II. PHẨM LỚN
(I) (11) VERANJÀ
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở
Veranjà, dưới gốc cây Nalerupucimanda. Rồi Bà-la-môn Veranjà đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm ; sau
khi nói nên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Veranjà bạch Thế Tôn :
- Thưa Tôn giả Gotama, tôi có nghe
như sau : "Sa-môn Gotama không đảnh lễ, không đứng dậy, hay không mời
ghế ngồi các Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn trưởng lão, đời đã được
trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời". Thưa Tôn giả Gotama, sự
thể là như vậy : "Tôn giả Gotama không đảnh lễ, không đứng dậy,
hay không mời ghế ngồi các Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn trưởng lão, đời
đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời". Như vậy,
thưa Tôn giả Gotama, như vậy là không đầy đủ.
- Này Bà-la-môn, Ta không thấy một
ai trong thế giới chư Thiên, trong thế giới Ác ma, trong thế giới Phạm
thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người mà ta
có thể đảnh lễ người ấy, đứng dậy hay mời ghế ngồi. Này
Bà-la-môn, nếu Như Lai đảnh lễ, hay đứng dậy, hay mời ngồi ai, thời
đầu người ấy bị bể tan.
2. - Tôn giả Gotama, thật thiếu ý
vị !
- Này Bà-la-môn, có pháp môn này,
do pháp môn ấy, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau :
"Sa-môn Gotama thật thiếu ý vị ". Này Bà-la-môn, các sắc vị,
thanh vị, hương vị, vị vị, xúc vị, các vị ấy, Như Lai đã đoạn tận
chúng, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây
là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể
nói như sau : "Sa-môn Gotama thật thiếu ý vị ". Nhưng Ông nói
không phải với ý nghĩa này.
3. "Tôn giả Gotama thiếu tài sản
".Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama thiếu tài sản
".Này Bà-la-môn, các sắc tài sản, thanh tài sản, hương tài sản, vị
tài sản, xúc tài sản, các tài sản ấy, Như Lai đã đoạn tận chúng, chặt
đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể tái sanh,
làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp
môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như
sau : "Sa-môn Gotama thiếu tài sản". Nhưng Ông nói không phải với
ý nghĩa này.
4. "Tôn giả Gotama chủ trương
thuyết không hành động". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn
ấy, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn
Gotama chủ trương thuyết không hành động". Này Bà-la-môn, ta nói
không hành động về thân làm ác, về lời nói ác, về ý nghĩ ác. Ta nói
không hành động về các pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn, đây là pháp
môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như
sau : "Sa-môn Gotama chủ trương thuyết không hành động". Nhưng Ông
nói không phải với ý nghĩa này.
5. "Tôn giả Gotama chủ trương
thuyết đoạn diệt ". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy,
ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama chủ
trương thuyết đoạn diệt ". Này Bà-la-môn, Ta tuyên bố đoạn diệt
tham, sân, si. Ta tuyên bố đoạn diệt các ác, bất thiện pháp. Này
Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn
chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama chủ trương thuyết đoạn diệt
". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
6. "Tôn giả Gotama là người nhàm
chán". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama là người nhàm
chán". Này Bà-la-môn, Ta nhàm chán thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ
ác. Ta nhàm chán sự thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn, đây
là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể
nói như sau : "Sa-môn Gotama là người nhàm chán ". Nhưng Ông nói
không phải với ý nghĩa này.
7. "Tôn giả Gotama là người chủ
trương hư vô chủ nghĩa". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn
ấy, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn
Gotama là người chủ trương hư vô". Này Bà-la-môn, Ta thuyết pháp để
hư vô tham, sân, si. Ta thuyết pháp để hư vô các pháp ác, bất thiện.
Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách
chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama là người chủ trương
hư vô ". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
8. "Tôn giả Gotama là người khổ
hạnh". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh
". Này Bà-la-môn, Ta tuyên bố rằng cần phải khổ hạnh các pháp ác,
bất thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Này Bà-la-môn, với ai,
các pháp ác, bất thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác được tu
khổ hạnh, được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm
cho như thân cây tala, được làm cho không thể tái sanh, được làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai, Ta tuyên bố rằng người ấy là người
khổ hạnh. Này Bà-la-môn, với Như Lai, các pháp ác, bất thiện, thân làm
ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác đã được tu khổ hạnh, được đoạn tận,
được cắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm
cho không thể tái sanh, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách
chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh".
Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
9. "Tôn giả Gotama chủ trương
không nhập thai". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai
nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama chủ
trương không nhập thai". Này Bà-la-môn, với ai mà khả năng nhập thai
tái sanh trong tương lai đã đoạn tận, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như
thân cây tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai, Ta tuyên bố rằng người ấy chủ trương không nhập thai. Này
Bà-la-môn, Như Lai đã đoạn tận khả năng nhập thai tái sanh trong tương
lai đã đoạn tận, đã chặt đứt từ gốc rễ, đã làm cho như thân cây
tala, đã làm cho không thể tái sanh, đã làm cho không thể sanh khởi trong tương
lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama chủ trương không nhập
thai". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
Ví như, này Bà-la-môn, có tám, mười
hay mười hai cái trứng của con gà mái, được con gà mái khéo ấp nằm,
ấp nóng và ấp dưỡng, và con gà nào trong những con gà con ấy, đầu tiên
hết, lấy chân, móng, đầu, miệng hay mỏ phá vỡ vỏ trứng gà, ra ngoài
một cách an toàn, con ấy được gọi là con trưởng hay con trẻ nhất ?
- Thưa Tôn giả Gotama, con ấy phải
được gọi là con trưởng. Thật vậy, thưa Tôn giả Gotama, con ấy là con
trưởng trong tất cả các con gà ấy.
10. - Cũng vậy, này Bà-la-môn, khi
ta vì chúng sanh bị vô minh chi phối, như sanh ra từ trứng, bị bao trùm, đã
phá vỡ vỏ trứng vô minh, một mình chứng được vô thượng Chánh Đẳng
Giác ở đời, này Bà-la-môn, thật sự Ta là vị đệ nhất, tối thắng
ở đời. Lại nữa, này Bà-la-môn, Ta tinh cần tinh tấn, không biếng nhác.
Ta trú niệm, không có thất niệm, thân được khinh an, không có tháo động,
định tĩnh, nhất tâm.
11. Này Bà-la-môn, ly dục, ly pháp bất
thiện, Ta đã chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm, có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, Ta chứng đạt
và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm,
không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Ly hỷ Ta trú xả, chánh niệm tỉnh giác,
thân cảm sự lạc thọ, mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú. Ta
chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã
cảm thọ từ trước, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ,
không lạc, xả niệm, thanh tịnh.
12. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, không dao động, như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng
minh. Ta nhớ đến đời sống quá khứ, một đời, hai đời, ba đời, bốn
đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời,
năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại
kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng : "Tại
chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giao cấp như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau
khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có
tên như thế này, dòng họ như thế này, giao cấp như thế này, thọ khổ
lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ
nọ, Ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống
quá khứ cùng với các nét đại cương và các nét chi tiết.
Này Bà-la-môn, đây là trong canh một,
Ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt,
ánh sáng sanh. Do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này
Bà-la-môn, đây là sự xuất sanh thứ nhất của Ta, như con gà con sanh ra khỏi
vỏ trứng.
13. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, không dao động, như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về
sanh tử của chúng sanh. Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự
sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ
liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ ; những hạng chúng sanh này thành tựu
thân làm ác, thành tựu miệng nói ác, thành tựu ý nghĩ ác ; phỉ báng
các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người
này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Còn những hạng chúng sanh nào, thành tựu thân làm lành, thành
tựu miệng nói lành, thành tựu ý nghĩ lành, không phỉ báng các bậc
Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới,
cõi đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự
sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ
liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Bà-la-môn, đây là trong canh giữa,
Ta chứng được minh thứ hai, vô minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh
sáng sanh. Do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn,
đây là sự xuất sanh thứ hai của Ta, như con gà con sanh ra khỏi vỏ trứng.
14. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, không dao động, như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí.
Ta biết như thật : "Đây là khổ", biết như thật : "Đây là
khổ tập", biết như thật : "Đây là Khổ diệt", biết như thật
: "Đây là con đường đưa đến Khổ diệt", biết như thật :
"Đây là những lậu hoặc", biết như thật : "Đây là nguyên
nhân của lậu hoặc ", biết như thật : "Đây là nguyên nhân của
các lậu hoặc diệt", biết như thật : "Đây là con đường đưa
đến diệt". Do biết như vậy, thấy như vậy, tâm của ta thoát khỏi
lậu dục, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân
đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết : "Sanh đã diệt, Phạm
hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không có đời
sống nào khác nữa". Này Bà-la-môn, đây là trong canh cuối, Ta chứng
được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh sáng sanh.
Do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự
xuất sanh thứ ba của Ta, như con gà con sanh ra khỏi vỏ trứng.
15. Được nghe nói như vậy, Bà-la-môn
Veranja bạch Thế Tôn :
- Đệ nhất là Tôn giả Gotama ! Tối
thắng là Tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! Thật vi
diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng
dậy những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ
đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối,
để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ
tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(II) (12) TƯỚNG QUÂN SÌHA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàli (Tỳ-xá-ly), tại Mahàvana (Đại Lâm), ở Kùtàgàrasàla (ngôi nhà có
nóc nhọn). Lúc bấy giờ rất nhiều vị Licchavi là các bậc có danh tiếng,
có danh tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán
thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng.
2. Lúc bấy giờ tướng quân Sìha
là đệ tử của Niganthà ngồi trong hội chúng ấy. Rồi tướng quân Sìha
suy nghĩ như sau : "Không nghi ngờ gì nữa, Thế Tôn ấy là bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, vì rằng nhiều vị Licchavi này có danh tiếng,
có danh tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán
thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Vậy ta hãy đi đến yết kiến
vị Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
3. Rồi tướng quân Sìha đi đến
Niganthà, Nàtaputta, sau khi đến, thưa với Niganthà Nàtaputta :
- Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến
yết kiến Sa-môn Gotama.
- Này Sìha, sao Ông chủ trương hành
động lại đi đến yết kiến Sa-môn Gotama, người chủ trương không hành
động ? Này Sìha, Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp
không hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy. Rồi tướng quân
Sìha, ý muốn đi đến yết kiến Thế Tôn bị dập tắt.
4. Lần thứ hai, rất nhiều vị
Licchavi là các bậc có danh tiếng, có danh tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường,
dùng nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng.
Lần thứ hai, tướng quân Sìha suy nghĩ như sau : "Không nghi ngờ gì nữa,
Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, vì rằng nhiều vị
Licchavi này có danh tiếng, có danh tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng
nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Vậy
ta hãy đi đến yết kiến vị Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Rồi tướng quân Sìha đi đến
Niganthà, Nàtaputta, sau khi đến, thưa với Niganthà Nàtaputta :
- Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến
yết kiến Sa-môn Gotama.
- Này Sìha, sao Ông chủ trương hành
động lại đi đến yết kiến Sa-môn Gotama, người chủ trương không hành
động ? Này Sìha, Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp
không hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy.
Rồi tướng quân Sìha, lần thứ
hai, ý muốn đi đến yết kiến Thế Tôn bị dập tắt.
5. Lần thứ ba, rất nhiều vị
Licchavi là các bậc có danh tiếng, có danh tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường,
dùng nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng.
Lần thứ ba, tướng quân Sìha suy nghĩ như sau : "Không nghi ngờ gì nữa,
Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, vì rằng nhiều vị
Licchavi này có danh tiếng, có danh tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng
nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Các
Niganthà sẽ làm gì được cho ta, nếu họ được hỏi ý kiến hay không hỏi
ý kiến. Vậy ta không hỏi ý kiến Niganthà, đi đến yết kiến vị Thế Tôn
ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Rồi tướng quân Sìha, vào giữa trưa
với khoảng năm trăm cỗ xe, đi khỏi Vesàli để yết kiến Thế Tôn. Đi
xe cho đến đoạn đất còn đi xe được, rồi xuống xe đi bộ vào trong
khu vườn. Rồi tướng quân Sìha đi đến Thế Tôn ; sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tướng quân
Sìha bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, con có được nghe
: "Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp về không
hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy". Bạch Thế Tôn, họ
nói như sau : " Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp
về không hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy". Bạch Thế
Tôn, họ nói về Thế Tôn như vậy, họ có xuyên tạc Thế Tôn với điều
không thật chăng ? Và họ trả lời có thuận pháp với pháp không, và những
ai như pháp thuyết đúng pháp không có lý do để chỉ trích ? Bạch Thế
Tôn, chúng con không muốn xuyên tạc Thế Tôn.
6. - Này Sìha, có pháp môn, do pháp
môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "Sa-môn
Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp về không hành động và
huấn luyện các đệ tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
chủ trương hành động, thuyết pháp về hành động và huấn luyện các đệ
tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
chủ trương đoạn diệt, thuyết pháp về đoạn diệt và huấn luyện các
đệ tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
là người chủ trương hư vô, thuyết pháp về hư vô và huấn luyện các
đệ tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
là người khổ hạnh, thuyết pháp khổ hạnh và huấn luyện các đệ tử
như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
là người chủ trương không nhập thai, thuyết pháp về không nhập thai và
huấn luyện các đệ tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "Sa-môn Gotama
là người an ủi, thuyết pháp an ủi và huấn luyện các đệ tử như vậy"
7. Và này Sìha, thế nào là pháp
môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
"Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp về không hành
động và huấn luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta tuyên bố về không
hành động đối với thân làm ác, miệng nói ác, và ý nghĩ ác. Ta tuyên bố
về không hành động đối với các pháp ác, bất thiện.
Và này Sìha, thế nào là pháp môn,
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama chủ trương hành động, thuyết pháp về hành động và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta tuyên bố về hành động
đối với thân làm lành, miệng nói lành, và ý nghĩ lành. Ta tuyên bố về
hành động đối với các thiện pháp.
Và này Sìha, thế nào là pháp môn,
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt, thuyết pháp về đoạn diệt và huấn
luyện các đệ tử như vậy"
Và này Sìha, đây là pháp môn, do
pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt, thuyết pháp về đoạn diệt và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta tuyên bố về đoạn diệt
tham, sân, si. Ta tuyên bố về đoạn diệt đối với các pháp ác, bất thiện.
Và này Sìha, đây là pháp môn, với pháp môn ấy nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt, thuyết
pháp về đoạn diệt và huấn luyện các đệ tử như vậy"
Và này Sìhà, thế nào là pháp
môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
" Sa-môn Gotama là người nhàn chán, thuyết pháp về nhàm chán và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta nhàm chán đối với thân
làm ác, miệng nói ác, và ý nghĩ ác. Ta nhàm chán đối với sự thành tựu
các pháp ác, bất thiện.
Và này Sìhà, đây là pháp môn, do
pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama là người nhàn chán, thuyết pháp về nhàm chán và huấn luyện
các đệ tử như vậy".
Và này Sìhà, thế nào là pháp môn
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama là người chủ trương hư vô, thuyết pháp về hư vô và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta thuyết pháp để hư vô
tham, sân, si. Ta thuyết pháp để hư vô các pháp ác bất thiện.
Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp
môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn
Gotama là người chủ trương hư vô, thuyết pháp về hư vô và huấn luyện
các đệ tử như vậy".
Và này Sìhà, thế nào là pháp
môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
" Sa-môn Gotama là người khổ hạnh, thuyết pháp khổ hạnh và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, Ta tuyên bố cần phải khổ
hạnh các pháp ác bất thiện, kể cả thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ
ác. Này Sìha, với ai, pháp ác bất thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý
nghĩ ác, được tu khổ hạnh, được đoạn tận, được chắt đứt từ gốc
rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho không thể tái sanh,
được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, Ta tuyên bố người ấy
là người khổ hạnh.
Này Sìha, đối với Như Lai, các
pháp ác, bất thiện cần phải khổ hạnh này đã được đoạn tận chúng,
chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể tái
sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Sìha, đây là pháp
môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
" Sa-môn Gotama là người khổ hạnh, thuyết pháp khổ hạnh và huấn
luyện các đệ tử như vậy".
Và này Sìha, thế nào là pháp môn,
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama là người chủ trương không nhập thai, thuyết pháp về không
nhập thai và huấn luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, với ai đã đoạn tận sự
nhập thai trong tương lai, sự tái sanh, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như
thân cây tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai. Ta tuyên bố người ấy là người chủ trương không nhập thai.
Này Sìha, Như Lai đã đoạn tận sự nhập thai trong tương lai, sự tái
sanh, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp
môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn
Gotama là người chủ trương không nhập thai, thuyết pháp về không nhập
thai và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Và này Sìha, thế nào là pháp môn,
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
"Sa-môn Gotama là người an ủi, thuyết pháp an ủi và huấn luyện các
đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, Ta là người an ủi với
tối thượng an ủi, Ta thuyết pháp về an ủi, Ta huấn luyện các đệ tử
như vậy. Này Sìha, đây là pháp môn, với pháp môn ấy, nếu nói một
cách chơn chánh về ta, có thể nói : "Sa-môn Gotama là người an ủi,
thuyết pháp an ủi và huấn luyện các đệ tử như vậy"
8. Khi được nói như vậy, tướng
quân Sìha bạch Thế Tôn :
- Thật vi diệu thay ! Bạch Thế
Tôn ! Thật vi diệu thay ! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những
gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho
kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt
có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng
nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay con xin quy y Thế Tôn,
quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
- Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy
chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông.
- Bạch Thế Tôn, con càng bội phần
hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con : "
Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy chín chắn suy tư là tốt đẹp với những
người trứ danh như Ông". Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo được
con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố : "Tướng quân
Sìha đã trở thành đệ tử của chúng tôi". Nhưng Thế Tôn lại nói với
con : " Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy chín chắn suy tư là tốt đẹp
với những người trứ danh như Ông. Bạch Thế Tôn, lần thứ hai con xin
quy y Thế Tôn, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con
làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
- Này Sìha, đã từ lâu gia đình
Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Niganthà. hãy cúng dường
những món ăn cho những ai đến với Ông.
- Bạch Thế Tôn, con lại bội phần
hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con : "
Này Sìha, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các
người Niganthà. hãy cúng dường những món ăn cho những ai đến với
Ông". Bạch Thế Tôn, con nghe như sau, Sa-môn Gotama nói : "Chỉ bố
thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho đệ tử Ta,
chớ bố thí cho đệ tử các người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước
lớn, bố thí cho những người khác không có phước lớn. Chỉ bố thí cho
đệ tử Ta mới có phước lớn, bố thí cho đệ tử những người khác
không có phước lớn". Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho
Niganthà.
Bạch Thế Tôn, và chúng con ở đây
sẽ biết thời nên làm. Bạch Thế Tôn, lần thứ ba con xin quy y Thế Tôn,
quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
9. Rồi Thế Tôn thuận thứ thuyết
pháp cho tướng quân Sìha, tức là thuyết về bố thí, thuyết về giới,
thuyết về các cõi Trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm
ô của các dục, những lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết tướng quân
Sìha, tâm đã sẵn sàng, tâm đã như thuận, tâm không triền cái, tâm được
phần khởi, tâm được hoan hỷ, Ngài mới thuyết những pháp được chư
Phật tán dương đề cao : "Khổ, Tập, Diệt, Đạo". Cũng như một
tấm vải thuần bạch, các chấm đen được gột rửa, rất dễ thấm màu
nhuộm. Cũng vậy, chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa tràn ly cấu khởi
lên, tất cả pháp ấy đều bị tiêu diệt.
10. Rồi tướng quân Sìha thấy
pháp, chứng pháp, biết pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ vượt qua, do sự
trừ diệt, đạt được vô sở úy, không y cứ người khác đối với các
pháp của bậc Đạo sư. (Tướng quân Sìha) bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nhận
lời mời của con, ngày mai tới dùng cơm với chúng Tỷ-kheo.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi tướng
quân Sìha biết được Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi đi ra. Rồi tướng
quân cho gọi một người : Này người kia, hãy tìm cho thịt tươi.
Rồi tướng quân Sìha, sau đêm ấy
tại trú xứ của mình, cho soạn các món ăn thượng vị, loại cứng và mềm,
rồi cho người tới báo tin với Thế Tôn : "Bạch Thế Tôn, nay đã đến
thời. Tại trú xứ của tướng quân Sìha, món ăn đã sẵng sàng".
11. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng,
đắp y, cầm y bát, đến trú xứ của tướng quân Sìha ; sau khi đến, ngồi
xuống một chỗ đã soạn sẵn, với chúng Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ nhiều người
Niganthà ở Vesàli, từ đường lớn này đến đường lớn khác, từ đường
hẻm này đến đường hẻm khác, múa tay la lớn : "Hôm nay, tướng quân
Sìha đã giết một con thú lớn, và một bữa cơm được soạn cho Sa-môn
Gotama, và Sa-môn tuy biết vậy, vẫn ăn món thịt được sửa soạn, do duyên
vì mình được sửa soạn ra". Rồi một người đi đến tướng quân
Sìha, sau khi đến, nói nhỏ vào tai tướng quân Sìha, : "Thưa Tôn giả,
Tôn giả có biết chăng ? Nhiều Niganthà ở Vesàli, từ đường lớn này đến
đường lớn khác, từ đường hẻm này đến đường hẻm khác, múa tay la
lớn : "Hôm nay, tướng quân Sìha đã giết một con thú lớn, và một bữa
cơm được soạn cho Sa-môn Gotama, và Sa-môn tuy biết vậy, vẫn ăn món thịt
được sửa soạn, do duyên vì mình được sửa soạn ra". - Thôi vừa rồi,
này bạn. Đã lâu rồi, các Tôn giả ấy muốn chỉ trích Phật, muốn chỉ
trích Pháp, muốn chỉ trích các chúng Tăng. Nhưng các Tôn giả ấy không
làm hại gì được Thế Tôn với những lời xuyên tạc không có thật, trống
rỗng, láo khoét. Và chúng ta không vì sinh mạng lại cố ý sát hại sinh mạng
của loài hữu tình.
12. Rồi tướng quân Sìha tự tay
mình hầu hạ và làm cho thỏa mãn chúng Tỷ-kheo với đức Phật và người
cầm đầu các món ăn thượng vị, loại cứng và mềm. Rồi tướng quân
Sìha, sau khi biết Thế Tôn ăn đã xong, bàn tay đã rời khỏi bát, liền ngồi
xuống một bên, và Thế Tôn với bài pháp thoại thuyết giảng cho tướng
quân Sìha, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, rồi từ chỗ ngồi
đứng dậy ra đi.
(III)(13) CON NGỰA THUẦN THỤC
1. - Đầy đủ với tám đức tánh,
này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, xứng đáng
để vua dùng, thuộc quyền sở sữu của vua, và được xem như là biểu tượng
của vua. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, một
con ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, khéo sanh cả hai từ mẫu hệ
và phụ hệ, tại phương hướng nào, các con ngựa hiền thiện, thần thục
không sanh trưởng, tại phương hướng ấy, con ngựa ấy được sanh ; họ
cho ăn các món ấn gì, ướt hay khô, con ngựa ấy ăn một cách cẩn thận,
không có làm rơi rớt. Con ngựa ấy nhàm chán khi phải đứng hay nằm gần
phân hay nước tiểu ; con ngựa ấy sống hoan hỷ và dễ dàng sống chung với
các con ngựa khác, và không làm các con ngựa khác hoảng sợ. Phàm có những
gian dối, giả dối, xảo trá, quanh co gì, nó nêu rõ như thật cho người
đánh xe biết, và người đánh xe cố gắng nhiếp phục nó. Khi đang kéo
xe, nó nghĩ : "Hãy để cho các con ngựa khác muốn hay không muốn kéo,
còn ta, ta sẽ kéo". Khi đi, nó đi con đường thẳng. Kiên trì, nó kiên
trì cho đến khi mạng sống chấm dứt.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
một con ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, xứng đáng để vua dùng,
thuộc quyền sở sữu của vua, và được xem như là biểu tượng của vua.
3. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thành
tựu tám pháp này, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính … là ruộng phương
vô thượng ở đời. Thế nào là tám ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ
uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học
tập trong các học pháp. Phàm nhận các món đồ ăn gì, thô hay tế, vị
ấy ăn một cách cẩn thận, không có oán thán gì, vị ấy có nhàm chán,
nhàm chán thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, nhàm chán sự thành tựu
các pháp ác bất thiện. Vị ấy sống hoan hỷ và dễ dàng sống chung với
các Tỷ-kheo khác, và không làm các Tỷ-kheo khác hoảng sợ. Phàm có những
gian dối, giả dối, xảo trá, quanh co gì, nêu rõ như thật cho vị Đạo
sư hay các đồng Phạm hạnh có trí cố gắng để nhiếp phục. Trong khi học
tập, vị ấy khởi lên ý nghĩ : "Hãy để cho các Tỷ-kheo khác học tập,
hay không học tập, còn ta, ta sẽ học tập ở đây ". Khi đi, vị ấy
đi con đường thẳng, tại đây, con đường thẳng này tức là Chánh tri kiến,
Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định. Vị ấy sống tinh cần, nghĩ rằng : "Dầu chỉ có da, gân
hay xương còn lại, dầu thịt và máu có khô cạn trong thân, điều mà sự
kiên của con người, sự tinh tấn của con người, sự nỗ lực có thể đạt
được, nếu chưa đạt được thời tinh tấn không có chấm dứt.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
(IV)(14) NGỰA CHƯA ĐIỀU PHỤC
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
về tám loại ngựa chưa điều phục, tám tánh xấu của con ngựa, tám hạng
người chưa điều phục, tám tánh xấu của con người. Hãy lắng nghe và
uy niệm, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
2. - Này các Tỷ-kheo, thế nào là
tám loại ngựa chư được điều phục ? Thế nào là tám tánh xấu của ngựa
?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại
ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc, bị người đánh
xe la và thúc đẩy, nó đi lùi, và với lưng, làm chiếc xe chạy vòng lại.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ nhất của con ngựa.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, nó nhảy lùi, đạp vào thành xe, làm gãy gọng xe.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ hai của con ngựa.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, rút bắp vế ra khỏi gọng xe và dẫm nát gọng xe.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ ba của con ngựa.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, liền đi con đường xấu và làm cho xe bị lạc hướng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ bốn của con ngựa.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, nó trường đứng phía chân trước và đạp lên
không trung với chân trước. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa
chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ năm của
con ngựa.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, không để ý đến người đánh xe la, không để ý
đến cây gậy thúc ngựa, lấy răng nghiền hàm thiết (khớp ngựa) ngựa
và đi chỗ nào nó muốn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa
được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ sáu của con
ngựa.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, không đi tới, không đi lui, đứng lại tại chỗ
như một cột trụ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa
được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ bảy của con
ngựa.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, liền tréo hai chân trước, tréo lại hai chân sau,
và quỵ xuống bốn chân tại đấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại
ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ
tám của con ngựa.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám loại
ngựa chưa được điều phục và tám tánh xấu của con ngựa.
10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là tám hạng người chưa được điều phục và tám tánh xấu của con người
?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội,
tránh né (vấn đề) như là không nhớ, nói rằng : "Tôi không nhớ,
tôi không nhớ ". Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được điều
phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó đi lùi
với cái lưng làm cho cái xe chạy vòng lại. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng,
người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là hạng
người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ
nhất của con người.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, phát ra lời chất vấn Tỷ-kheo buộc tội : "Thầy lấy quyền gì
mà nói, này kẻ ngu Sìha không thông minh ? Tại sao Thầy nghĩ rằng Thầy phải
nói ? " Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được điều phục ấy,
khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó nhảy lùi lại, đạp
vào thành xe, làm gãy gọng xe. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống
như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được
điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu hai của con người.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền cật nạn Tỷ-kheo buộc tội : "Thầy cũng phạm tội tên
là như vậy. Vậy Thầy hãy phát lộ trước". Ví như, này các Tỷ-kheo,
con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị
người đánh xe la, rút bắp vế ra khỏi xe và dẫm nát gọng xe. Này các Tỷ-kheo,
Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là
tánh xấu ba của con người.
13. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền tránh né vấn đề với một vấn đề khác, hướng dẫn câu
chuyện ra ngoài và biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Ví như, này
các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy
thúc, hay bị người đánh xe la, liền đi vào con đường xấu và làm cho xe
bị lạc hướng. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ
ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được điều phục.
Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ tư của con người.
14. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền nói ba hoa, khua tay múa chân. Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa
chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh
xe la, liền trườn đứng phía thân trước và đạp lên không với chân trước.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo,
đây là tánh xấu thứ năm của con người.
15. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, không để ý đến chúng Tăng, không để ý đến các Tỷ-kheo buộc tội,
vị ấy đi chỗ nào vị ất muốn. Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa
được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe
la, không để ý đến người đánh xe, không để ý đến cây roi, lấy răng
nghiến hàm thiết ngựa, và đi chỗ nào nó muốn. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây
là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu
thứ sáu của con người.
16. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền nói : "Tôi không phạm tội, tôi không có phạm tội"
và vị ấy làm chúng Tăng bực mình với sự im lặng. Này các Tỷ-kheo, ví
như con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị
người đánh xe la, không đi tới, không đi lui, đứng lại như một cột trụ.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo,
đây là tánh xấu thứ bảy của con người.
17. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, nói như sau : "Tại sao các Tôn giả lại quá lo cho tôi. Bắt đầu
từ nay, tôi sẽ từ bỏ bọc và hoàn tục". Rồi vị ấy sau khi từ bỏ
học pháp và hoàn tục nói như sau : "Nay các Tôn giả ấy được hoan hỷ".
Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo
đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, liền tréo lại hai chân trước,
tréo lại hai chân sau và nằm xuống bốn chân tại đấy. Này các Tỷ-kheo,
Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là
tánh xấu thứ tám của con người.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám hạng
người chưa được điều phục và tám tánh xấu của con người.
(V) (15) CÁC CẤU UẾ
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám tâm cấu
uế này, thế nào là tám ?
2. Này các Tỷ-kheo, không đọc tụng
là cấu uế của Thánh điển ; này các Tỷ-kheo, không thức dậy là cấu uế
của nhà ; này các Tỷ-kheo, biếng nhác là cấu uế của dung sắc ; này
các Tỷ-kheo, phóng dật là cấu uế của phòng hộ ; này các Tỷ-kheo, ác hạnh
là cấu uế của đàn bà ; này các Tỷ-kheo, xan tham là cấu uế của bố
thí ; các pháp ác, bất thiện, là cấu uế của đời này và đời sau.
Nhưng này các Tỷ-kheo, còn có cấu uế lớn hơn các cấu uế. Vô minh là cấu
uế lớn nhất.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám loại
cấu uế.
Không tụng làm nhớp kinh
Không dậy làm nhớp nhà
Biếng nhác làm nhớp dung sắc
Phóng dật làm nhớp phòng hộ
Ác hạnh nhớp mỹ nhân
Xan tham nhớp bố thí
Các pháp ác làm nhớp
Đời này và đời sau
Nhưng có loại cấu uế
Hơn tất cả cấu uế
Đấy chính là vô minh
Là cấu uế lớn nhất.
(VI)(16) SỨ GIẢ
1. - Thành tựu tám pháp này, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo xứng đáng đi làm sứ giả. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
là người nghe, khiến người khác nghe, học và khiến người khác thọ
trì, biết và khiến người khác biết, thiện xảo trong vấn đề thích hợp
và không thích hợp (hay vấn đề kinh điển hay không kinh điển) không phải
là người ưa cãi nhau.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo xứng đáng đi làm sứ giả.
3. Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Sàriputta (Xá-lợi-phất) xứng đáng đi làm sứ giả. Thế nào là
tám ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Sàriputta là người nghe, khiến người khác nghe, học và khiến người khác
thọ trì, biết và khiến người khác biết, thiện xảo trong vấn đề thích
hợp và không thích hợp, không phải là người ưa cãi nhau.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Sàriputta xứng đáng đi làm sứ giả :
Với ai không run sợ,
Đến hội chúng bạo ngôn
Không quên lời đã học
Không che giấu giáo pháp
Không nói lời nghi hoặc
Được hỏi không phẫn nộ
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Xứng đáng đi sứ giả
(VII) (17) SỰ TRÓI BUỘC CỦA
NỮ
NHÂN
1. - Với tám hình tướng, này các
Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân. Thế nào là tám ?
2. Này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói
buộc nam nhân với sắc ; này các Tỷ-kheo nữ nhân trói buộc nam nhân với
tiếng cười ; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời nói
; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời ca ; này các Tỷ-kheo,
nữ nhân trói buộc nam nhân với nước mắt ; này các Tỷ-kheo, nữ nhân
trói buộc nam nhân với áo quần ; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam
nhân với vật tặng ; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với
xúc chạm.
Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo,
nữ nhân trói buộc nam nhân. Các loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi
các hình tướng ấy, giống như trói buộc bởi bẫy sập.
(VIII) (18) NAM NHÂN TRÓI BUỘC
1. - Với tám hình tướng, này các
Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân. Thế nào là tám?
2. Này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc
nữ nhân với sắc ; này các Tỷ-kheo nam nhân trói buộc nữ nhân với tiếng
cười ; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với lời nói ; này
các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với lời ca ; này các Tỷ-kheo,
nam nhân trói buộc nữ nhân với nước mắt ; này các Tỷ-kheo, nam nhân
trói buộc nữ nhân với áo quần ; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ
nhân với vật tặng ; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với
xúc chạm.
Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo,
nam nhân trói buộc nữ nhân. Các loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi
các hình tướng ấy, giống như trói buộc bởi bẫy sập.
- (IX) (19) A-TU-LA PAHÀRÀDA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Veranjà, dưới gốc cây Nalerupucimanda. Rồi vua A-tu-la Pahàràda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với
vua A-tu-la Pahàràda đang đứng một bên :
- Này Paràhàda, có phải các A-tu-la
thích thú biển lớn ?
- Bạch Thế Tôn, các A-tu-la thích
thú biển lớn.
- Này Paràhàda, có bao nhiêu sự vi
diệu trong biển lớn mà do chúng thấy, các A-tu-la thích thú biển lớn ?
- Bạch Thế Tôn, có tám vi diệu chưa
từng có trong biển lớn mà do chúng thấy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
Thế nào là tám ?
2. Bạch Thế Tôn, biển lớn tuần
tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có
thình lình như một vực thẳm. Vì rằng bạch Thế Tôn, vì rằng biển lớn
tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không
có thình lình như một vực thẳm, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa
từng có thứ nhất, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Vì rằng bạch Thế Tôn, biển
lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu
chưa từng có thứ hai, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển
lớn.
4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn không có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập
tức bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền, nên bạch Thế Tôn, đây
là vi diệu chưa từng có thứ ba, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la
thích thú biển lớn.
5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm
có các con sông lớn nào, ví như sông hằng, sông Yamunà, sông Aciravatì,
sông Sarabhù, Sông Mahì, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên
họ cũ trở thành biển lớn. Vì rằng, phàm có các con sông lớn nào, ví
như sông Hằng … trở thành biển lớn, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu
chưa từng có thứ tư, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển
lớn.
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm
có những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước
mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có vơi
có đầy. Bạch Thế Tôn, vì rằng, phàm có những dòng nước gì ở đời
chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng
không vì vậy biển lớn được thấy có vơi có đầy, bạch Thế Tôn, đây
là vi diệu chưa từng có thứ năm, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la
thích thú biển lớn.
7. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn chỉ có một vị là vị mặn. Vì rằng, bạch Thế Tôn, biển lớn chỉ
có một vị là vị mặn, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có
thứ năm, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
8. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu
này, như chân trâu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc,
vàng, ngọc đỏ, mã não, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ
bảy, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
9. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn là trú xứ các loại chúng sanh lớn, tại đấy, có những chúng sanh
như các con Timi, Timingalà, Timiramingalà, những loại Asurà (A-tu-la), các loại
Nàgà, các loại Gandhabbà. Trong biển có những loài hữu tình do tự ngã
dài một trăm do tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do tuần. Vì rằng,
bạch Thế Tôn, biển lớn là trú xứ các loài chúng sanh lớn … năm trăm
do tuần, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ tám, do thấy
vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn. Nhưng bạch Thế Tôn, các
Tỷ-kheo có thích thú trong Pháp và Luật này ?
- Này Pahàràda, Tỷ-kheo có thích
thú trong Pháp và Luật này.
- Bạch Thế Tôn, trong Pháp và Luật
này có bao nhiêu pháp vi diệu chưa từng có mà do thấy chúng, các Tỷ-kheo
thích thú trong pháp và luật này ?
10. - Này Pahàràda, có tám pháp vi
diệu này chưa từng có trong Pháp và Luật mà do thấy chúng, các Tỷ-kheo
thích thú trong pháp và luật này. Thế nào là tám ?
11. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không
có thình lình như một vực thẳm. Cũng vậy, này Pahàràda, trong Pháp và Luật
này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con
đường là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể chấp
chánh trí thình lình. Này Pahàràda, vì rằng trong pháp và luật này, các học
pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần
tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể chấp chánh trí thình
lình, nên này Pahàràda, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhất do mà do
thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
12. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Cũng vậy, này Pahàràda, khi các học
pháp được ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của ta, dầu cho vì
nhân sinh mạng, cũng không vượt qua, nên này Pahàràda, trong Pháp và Luật
này, đây là vi diệu chưa từng có thứ hai do mà do thấy vậy, thấy vậy,
các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
13. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
không có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức
bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền. Cũng vậy, này Pahàràda, người
nào là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những
hành vi che đậy, không phải là Sa-môn, nhưng tự nhận là Sa-môn, không phải
sống Phạm hạnh nhưng tự nhận có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy
tham dục, tánh tình bất tịnh. Chúng Tăng không sống chung với người ấy,
lập tức hội họp lại và đuổi người ấy ra khỏi. Dầu cho người ấy
có ngồi giữa chúng Tỷ-kheo Tăng, nhưng người ấy sống xa chúng Tăng và
chúng Tăng sống xa người ấy. Vì rằng, này Pahàràda, người ấy là ác
giới, theo ác pháp, … tánh tình bất tịnh … và chúng Tăng sống xa vị
ấy, nên này Pahàràda, trong pháp và luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng
có thứ ba mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và
Luật này.
14. Ví như, này Pahàràda, phàm có
các con sông lớn nào, ví như sông hằng, sông Yamunà, sông Aciravatì, sông
Sarabhù, Sông Mahì, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ
cũ trở thành biển lớn. Cũng vậy, này Pahàràda, có bốn giai cấp : Sát-đế-lỵ,
Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà, sau khi từ bỏ gia đình, xuất gia trong Pháp
và Luật được Như Lai tuyên bố, họ từ bỏ tên và họ của họ từ trước,
và họ trở thành những Sa-môn Thích tử. Này Pahàràda, trong Pháp và Luật
này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tư mà do thấy vậy, thấy vậy,
các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
15. Ví như, này Pahàràda, phàm có
những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước
mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có vơi
có đầy. Cũng vậy, này Pahàràda, nếu có nhiều Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn
giới không có dư y, Niết-bàn giới cũng không vì vậy được thấy có vơi
có đầy. Này Pahàràda, nếu có nhiều vị Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn giới
không có dư y, Niết-bàn giới cũng không vì vậy được thấy có vơi có
đầy. Này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng
có thứ năm mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp
và Luật này.
16. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
chỉ có một vị mặn. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật cũng chỉ có
một vị là vị giải thoát. Này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là
pháp vi diệu chưa từng có thứ sáu mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
thích thú trong Pháp và Luật này.
17. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu này,
như chân trâu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc
đỏ, mã não. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật này có nhiều châu
báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn niệm
xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi,
Thánh đạo tám ngành. Này Pahàràda, vì rằng Pháp và Luật này có nhiều
châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn
niệm xứ …, Thánh đạo tám ngành, nên này Pahàràdan, trong Pháp và Luật
này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ bảy mà do thấy vậy, thấy vậy,
các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
18. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
là trú xứ các loại chúng sanh lớn, tại đấy, có những chúng sanh như các
con Timi, Timingalà, Timiramingalà, những loại Asurà (A-tu-la), các loại Nàgà,
các loại Gandhabbà. Trong biển có những loài hữu tình do tự ngã dài một
trăm do tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do tuần. Cũng vậy, này
Pahàràda, Pháp và Luật là trú xứ của các loài chúng sanh lớn. Ở đấy
có x loại chúng sanh này : bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến chứng ngộ
Dự lưu quả, bậc Nhất Lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Nhất lai quả,
bậc Bất lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Bất lai quả, bậc A-la-hán,
bậc đã hướng đến chứng ngộ quả A-la-hán. Này Pahàràda, vì rằng
Pháp và Luật này là trú xứ của các loại chúng sanh lớn. Ở đấy có những
chúng sanh này … quả A-la-hán. Này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây
là pháp vi diệu chưa từng có thứ tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
thích thú trong Pháp và Luật này.
Này Pahàràda, đây là tám pháp vi
diệu, chưa từng có trong pháp và luật và do thấy vậy, do thấy vậy, các
Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
(X)(20) NGÀY TRAI GIỚI
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Đông viên, chỗ lâu đài mẹ Migàra. Lúc bấy giờ Thế
Tôn, nhân ngày trai giới, đang ngồi, có chúng Tăng đoanh vây. Rồi Tôn giả
Ananda, khi đêm đã gần mãn, và canh một đã qua, từ chỗ ngồi, đứng dậy,
đắp y thượng vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế
Tôn :
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn, canh một đã qua, chúng Tỷ-kheo đã ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hãy đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo.
Khi được nói vậy, Thế Tôn giữ
im lặng.
2. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, khi
đêm đã gần mãn, và canh giữa đã qua, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp
y thượng vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn, canh hai đã qua, chúng Tỷ-kheo đã ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
hãy đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo.
3. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, khi
đêm đã gần mãn, và canh cuối đã qua, rạng đông đã khởi, mặt đêm đã
sáng rõ, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp y thượng vào một bên vai, chắp
tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn, canh hai đã qua, chúng Tỷ-kheo đã ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
hãy đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo.
- Này Ànanda, hội chúng không được
thanh tịnh.
4. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna suy
nghĩ như sau : "Đề cập đến người nào, Thế Tôn đã nói : "Này
Ànanda, hội chúng không được thanh tịnh " ? . Rồi Tôn giả
Mahàmoggallàna, với tâm của mình, chú tâm tác ý đến toàn thể chúng Tỷ-kheo
Tăng, Tôn giả thấy một người ấy là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất
tịnh, đáng nghi ngờ, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn nhưng
tự nhận là Sa-môn, không phải sống Phạm hạnh nhưng tự nhận là sống
Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh,
đang ngồi giữa chúng Tỷ-kheo ; thấy vậy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đi đến người ấy, sau khi đến, nói với người ấy :
- Này Hiền giả, hãy đứng dậy.
Thế Tôn đã thấy Ông. Đối với Hiền giả, không thể chung sống với
các Tỷ-kheo.
- Được nói như vậy, người ấy
im lặng. Lần thứ hai, Tôn giả Mahàmoggallàna nói với người ấy :
- Này Hiền giả, hãy đứng dậy.
Thế Tôn đã thấy Ông. Đối với Hiền giả, không thể chung sống với
các Tỷ-kheo.
Lần thứ hai, người ấy im lặng.
Lần thứ ba, Tôn giả Mahàmoggallàna nói với người ấy :
- Này Hiền giả, hãy đứng dậy.
Thế Tôn đã thấy Ông. Đối với Hiền giả, không thể chung sống với
các Tỷ-kheo.
Lần thứ ba, người ấy im lặng.
5. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna nắm
lấy cánh tay người ấy, đẩy ra khỏi cửa, đóng chốt cửa lại, rồi
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, người ấy đã bị
con đuổi ra khỏi. Hội chúng đã thanh tịnh. Bạch Thế Tôn, hãy thuyết giới
bổn cho chúng Tỷ-kheo.
- Thật vi diệu thay, này
Mahàmoggallàna ! Thật hy hữu thay, này Mahàmoggallàna ! Cho đến khi bị nắm
tay, kẻ ngu sĩ kia mới đi.
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy
hành trì Uposatha (Bố-tát), hãy đọc giới bổn. Bắt đầu từ nay, này
các Tỷ-kheo, Ta sẽ không đọc giới bổn. Này các Tỷ-kheo, không có sự
kiện, không có cơ hội rằng Như Lai có thể đọc giới bổn trong một hội
chúng không thanh tịnh.
7. Này các Tỷ-kheo, trong biển lớn
có tám pháp vi diệu chưa từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các
Asurà (A-tu-la) thích thú biển lớn. Thế nào là tám ?
Này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự
xuôi, tuần tự thuận hướng … (như trên 19, từ số 2 đến số 9) … Này
các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ tám mà do thấy vậy, thấy
vậy, các Asurà (A-tu-la) thích thú biển lớn.
Này các Tỷ-kheo, trong biển lớn
có tám pháp vi diệu chưa từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các
Asurà thích thú biển lớn.
8. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong
Pháp và Luật này có tám pháp vi diệu chưa từng có này mà do thấy vậy,
thấy vậy, các Asurà thích thú Pháp và Luật này. Thế nào là tám ?
Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn
tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng … (như trên 19 số 11 với
những thay đổi cần thiết ) … Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này,
đây là vi diệu chưa từng có thứ tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
hoan hỷ trong Pháp và Luật này.
Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật
này, có tám vi diệu, chưa từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
hoan hỷ trong Pháp và Luật này.