổ, không nhàm chán. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm như gió,
rộng rãi, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với
ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng
Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi.
Ví như, bạch Thế Tôn, một miếng
vải lau chùi lau các đồ tịnh, lau các đồ bất tịnh, lau phẩn uế, lau
nước tiểu, lau nước miếng, lau mủ, lau máu; tuy vậy miếng vải lau chùi
không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con
an trú với tâm như miếng vải lau chùi, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng,
không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm, người
ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi
du hành, không có xin lỗi.
Ví như, bạch Thế Tôn, con trai của
một người Candàla (Chiên-đà-la: hạ liệt) hay con gái của một người
Candàla, với tây cầm bát ăn xin, mặc đồ rách rưới, đi vào làng hay đi
vào thị trấn, với một tâm trạng hạ liệt. Cũng vậy, bạch Thế Tôn,
con an trú với tâm giống như con Chiên-đà-la, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng,
không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm, người
ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi
du hành, không có xin lỗi.
Ví như, bạch Thế Tôn, một con bò
đực, với sừng bị cưa, hiền lương, khéo điều phục, khéo huấn luyện,
đi lang thang từ đường này đến đường khác, từ ngã tư này đến ngã
tư khác, không hại một ai với chân hay với sừng. Cũng vậy, bạch Thế Tôn,
con an trú với tâm giống như một con bò đực với sừng bị cưa, rộng rãi,
rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không
an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm
hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi.
Ví như, bạch Thế Tôn, một nữ
nhân hay một nam nhân còn tr3 tuổi, thanh niên, ưa thích trang điểm, sau khi
gội đầu, sẽ lo âu, xấu hổ, nhàm chán nếu xác rắn, hay xác chó, hay
xác người được cuốn vào cổ người ấy. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con
lo âu, xấu hổ, nhàm chán với cái thân đầy bất tịnh này. Bạch Thế
Tôn, với ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một
vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi.
Ví như, bạch Thế Tôn, có người
mang một cái bát đầy mỡ, có thủng nhiều lỗ, thủng nhiều đường, bị
chảy, bị rỉ. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con mang cái thân này, có thủng
nhiều lỗ, có thủng nhiều đường, bị chảy, bị rỉ. Bạch Thế Tôn, với
ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng
Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi.
5. Rồi Tỷ-kheo ấy từ chỗ ngồi
đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, cúi đầu đảnh lễ chân Thế
Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con đã phạm một
trọng tội. Vì ngu si., vì vô mình, vì bất thiện. Thầy đã xuyên tạc
Tôn giả Sàriputta, không ý thức, trống không, vọng ngôn, không thật. Này
Tỷ-kheo, vì Thầy đã thấy tội ấy là một tội, đã phát lộ đúng
pháp, Ta chấp nhận tội ấy cho Thầy. Đây là một sự tiến bộ, này Tỷ-kheo,
trong Pháp Luật của bậc Thánh, những ai thấy tội là tội, phát lộ đúng
pháp, và ngăn đón trong tương lai.
6. Rồi Thế Tôn, nói với Tôn giả
Sàriputta:
- Này Sàriputta, hay tha thứ kẻ ngu
si này, trước khi ở đây, đầu nó bị vỡ ta làm bảy mảnh.
- Bạch Thế Tôn, con tha thứ cho
Tôn giả ấy, nếu Tôn giả ấy nói với con: "Hãy tha thứ cho", và
cũng mong Tôn giả ấy tha thứ cho con.
(II) (12) KHÔNG CÓ DƯ Ý
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika, rồi Tôn giả Sàriputta
vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Tôn giả
Sàriputta suy nghĩ như sau: "Nay còn quá sớm để vào Sàvatthi khất thực.
Vậy ta hãy đi đến khu vườn của các du sĩ ngoại đạo". Tôn giả
Sàriputta đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo, sau khi đến, nói lên với
các du sĩ ngoại đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền
ngồi xuống một bên.
2. Lúc bấy giờ, trong khi các du sĩ
ngoại đạo ấy đang ngồi tụ họp, câu chuyện này khởi lên: "Thưa
chư Hiền, ai chết có dư y, tất cả không được giải thoát khỏi địa
ngục, không được giải thoát khỏi bàng sinh, không được giải thoát ngạ
quỷ, không được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ".
3. Rồi Tôn giả Sàriputta không hoan
hỷ, không chỉ trích lời nói các du sĩ ngoại đạo ấy, không hoan hỷ,
không chỉ trích, Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi, với ý nghĩ:
"Ta sẽ biết ý nghĩa lời nói này từ Thế Tôn". Rồi Tôn giả
Sàriputta khất thực ở Sàvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực
trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi
sáng, con đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Bạch Thế Tôn,
rồi con suy nghĩ như sau: "Nay còn quá sớm để vào Sàvitthi khất thực.
Vậy ta hãy đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo, sau khi đến, con nói
lên với các du sĩ ngoại đạo những lời chào đón, hỏi thăm, sau khi nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, con ngồi xuống một bên.
Lúc bấy giờ, trong khi các du sĩ ngoại đạo đang ngồi tụ họp, câu chuyện
này khởi lên: "Thưa chư Hiền, ai chết có dư y, tất cả người ấy
không được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ". Rồi bạch
Thế Tôn, con không hoan hỷ, không chỉ trích lời nói các du sĩ ngoại đạo
ấy. Không hoan hỷ, không chỉ trích, con từ chỗ ngồi đứng dậy và ra
đi, với ý nghĩ rằng: "Ta sẽ biết ý nghĩa lời nói này từ Thế
Tôn".
4. - Này Sàriputta, một số các du sĩ
ngoại đạo là những kẻ ngu si, không thông minh, một số sẽ biết:
"Người có dư y là người có dư y", hay sẽ biết: "Người không
có dư y là người không có dư y". Này Sàriputta, có chín hạng người
này, khi chết có dư y, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải
thoát khỏi loài bàng sinh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải
thoát khỏi cõi dữ, ác thú , đọa xứ. Thế nào là chín?
5. Ở đây, này Sàriputta, có hạng
người viên mãn trong các giới, viên mãn trong định, nhưng không viên mãn
trong tuệ. Vị ấy, sau khi diệt tận năm hạ phần kiết sử, là vị Trung
gian Bát-niết-bàn. Này Sàriputta, đây là hạng người thứ nhất , khi chết
có dư y, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi ngạ
quỷ... được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
6. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây
có hạng người viên mãn trong các giới, viên mãn trong định, nhưng không
viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi diệt tận năm hạ phần kiết sử, là
vị Tổn hại Bát-niết-bàn... là vị Thượng lưu, đi đến Sắc cứu cánh
thiên, này Sàriputta, đây là hạng người thứ năm, khi chết có dư y, được
giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi loài bàng sanh... được
giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
7. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây
có hạng người viên mãn trong các giới, không viên mãn trong định, không
viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi diệt tận ba kiết sử, làm nhẹ bớt
tham, sân, si, là vị Nhất Lai, còn đến thế giới này một lần nữa, rồi
đoạn tận khổ đau. Này Sàriputta, đây là hạng người thứ sáu, khi chết
có dư y, được giải thoát khỏi địa ngục... được giải thoát khỏi
cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
8. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây
có hạng người viên mãn trong các giới, không viên mãn trong định, không
viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi diệt tận ba kiết sử, là vị Nhất chủng,
còn sanh hiện hữu làm người một lần nữa rồi đoạn tận khổ đau. Này
Sàriputta, đây là hạng người thứ bảy, khi chết có dư y, được giải
thoát khỏi địa ngục... được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
9. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây
có hạng người viên mãn trong các giới, thành tựu vừa phải trong định,
thành tựu vừa phải trong tuệ. Vị ấy, sau khi diệt tận ba kiết sử, là
vị Gia gia, sau khi dong ruỗi, sau khi luân chuyển hai hay ba gia đình, rồi đoạn
tận khổ đau. Này Sàriputta, đây là hạng người thứ tám, khi chết có dư
y, được giải thoát khỏi địa ngục... được giải thoát khỏi cõi dữ,
ác thú, đọa xứ.
10. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây
có hạng người viên mãn trong các giới, thành tựu vừa phải trong định,
thành tựu vừa phải trong tuệ. Vị ấy, sau khi diệt tận ba kiết sử, là
vị trơ lui tối đa là bảy lần, sau khi dong ruỗi, sau khi luân chuyển, tối
đa là bảy lần giữa chư Thiên và loài Người, rồi đoạn tận khổ đau.
Này Sàriputta, đây là hạng người thứ chín, khi chết có dư y, được giải
thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi bàng sanh, được giải thoát
khỏi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
Này Sàriputta, một số người du
sĩ ngoại đạo là ngu si, không thông minh, một số người sẽ biết:
"Có dư y là có dư y" hay một số người sẽ biết: "Không có
dư y là không dư y".
Này Sàriputta, chín hạng người này,
khi chết có dư y, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát
khỏi loài bàng sanh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải thoát
không cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Nhưng này Sàriputta, cho đến nay, pháp
môn này chưa được nói cho các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, các nam cư sĩ, các
nữ cư sĩ. Vì cớ sao? Mong rằng khi nghe pháp môn này, họ không đem lại
phóng dật. Lại nữa, này Sàriputta, pháp môn này được Ta nói đến vì Ta
được hỏi đến.
(III) (13) TÔN GIẢ MAHÀKOTTHITA
1. Rồi Tôn giả Mahàkotthita đến Tôn
giả Sàriputta, sau khi đến, chào đón hỏi thăm Tôn giả Sàriputta, sau khi
nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahàkotthita nói với Tôn giả
Sàriputta:
- Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phạm nghiệp gì được
cảm thọ hiện tại, mong rằng nghiệp ấy ta được cảm thọ trong tương
lai"?
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
- Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phạm nghiệp gì được
cảm thọ tương lai, mong rằng nghiệp ấy, ta được cảm thọ trong hiện tại"?
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
- Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được
cảm giác là lạc thọ, mong rằng nghiệp ấy ta được cảm giác là khổ
thọ?"
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy
vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm giác là khổ thọ, mong rằng nghiệp
ấy ta được cảm giác là lạc thọ"?
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy
vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ là thuần thục, mong rằng nghiệp
ấy ta cảm thọ là không thuần thục"?
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
- Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được
cảm thọ là không thuần thục, mong rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là thuần
thục"?
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
- Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được
cảm thọ là nhiều, mong rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là ít"?
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
- Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được
cảm thọ là ít, mong rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là nhiều"?
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
- Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì không
được cảm thọ, mong rằng nghiệp ấy ta cảm thọ"?
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
- Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được
cảm thọ, mong rằng nghiệp ấy ta được cảm thọ"?
- Không phải vậy, thưa Hiền giả.
2. - Thưa Hiền giả Sàriputta, vì
sao khi được hỏi: "Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy
vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ hiện tại, mong rằng nghiệp
ấy, ta được cảm thọ trong tương lai?" Hiền giả trả lời: "Không
phải vậy, thưa Hiền giả?" Thưa Hiền giả Sàriputta, vì sao khi được
hỏi: "Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng:
"Phàm nghiệp gì được cảm thọ tương lai, mong rằng nghiệp ấy ta
được cảm thọ hiện tại?" Hiền giả trả lời: "Không phải vậy,
thưa Hiền giả". Thưa Hiền giả Sàriputta, vì sao khi được hỏi:
"Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp
gì được cảm giác là lạc thọ, mong rằng nghiệp ấy ta được cảm giác
là khổ thọ"?. Hiền giả trả lời: "Không phải vậy, thưa Hiền
giả". Vì sao được hỏi: "Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn
với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ thuần phục, mong rằng
nghiệp ấy ta được cảm thọ là không thuần phục"?. Hiền giả trả
lời: "Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao được hỏi:
"Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp
gì được cảm thọ không thuần phục, mong rằng nghiệp ấy ta được cảm
thọ là thuần phục"?. Hiền giả trả lời: "Không phải vậy, thưa
Hiền giả". Vì sao được hỏi: "Có phải sống Phạm hạnh dưới
Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ là nhiều,
mong rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là ít"?. Hiền giả trả lời:
"Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao được hỏi: "Có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được
cảm thọ là ít, mong rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là nhiều"?. Hiền
giả trả lời: "Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao được hỏi:
"Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp
gì được cảm thọ, mong rằng nghiệp ấy ta không được cảm thọ"?.
Hiền giả trả lời: "Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao
được hỏi: "Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng:
"Phàm nghiệp gì không được cảm thọ, mong rằng nghiệp ấy ta được
cảm thọ"?. Hiền giả trả lời: "Không phải vậy, thưa Hiền giả".
Vì mục đích gì sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn?
3. - Thưa Hiền giả, với những gì
không biết, không thấy, không đạt, không chứng ngộ, không hiện quán, với
mục đích để được biết, được thấy, được đạt, được chứng ngộ,
được hiện quán mà Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn.
- Nhưng thưa Hiền giả, do không biết
gì, không thấy gì, không đạt gì, không chứng ngộ gì, không hiện quán
gì, với mục đích để được biết, được thấy, được đạt, được
chứng ngộ, được hiện quán, mà Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn?
- "Đây là Khổ", này Hiền
giả, là điều không được biết, không được thấy, không đạt, không
chứng ngộ, không hiện quán, với mục đích để được biết, được thấy...
mà Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. "Đây là Khổ tập"...
"Đây là Khổ diệt"... "Đây là con Đường đưa đến khổ diệt",
này Hiền giả, là điều không được biết, không được thấy, không được
đạt, không được chứng ngộ, không được hiện quán, với mục đích
được biết, được thấy, được đạt, được chứng ngộ, được hiện
quán, mà Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. Thưa Hiền giả, đây là
điều không được biết, không được thấy, không đạt, không được chứng
ngộ, không được hiện quán, với mục đích để được biết, được thấy,
được đạt, được chứng ngộ, được hiện quán, mà Phạm hạnh được
sống dưới Thế Tôn.
(IV) (14) TÔN GIẢ SAMIDDHI
1. Rồi Tôn giả Samiddhi đi đến Tôn
giả Sàriputta, sau khi đến, chào đón hỏi thăm Tôn giả Sàriputta, sau khi
nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một
bên. Rồi Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Samiddhi đang ngồi xuống một
bên:
- Do sở duyên gì, này Samiddhi, một
người khởi lên các tư duy tầm?
- Do danh sắc làm sở duyên, thưa Tôn
giả.
- Nhưng này Samiddhi, cái gì khiến
chúng đi đến sai khác?
- Các giới, thưa Tôn giả.
- Nhưng này Samiddhi, chúng lấy gì
làm tập khởi?
- Lấy xúc làm tập khởi, thưa Tôn
giả.
- Này Samiddhi, chúng qui tụ ở đâu?
- Chúng qui tụ ở các cảm thọ, thưa
Tôn giả.
- Nhưng này Samiddhi, chúng lấy gì
làm thượng thủ?
- Chúng lấy định làm thượng thủ,
thưa Tôn giả.
- Nhưng này Samiddhi, chúng lấy gì
làm tăng thượng?
- Chúng lấy niệm làm tăng thượng,
thưa Tôn giả.
- Này Samiddhi, chúng lấy cái gì
làm tối thượng?
- Chúng là tuệ làm tối thượng,
thưa Tôn giả.
- Này Samiddhi, chúng lấy gì làm
lõi cây?
- Chúng lấy giải thoát làm lõi
cây, thưa Tôn giả.
- Này Samiddhi, chúng thể nhập vào
gì?
- Chúng thể nhập vào bất tử, thưa
Tôn giả.
2. - Khi được hỏi: "Này
Samiddhi, do sở duyên gì một người khởi lên các tư duy tầm?", Hiền
giả đáp: "Do danh sắc làm sở duyên, thưa Tôn giả". Này Samiddhi,
khi được hỏi: "Cái gì khiến chúng đi đến sai khác?", Hiền giả
đáp:" Trong các giới, thưa Tôn giả". Khi được hỏi: "Này
Samiddhi, ch1ung lấy gì làm tập khởi?", Hiền giả đáp: "Lấy xúc
làm tập khởi, thưa Tôn giả". Khi được hỏi: "Này Samiddhi, chỗ
qui tụ của chúng là gì?", Hiền giả đáp: "Chỗ qui tụ của
chúng là thọ, thưa Tôn giả". khi được hỏi: "Này Samiddhi, chúng
lấy gì làm thượng thủ?", Hiền giả đáp: "Chúng lấy định làm
thượng thủ, thưa Tôn giả". Khi được hỏi: "Này Samiddhi, chúng lấy
gì làm tăng thượng?", Hiền giả đáp: "Chúng lấy niệm tăng thượng,
thưa Tôn giả". Khi được hỏi: "Này Samiddhi, chúng lấy gì làm tối
thượng?" Hiền giả đáp: "Chúng lấy tuệ làm tối thượng, thưa
Tôn giả". Khi được hỏi: "Này Samiddhi, chúng lấy gì làm lõi
cây?", Hiền giả đáp: "Chúng lấy giải thoát làm lõi cây, thưa Tôn
giả". Khi được hỏi: "Này Samiddhi, chúng thể nhập vào gì?",
Hiền giả đáp: "Chúng thể nhập vào bất tử, thưa Tôn giả".
Lành thay, lành thay, này Samiddhi! Lành thay này Samiddhi! Hiền giả đã trả lời
các câu hỏi. Nhưng Hiền giả chớ có kiêu mạn về vấn đề này.
(V) (15) MỘT UNG NHỌT
1. - Ví như, này chư Hiền, một ung
nhọt đã trái nhiều. Nó có chín miệng vết thương, có chín miệng nứt rạn.
Từ đấy có cái gì chảy ra, chắc chắn bất tịnh rỉ chảy, chắc chắn
hôi thúi rỉ chảy, chắc chắn nhàm chán rỉ chảy; có cái gì nứt chảy,
chắc chắn bất tịnh nứt chảy, chắc chắn hôi thúi nứt chảy, chắc chắn
nhàm chán nứt chảy.
5. Ung nhọt, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với thân này do bốn đại tác thành, do cha mẹ sinh ra, do cơm cháo chất
chứa nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, tan nát, hủy hoại, hoại diệt,
có chín miệng nứt rạn. Từ đấy có cái gì chảy ra, chắc chắn bất tịnh
rỉ chảy, chắc chắn hôi thúi rỉ chảy, chắc chắn nhàm chán rỉ chảy;
có cái gì nứt chảy, chắc chắn bất tịnh nứt chảy, chắc chắn hôi
thúi nứt chảy, chắc chắn nhàm chán nứt chảy.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy
hãy nhàm chán thân này.
(VI) (16) TƯỞNG
1. - Này các Tỷ-kheo, có chín tưởng
này được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn,
thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là chín?
2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết,
tưởng ghê tởm đối với các món ăn, tưởng không ưa thích đối với tất
cả thế giới. tưởng vô thường, tưởng khổ trên vô thường, tưởng vô
ngã trên khổ, tưởng đoạn tận, tưởng ly tham.
Này các Tỷ-kheo, chín tưởng này
được tu tập, được làm sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể
nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.
(VII) (17) GIA ĐÌNH
1. - Này các Tỷ-kheo, gia đình nào
thành tựu chín chi phần, nếu chưa đến thời không nên đến, nếu đã đến
thời không nên ngồi xuống. Thế nào là chín?
2. Không vui vẻ đứng dậy; không
vui vẻ đảnh lễ; không vui vẻ mời ngồi; nếu có, họ giấu đi; có nhiều,
họ cho ít, có đồ tốt, họ cho đồ xấu; họ cho không cẩn thận; họ
cho không có chu đáo; họ không có ngồi xung quanh để nghe pháp, không thưởng
thức lời nói.
Này các Tỷ-kheo, gia đình nào
thành tựu chín chi phần này, nếu chưa đến thời không nên đến, nếu đã
đến thời không nên ngồi xuống.
3. Này các Tỷ-kheo, gia đình nào
thành tựu chín chi phần, nếu chưa đến thời nên đến, nếu đã đến thời
nên ngồi xuống. Thế nào là chín?
4. Họ vui vẻ đứng dậy; họ vui vẻ
đảnh lễ; họ vui vẻ mời ngồi; nếu có, họ không giấu đi; có nhiều,
họ cho nhiều, có đồ tốt, họ cho đồ tốt; họ cho cẩn thận; họ cho một
cách chu đáo; họ ngồi xung quanh để nghe pháp, họ thưởng thức lời nói.
Này các Tỷ-kheo, gia đình nào
thành tựu chín chi phần này, nếu chưa đến thời không nên đến, nếu đã
đến thời không nên ngồi xuống.
(VIII) (18) TỪ BI
1. - Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới
thành tựu chín chi phần được thực hành, có quả lớn, có lợi ích lớn,
có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn. Được thực hành như thế nào, này
các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu chín chi phần, có quả lớn, có lợi
ích lớn, có biến mãn lớn?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh
đệ tử suy nghĩ như sau: "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn
tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có
lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh là loài hữu
tình. Hôm nay, đêm này và ngày này, ta cũng đoạn tận sát sanh, từ bỏ
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương
xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh là loài hữu tình. Với chi phần
này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành ngày trai giới". Đây là
chi phần thứ nhất được thành tựu.
3. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy
những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh,
không có trộm cướp. Hôm nay, đêm này và ngày này, ta cũng đoạn tận lấy
của không cho, từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ
mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Với
chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành trai giới". Đây
là chi phần thứ hai được thành tựu.
4. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận phi Phạm hạnh, hành Phạm hạnh, sống xa lìa, từ bỏ
dâm dục hèn hạ. Hôm nay, đêm này và ngày này, ta cũng đoạn phi Phạm hạnh,
hành Phạm hạnh, sống xa lìa, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Với chi phần
này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành trai giới". Đây là chi
phần thứ ba được thành tựu.
5. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y
chỉ nơi sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phải
lại lời hứa đối với đời. Hôm nay, đêm này và ngày này, ta cũng đoạn
tận nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự
thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phải lại lời hứa
đối với đời. Với chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực
hành trai giới". Đây là chi phần thứ tư được thành tựu.
6. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu. Hôm nay, đêm này và
ngày này ta cũng đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu. Với chi phần
này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành trai giới". Đây là chi
phần thứ năm được thành tựu.
7. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán mỗi ngày dùng một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Hôm
nay, đêm này và ngày này, ta cũng dùng mỗi ngày dùng một bữa, không ăn
ban đêm, không ăn phi thời. Với chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ
thực hành trai giới". Đây là chi phần thứ sáu được thành tựu.
8. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng
hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Hôm nay, đêm này và ngày
này, ta cũng từ bỏ xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng
vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Với chi phần này, ta
theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành trai giới". Đây là chi phần thứ
bảy được thành tựu.
9. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận giường cao, giường lớn, từ bỏ giường cao, giường
lớn, các vị ấy nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ, trên thảm cỏ.
Hôm nay, đêm này và ngày này, ta cũng đoạn tận giường cao, giường lớn,
từ bỏ giường cao, giường lớn, các vị ấy nằm trên giường thấp, trên
giường nhỏ, trên thảm cỏ. Với chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán,
sẽ thực hành trai giới". Đây là chi phần thứ tám được thành tựu.
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử với tâm câu hữu với từ, biến mãn một phương và an
trú, như vậy phương thứ hai... như vậy phương thứ ba... như vậy phương
thứ tư... như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy
phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy với tâm câu hữu với từ,
biến mãn và an trú, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được
thực hành ngày trai giới thành tựu chín chi phần, có quả lớn, có lợi
ích, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn.
(IX) (16) CHƯ THIÊN
1. - Đêm nay, này các Tỷ-kheo, một
số đông chư Thiên, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng,
chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến chỗ Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi
đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, đứng một bên, các Thiên nhân ấy thưa
với Ta: "Bạch Thế Tôn, khi chúng con sống giữa loài Người, trong thời
quá khứ, các vị xuất gia không có gia đình đến chúng con. Bạch Thế
Tôn, chúng con đã đứng dậy, nhưng chúng con không đảnh lễ. Bạch Thế Tôn,
do không làm đầy đủ bổn phận, chúng con sanh ra hối hận, phiền não,
vì bị sanh với thân hạ liệt".
2. Này các Tỷ-kheo, lại có nhiều
chư Thiên khác đến chỗ Ta và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, khi chúng
con sống giữa loài Người, trong thời quá khứ, các vị xuất gia không có
gia đình đến chúng con. Chúng con đã đứng dậy, chúng con đã đảnh lễ,
nhưng con không mời ghế ngồi. Bạch Thế Tôn, do không làm đầy đủ bổn
phận, chúng con sanh ra hối hận, phiền não, bị sanh với thân hạ liệt".
3. Này các Tỷ-kheo, lại có nhiều
chư Thiên khác đến chỗ Ta và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, khi chúng
con sống giữa loài Người, trong thời quá khứ, các vị xuất gia không có
gia đình đến chúng con. Chúng con đã đứng dậy, chúng con đã đảnh lễ,
chúng con đã mời ghế ngồi nhưng chúng con không chia xẻ (đồ ăn) tùy
theo khả năng và sức lực của chúng con... Chúng con chia xẻ (đồ ăn), tùy
theo khả năng và sức lực của chúng con, nhưng chúng con không ngồi xung
quanh để nghe pháp... chúng con có ngồi xung quanh để nghe pháp, nhưng chúng
con không lóng tai nghe pháp... chúng con lóng tai nghe pháp, nhưng chúng con sau
khi nghe không có thọ trì pháp... chúng con sau khi nghe, có thọ trì pháp, nhưng
không có suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì... chúng con có suy tư
ý nghĩa các pháp đã được thọ trì, nhưng chúng con sau khi biết nghĩa, biết
pháp, không thực hành pháp và tùy pháp. Bạch Thế Tôn, do không làm đầy
đủ bổn phận, chúng con sanh ra hối hận, phiền não, vì bị sanh ra với
thân hạ liệt".
4. Này các Tỷ-kheo, lại có nhiều
chư Thiên khác đến chỗ Ta và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, khi chúng
con sống giữa loài Người, trong thời gian quá khứ, các vị xuất gia
không có gia đình đến chúng con. Bạch Thế Tôn, chúng con đã đứng dậy,
chúng con đã đảnh lễ, chúng con đã mời ghế ngồi, chúng con đã chia xẻ
(đồ ăn) tùy theo khả năng và sức lực của chúng con, chúng con đã ngồi
xung quanh để nghe pháp, chúng con lóng tai nghe pháp, chúng con sau khi nghe thọ
trì pháp, chúng con có suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì, chúng
con sau khi biết nghĩa, biết pháp, thực hành pháp và tùy pháp. Bạch Thế
Tôn, do chúng con làm đầy đủ bổn phận, chúng con không sanh hối hận,
phiền não, vì được sanh với thân thù thắng".
Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc
cây, đây là những ngôi nhà trống. Này các Tỷ-kheo, hãy Thiền định, chớ
có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau, như các Thiền nhân đã được nói
đến trước đây.
(X) (20) VELÀMA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, vườn ông Anàthapindika. Rồi Tôn giả Anàthapindika
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên:
- Này Gia chủ, Ông có bố thí trong
gia đình của Ông không?
- Bạch Thế Tôn, trong gia đình của
con có bố thí, nhưng chỉ có món ăn thô tệ làm bằng hột gạo bể, và
cháo chua.
2. - Này Gia chủ, dầu bố thí các
món thô hay tế, nếu bố thí không cẩn thận, bố thí không có chú tâm, bố
thí không tự tay mình, bố thí những vật quăng đi, bố thí không có nghĩ
đến tương lai; chỗ nào, chỗ nào, sự bố thí ấy sanh quả dị thục, thời
tâm không thiên về thưởng thức các món ăn thù diệu, tâm không thiên về
thưởng thức y áo, tâm không thiên về thưởng thức các cỗ xe thù diệu,
tâm không thiên về thưởng thức năm dục công đức thù diệu. Và các người
con, hay vợ, hay những người phục vụ, hay những người đưa tin, hay những
người làm công, họ không có khéo nghe, họ không có lóng tai, họ không
có an trú tâm hiểu biết. Vì sao? Này Gia chủ, như vậy là quả dị thục
của các nghiệp làm không có cẩn thận.
3. Này Gia chủ, dầu có bố thí
các món thô hay tế, nếu bố thí có cẩn thận, bố thí có chú tâm, bố
thí tự tay mình, bố thí những vật không quăng bỏ đi, bố thí có nghĩ
đến tương lai; chỗ nào, chỗ nào, sự bố thí ấy sanh quả dị thục, thời
tâm thiên về thưởng thức các món ăn thù diệu, tâm thiên về thưởng thức
y áo thù diệu, tâm thiên về thưởng thức các cỗ xe thù diệu, tâm thiên
về thưởng thức năm dục công đức thù diệu. Và các người con, hay vợ,
hay những người phục vụ, hay những người đưa tin, hay những người làm
công, họ có khéo nghe, họ có lóng tai, họ có an trú tâm hiểu biết. Vì
sao? Này Gia chủ, như vậy là quả dị thục của việc làm có cẩn thận.
4. Thuở xưa, này Gia chủ, có một
vị Bà-la-môn tên là Velàma. Vị ấy bố thí rộng lớn như sau: Vị ấy bố
thí 84.000 bát bằng vàng đựng đầy bạc. Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng
bạc đựng đầy vàng. Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng đồng đựng đầy
châu báu. Vị ấy bố thí 84.000 con voi với đồ trang sức bằng vàng, với
các ngọn cờ bằng vàng, bao trùm với những lưới bằng chỉ vàng và
84.000 cỗ xe, được trải da sư tử, được trải với da cọp, được trải
với da báo, được trải với mềm màu vàng, với những trang sức bằng
vàng, với các ngọn cờ bằng vàng, bao trùm với những lưới bằng chỉ vàng.
Vị ấy bố thí 84.000 con bò sữa, cột bằng những sợi dây gai mịn với
những thùng sữa bằng bạc. Vị ấy bố thí 84.000 thiếu nữ, trang sức với
những bông tai bằng châu báu. Vị ấy bố thí 84.000 giường nằm trải nệm
bằng len thêu bông, nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm khảm với
lầu che phía trên, có đầu gối chân màu đỏ hai phía. Vị ấy bố thí
84.000 thước vải, bằng vài gai mịn màng nhất, bằng vải lụa mịn màng
nhất, bằng vải bông mịn màng nhất. Và ai có thể nói về các đồ ăn,
đồ uống, loại cứng, loại mềm, các loại đồ ăn nếm và các loại nước
đường. "Chúng tôi nghĩ chúng chảy như dòng sông".
5. Có thể, này Gia chủ, Ông nghĩ:
"Có thể Bà-la-môn Velàma là một người nào khác, vị đã bố thí một
cách rộng lớn như vậy". Này Gia chủ, chớ có nghĩ như vậy. Chính
lúc ấy, Ta là Bà-la-môn Velàma, chính Ta đã bố thí rộng lớn ấy. Nhưng
này Gia chủ, khi bố thí ấy được cho, không có một ai xứng đáng để
nhận bố thí. Không có một ai làm cho thanh tịnh bố thí ấy. Này Gia chủ,
dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, nếu có ai bố thí cho một người
chánh kiến, bố thí này lớn hơn quả lớn kia. Này Gia chủ, dầu
Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn và có ai bố thí cho 100 người chánh
kiến, và có ai bố thí cho một vị Nhất lai, bố thí này quả lớn hơn bố
thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí rộng lớn, và có ai
bố thí cho 100 người Nhất lai, và có ai bố thí cho một vị Bất lai, bố
thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố
thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho 100 vị Bất lai, và có ai bố thí
cho một vị A-la-hán, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu
Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn hơn, và có ai bố thí cho một vị
Độc Giác Phật, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu
cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn và có người bố thí cho 100 vị
Độc Giác Phật, có ai bố thí cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác,
bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn
Velàma bố thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho chúng Tỷ-kheo với đức
Phật là vị thượng thủ, và có ai xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng
trong bốn phương... và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và Tăng, và
có ai với tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy
của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ
không đắm say rượu men, rượu nấu... Và có ai với tâm tịnh tín, chấp
nhận học pháp... từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu, và ai tu tập
từ tâm giải thoát, cho đến trong khi khoảnh khắc vắt sữa bò, bố thí
này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố
thí có rộng lớn, có ai bố thí một vị đầy đủ chánh kiến... và có
ai bố thí một vị Bất lai... và có ai bố thí trăm vị Bất lai, và có ai
bố thí một vị A-la-hán... và có ai bố thí trăm vị A-la-hán... và có ai
bố thí một vị Độc giác Phật, và có ai bố thí Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác... và có ai bố thí chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị
cầm đầu, và có ai cho xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn
phương... và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và chúng Tăng... và
có ai tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh... từ bỏ đắm
say rượu men, rượu nấu... và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt
sữa bò, tu tập từ tâm, và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng
ngón tay, tu tập tưởng vô thường, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia.