VI. PHẨM KHÔNG TUYÊN BỐ
(I) (51) KHÔNG TUYÊN BỐ
1. Bấy giờ một Tỷ-kheo đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, đối với Thánh đệ tử có nghe nhiều, nghi ngờ không khởi lên
đối với những vấn đề không được tuyên bố?
2. - Này Tỷ-kheo, do kiến diệt, với
vị Thánh đệ từ có nghe nhiều, nghi ngờ không khởi lên đối với những
vấn đề không được tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại",
này Tỷ-kheo, là một tà kiến. "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại",
này Tỷ-kheo, là một tà kiến. "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và
không tồn tại", này Tỷ-kheo, là một tà kiến. "Sau khi chết, Như
Lai không có tồn tại và không không tồn tại", này Tỷ-kheo, là một
tà kiến. Này Tỷ-kheo, kẻ phàm phu không có nghe nhiều, không tuệ tri kiến,
không tuệ tri kiến tập khởi, không tuệ tri kiến đoạn diệt, không tuệ
tri con đường đưa đến kiến đoạn diệt; kiến ấy của người ấy
tăng trưởng. Người ấy không thoát khỏi khổ". Này Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử có nghe nhiều, tuệ tri kiến, tuệ tri kiến tập khởi, tuệ
tri kiến đoạn diệt, tuệ tri con đường đưa đến kiến đoạn diệt; kiến
của người ấy tiêu diệt. Người ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng: "Người ấy thoát khỏi khổ". Này
Tỷ-kheo, do biết vậy, do thấy vậy, vị Thánh đệ tử có nghe nhiều
không có tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại", không có
tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không có tồn tại", không có
tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại",
không có tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại". Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử có nghe nhiều có một thái độ không tuyên bố đối với những vấn
đề không được tuyên bố. Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử không có sợ hãi, không có rung động, không có chấn động,
không rơi vào hoảng sợ đối với các vấn đề không được tuyên bố:
"Sau khi chết, Như Lai có tồn tại", này Tỷ-kheo, thuộc về khát
ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp
thủ, thuộc về truy hối. "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại" ,
này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc
về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về truy hối. "Sau khi chết,
Như Lai có tồn tại và không tồn tại" , này Tỷ-kheo, thuộc về khát
ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp
thủ, thuộc về truy hối. "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại" , này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng,
thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về
truy hối. Này Tỷ-kheo, kẻ phàm phu nghe ít, không tuệ tri truy hối, không
tuệ tri truy hối tập khởi, không tuệ tri truy hối đoạn diệt, không tuệ
tri con đường đưa đến truy hối đoạn diệt. Truy hối của người ấy
tăng trưởng. Người ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não. Ta nói rằng: "Người ấy không thoát khỏi khổ".
Này Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có nghe nhiều, tuệ tri truy hối, tuệ tri truy hối
tập khởi, tuệ tri truy hối đoạn diệt, tuệ tri con đường đi đến truy
hối đoạn diệt. Truy hối của vị ấy tiêu diệt. Vị ấy giải thoát khỏi
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng: "Người ấy thoát
khỏi khổ". Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, Thánh đệ tử
nghe nhiều, không tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại",
không tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại", không tuyên
bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại", không
tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại".
Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, Thánh đệ tử không có sợ hãi,
không có rung động, không có chấn động, không rơi vào hoảng sợ đối với
các vấn đề không được tuyên bố. Này các Tỷ-kheo, đây là chơn, đây
là duyên, đối với Thánh đệ có nghe nhiều, nghi ngờ nhiều khởi lên đối
với những vấn đề không được tuyên bố.
(II) (52) SANH THÚ CỦA LOÀI NGƯỜI
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
về bảy sanh thú của loài Người, và không chấp thủ Niết-bàn. Hãy lắng
nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo. Thế nào là bảy
sanh thú của loài Người?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi thực hành như vậy suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì đó, cái gì được thành, ta đều từ bỏ".
Vị ấy có được xả. Vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích
tụ của hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng
tịch tịnh. Vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy.
Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa
đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một
miếng vụn có thể văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ".
Vị ấy có được xả, vị ấy không tham đắm hữu, không tham đắm hậu
hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh.
Và vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy
chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn
hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy
chứng được Trung gian Niết-bàn.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong thực hành suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái này có thể
không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải của
ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ". Vị ấy có được
xả, vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích tụ của hữu;
với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh và
vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy chưa
đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn
vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn
toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng
được Trung gian Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt
được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng vụn có thể
văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái này
có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không
phải của ta...". Vị ấy đoạn diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị
ấy chứng được Trung gian Niết-bàn.
4. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy đoạn diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một
miếng vụn có thể văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, sau khi diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn.
5. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
chứng được Tổn hại Bát-niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái
bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng
vụn có thể văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
chứng được Tổn hại Bát-niết-bàn.
6. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử,
chứng được Vô hành Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng
sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng vụn có
thể văng ra, có thể bay lên, có thể rơi xuống trên một đống cỏ nhỏ,
hay trên một đống củi nhỏ; miếng vụn ấy ở đấy sanh ra ngọn lửa,
sanh ra khói. Sau khi sanh ra ngọn lửa, sau khi sanh ra khói, nó đốt chát tiêu
hết đồng cỏ nhỏ ấy, hay đống củi nhỏ ấy, rồi trở thành nguội lạnh
vì không có nhiên liệu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực
hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái này có thể không phải
của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải của ta...".
Vị ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, chứng được Vô hành Niết-bàn.
7. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo khi thực hành như vậy, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này
không có, cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có,
cái này sẽ không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần
kiết sử, chứng được Hữu hành Bát-niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo,
một cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh,
một miếng vụn có thể văng ra, có thể bay lên, có thể rơi xuống trên một
đống cỏ nhỏ, hay trên một đống củi nhỏ; miếng vụn ấy ở đấy
sanh ra ngọn lửa, sanh ra khói. Sau khi sanh ra ngọn lửa, sau khi sanh ra khói,
nó đốt chát tiêu hết đồng cỏ nhỏ ấy, hay đống củi nhỏ ấy, rồi
trở thành nguội lạnh vì không có nhiên liệu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
chứng được Hữu hành Bát-niết-bàn.
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi thực hành như vậy suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ.".
Vị ấy có được xả, vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích
tụ của hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng
tịch tịnh và vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy.
Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa
đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy chứng được Thượng lưu, đi đến Sắc cứu cánh. Ví như, này
các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được
đập đánh, một miếng vụn có thể văng ra, có thể bay lên, có thể rơi
xuống trên một đống cỏ, hay trên một đống củi to lớn; miếng vụn
ấy ở đấy sanh ra ngọn lửa, sanh ra khói. Sau khi sanh ra ngọn lửa, sau khi
sanh ra khói, nó đốt chát tiêu hết đồng cỏ, hay đống củi to lớn ấy,
thiêu cháy lùm cây, thiêu cháy rừng rậm. Sau khi thiêu cháy thảo nguyên,
sau khi thiêu cháy rừng rậm, nó cháy lan đến đám ruộng xanh hay đến đám
đất cao, hay đến hòn đá, hay đến dòng nước, hay đến đám đất khả
ái, hay đến một phần đất nào rồi trở thành nguội lạnh vì không có
nhiên liệu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ
như sau: "Nếu cái này không có, cái này có thể không phải của ta. Nếu
cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải của ta...". Vị ấy, do
diệt tận năm hạ phần kiết sử, chứng được Thượng lưu Bát-niết-bàn,
đi đến Sắc cứu cánh.
Này các Tỷ-kheo, đây là bảy sanh
thú của loài Người. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Không chấp thủ
Bát-Niết-bàn?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
khi thực hành như vậy, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái
này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ.".
Vị ấy có được xả, vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích
tụ của hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng
tịch tịnh và vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy.
Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa
đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử,
vị ấy tự mình với thắng trí, ngay trong hiện tại, chứng nhập, chứng
đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là Không chấp thủ Bát-niết-bàn. Và này các Tỷ-kheo, đây là bảy
sanh thú của loài Người và Không chấp thủ Bát-niết-bàn.
(III) (53) TISSA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Rajagaha
(Vương Xá), tại núi Gijjihakuta (Linh Thứu). Bấy giờ có hai Thiên nhân sau
khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng
Gijjihakuta, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng
một bên. Sau khi đứng một bên, một Thiên nhân bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni
này được giải thoát.
Thiên nhân khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni
này khéo giải thoát, không có dư y.
Các Thiên nhân ấy nói như vậy. Bậc
Đạo Sư chấp nhận. Rồi các Thiên nhân ấy, sau khi được biết: "Bậc
Đạo Sư đã chấp nhận", đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về
Ngài, rồi biến mất tại chỗ. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, bảo
các Tỷ-kheo:
- Đêm này, này các Tỷ-kheo, có hai
Thiên nhân sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng
toàn vùng Gijjihakuta, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một
bên. Sau khi đứng một bên, một Thiên nhân bạch với Ta: "Bạch Thế
Tôn, những Tỷ-kheo-ni này được giải thoát". Thiên nhân khác bạch với
Ta: "bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này khéo giải thoát, không có dư
y". Này các Tỷ-kheo, các Thiên nhân ấy nói như vậy. Sau khi nói như vậy,
các Thiên nhân ấy đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta, rồi biến mất
tại chỗ.
2. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Mahàmoggallàna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna
suy nghĩ như sau: "Những Thiên nhân nào có trí như sau: "Có dư y là
có dư y" hay "không có dư y là không có dư y"". Lúc bấy giờ,
Tỷ-kheo tên là Tissa mạng chung không bao lâu và được sanh lên một Phạm
thiên giới. Tại đấy, họ được biết vị ấy là Phạm thiên Tissa, có
đại thần lực, có đạt uy lực. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna, như người
lực sĩ duỗi cánh đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy,
biến mất ở Gijjihakuta và hiện ra ở Phạm thiên giới ấy. Phạm thiên
Tissa thấy Tôn giả Mahàmoggallàna từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với
Tôn giả Mahàmoggallàna:
- Hiền giả Moggallàna, hãy đến đây!
Thiện lai Hiền giả Moggallàna! Đã lâu, Hiền giả Moggallàna mới tạo cơ
hội này, tức là đến đây. Hãy ngồi, Hiền giả Moggallàna, đây là chỗ
ngồi đã soạn sẵn!
Tôn giả Mahàmoggallàna ngồi xuống
trên chỗ đã soạn sẵn. Phạm thiên Tissa đảnh lễ Tôn giả
Mahàmoggallàna rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Mahàmoggallàna nói với
Phạm thiên Tissa đang ngồi xuống một bên:
- Những Thiên nhân nào có trí như
sau: "Có dư y là có dư y" hay "không có dư y là không có dư
y". Thưa Hiền giả Moggallàna, Phạm chúng thiên có trí như sau: "Có
dư y là có dư y" hay "không có dư y là không có dư y".
- Này Tissa, có phải tất cả chư
Thiên ở Phạm chúng thiên đều có trí như vậy: "Có dư y là có dư
y" hay "không có dư y là không có dư y"?
3. - Thưa Hiền giả, không phải tất
cả chư thiên ở Phạm chúng thiên đều có trí như vậy: "Có dư y là
có dư y" hay "không có dư y là không có dư y". Thưa Hiền giả
Moggallàna, những Thiên nhân nào ở Phạm chúng thiên bằng lòng với tuổi
thọ Phạm thiên, bằng lòng với dung sắc Phạm thiên, với an lạc Phạm
thiên, với danh tiếng Phạm thiên, với uy quyền Phạm thiên, không như thật
rõ biết sự xuất ly cao hơn trạng thái ấy. Những vị ấy không có trí
như sau: "Có dư y là có dư y" hay "không có dư y là không có dư
y". Và thưa Hiền giả Moggallàna, những Thiên nhân nào ở Phạm chúng
thiên, không bằng lòng với tuổi thọ Phạm thiên, không bằng lòng với
dung sắc Phạm thiên, với an lạc Phạm thiên, với danh tiếng Phạm thiên,
với uy quyền Phạm thiên, như thật rõ biết sự xuất ly cao hơn trạng thái
ấy; những vị ấy có trí như sau: "Có dư y là có dư y" hay
"không có dư y là không có dư y".
4. Ở đây, thưa Hiền giả Moggallàna,
Tỷ-kheo được giải thoát cả hai phần. Chư Thiên ấy biết về vị ấy
như sau: "Tôn giả này được giải thoát cả hai phần". Khi thân
còn tồn tại, các Thiên nhân và loài Người không thấy được vị ấy.
Như vậy, thưa Hiền giả Moggallàna, các Thiên nhân ấy, có trí như sau:
"Không có dư y là không có dư y".
5. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả
Moggallàna, Tỷ-kheo được tuệ giải thoát, chư Thiên ấy biết về vị ấy
như sau: "Tôn giả này được tuệ giải thoát". Khi thân còn tồn tại,
các Thiên nhân và loài Người thấy được vị ấy. Khi thân hoại, các
Thiên nhân và loài Người không thấy được vị ấy. Như vậy, thưa Hiền
giả Moggallàna, các Thiên nhân ấy có trí như sau: "Không có dư y là
không có dư y".
6. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả
Moggallàna, Tỷ-kheo thân chứng, chư Thiên ấy biết về vị ấy như sau:
"Tôn giả này là vị thân chứng. Rất có thể Tôn giả này, do sử dụng
các sàng tọa thích đáng, do thân cận các thiện bằng hữu, do chế ngự
các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, mà các thiện
nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình". Như vậy, thưa Hiền giả Moggallàna, các Thiên nhân ấy
có trí như sau: "Có dư y là có dư y".
7. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả
Moggallàna, Tỷ-kheo kiến chí... tín giải thoát... tùy pháp hành. Chư Thiên
ấy biết về vị ấy như sau: "Tôn giả này là vị tùy pháp hành. Rất
có thể Tôn giả này, do sử dụng các sàng tọa thích đáng, do thân cận
các thiện bằng hữu, do chế ngự các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện
tại tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô thượng
cứu cánh Phạm hạnh, mà các thiện nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Như vậy, thưa Hiền giả
Moggallàna, các Thiên nhân ấy có trí như sau: "Hay trong các vị có dư
y, vị ấy là vị có dư y".
8. Rồi Tôn giả Moggallàna hoan hỷ
tín thọ lời nói của Phạm thiên Tissa. Như một người lực sĩ duỗi cánh
tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, Tôn giả biến
mất ở Phạm thiên giới, hiện ra ở núi Gijjihakùta. Rồi Tôn giả,
Mahàmoggallàna đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahàmoggallàna, đem câu chuyện
nói với Phạm thiên Tissa như thế nào, tường thuật hết tất cả cho Thế
Tôn nghe.
- Nhưng này Moggallàna, Phạm thiên
Tissa không nói cho Thầy về hạng người vô tướng trú thứ bảy.
- Bạch Thế Tôn, nay là thời, bạch
Thiện Thệ, nay là thời để Thế Tôn nói về người trú vô tướng thứ
bảy. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Này Moggallàna, hãy lắng nghe.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Mahàmoggallàna vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
9. - Ở đây, này Moggallàna, Tỷ-kheo
không tác ý tất cả tướng, chứng đạt vô tướng tâm định và an trú.
Các Thiên nhân ấy biết về vị ấy như sau: "Tôn giả này, do không
tác ý tất cả tướng, chứng đạt và an trú vô tướng tâm định. Rất có
thể Tôn giả này do sử dụng các sàng tọa thích đáng, do thân cận các
thiện bằng hữu, do chế ngự các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện tại
tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô thượng cứu
cánh Phạm hạnh mà các thiện nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Như vậy, này Moggallàna,
các Thiên nhân ấy có trí ấy như sau: "Có dư y là có dư y".
(IV) (54) SÌHA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Vesali, tại
Đại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi tướng quân Sìha đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, tướng quân Sìha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể
nêu rõ kết quả hiện tại của sự bố thí?
2. - Này Sìha, ở đây Ta sẽ hỏi
Ông. Ông kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời như vậy. Ông nghĩ thế nào,
này Sìha, ở đây có hai người: một người không có lòng tin, xan tham, keo
kiệt, ác khẩu; một người có lòng tin là người thí chủ, ưa thích
không chấp thủ, nghĩ thế nào, này Sìha, các vị A-la-hán có lòng từ mẫn,
sẽ có lòng từ mẫn với ai trước, với người không có lòng tin, xan
tham, keo kiệt, ác khẩu hay với người có lòng tin, là người chí thủ,
không có chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không
có lòng tin, xan tham, keo kiệt, ác khẩu, làm sao các vị A-la-hán có lòng từ
mẫn, sẽ có lòng từ mẫn với hạng người này trước được? Và bạch
Thế Tôn, người nào có lòng tin, là người thí chủ, không có chấp thủ,
các vị A-la-hán có lòng từ mẫn, sẽ có lòng từ mẫn với hạng người
này trước.
3. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
các vị A-la-hán đi đến thăm, có thể đến thăm ai trước, hạng người
không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu, hay hạng người có lòng tin,
là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không
có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu, làm sao các vị A-la-hán đi đến
thăm, có thể đến thăm trước được? Và bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, là người thí chủ, không có chấp thủ, các vị A-la-hán đi đến
thăm sẽ đi đến hạng người này trước.
4. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
các vị A-la-hán thọ lãnh đồ ăn khất thực, có thể thọ lãnh của ai trước,
hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu hay hạng người
có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao các vị A-la-hán thọ lãnh, có
thể thọ lãnh của hạng người ấy trước được? Và bạch Thế Tôn, hạng
người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, các vị
A-la-hán có thể thọ lãnh của hạng người này trước.
5. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
các vị A-la-hán thuyết pháp cho ai trước, hạng người không có lòng tin,
xan tham, keo kiết, ác khẩu hay hạng người có lòng tin, là người thí chủ,
ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao các vị A-la-hán thuyết pháp sẽ
thuyết pháp cho hạng người ấy trước được? Và bạch Thế Tôn, hạng
người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, các vị
A-la-hán thuyết pháp có thể thuyết pháp cho hạng người này trước.
6. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
danh tiếng tốt đẹp của ai được truyền rộng ra, hạng người không có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu hay hạng người có lòng tin, là người
thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao danh tiếng tốt đẹp của hạng
người ấy được truyền rộng ra? Bạch Thế Tôn, hạng người có lòng
tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, danh tiếng tốt đẹp của
hạng người này có thể được truyền rộng ra.
7. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha, ai
đi đến bất cứ hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội
chúng Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến
không sợ hãi, không rụt rè, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết,
ác khẩu hay hạng người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không
chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao hạng người ấy đi đến bất
cứ hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội chúng
Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến không
sợ hãi, không rụt rè được? Bạch Thế Tôn, hạng người có lòng tin,
là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, hạng người ấy đi đến bất
cứ hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội chúng
Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến không
sợ hãi, không rụt rè.
8. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
sau khi thân hoại mạng chung, ai có thể sanh lên thiện thú, thiên giới,
cõi đời này, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu
hay hạng người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu làm sao hạng người ấy, sau khi thân
hoại mạng chung, ai có thể sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này?
Bạch Thế Tôn, hạng người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích
không chấp thủ, hạng người này, sau khi thân hoại mạng chung, ai có thể
sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này
9. Bạch Thế Tôn, sáu kết quả hiện
tại của bố thí này được Thế Tôn tuyên bố không phải vì họ, con đi
đến lòng tin đối với Thế Tôn. Con biết họ. Bạch Thế Tôn, con là người
bố thí, là người thí chủ. Các vị A-la-hán có lòng từ mẫn, có lòng từ
mẫn với con trước. Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí
chủ. Các vị A-la-hán có đi đến thăm, đi đến thăm con trước. Bạch Thế
Tôn, con là người bố thí, là người thí chủ. Các vị A-la-hán có nhận
lãnh đồ ăn khất thực, nhận lãnh của con trước. Bạch Thế Tôn, con là
người bố thí, là người thí chủ. Các vị A-la-hán có thuyết pháp, thuyết
pháp cho con trước. . Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí
chủ, tiếng đồn tốt đẹp về con được truyền rộng ra: "Tướng quân
Sìha là người bố thí, là người hành động, là người ủng hộ chúng Tăng".
Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí chủ; con đi đến hội
chứng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội chúng Bà-la-môn, hoặc hội
chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến không sợ hãi, không rụt
rè. Bạch Thế Tôn, sáu kết quả hiện tại của bố thí này được Thế
Tôn tuyên bố, không phải vì họ, con đi đến lòng tin đối với Thế Tôn.
Con biết họ. Nhưng bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói về con như sau: "Sìha
là người bố thí, là thí chủ, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên
thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Con không biết vấn đề này,
ở đây, con đi đến lòng tin nơi Thế Tôn.
- Như vậy là phải, này Sìha! Như
vậy là phải, này Sìha! Sìha là người bố thí, là người thí chủ, sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời
này.
(V) (55) KHÔNG CÓ CHE ĐẬY
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn điều
Như Lai không phải che đậy, và đối với ba điều, Ngài không có phạm lỗi.
Thế nào là bốn điều Như Lai không phải che đậy?
2. Này các Tỷ-kheo, thân hành của
Như Lai là thanh tịnh. Như Lai không có thân ác hành, khiến Như Lai phải
che đậy: "Đừng để cho người khác biết việc này của Ta!".
Này các Tỷ-kheo, khẩu hành của Như Lai là thanh tịnh. Như Lai không có khẩu
ác hành, khiến Như Lai phải che đậy: "Đừng để cho người khác biết
việc này của Ta!". Này các Tỷ-kheo, ý hành của Như Lai là thanh tịnh.
Như Lai không có ý ác hành, khiến Như Lai phải che đậy: "Đừng để
cho người khác biết việc này của Ta!". Này các Tỷ-kheo mạng sống của
Như Lai là thanh tịnh. Như Lai không có tà mạng, khiến Như Lai phải che đậy:
"Đừng để cho người khác biết việc này của Ta!".
Bốn điều này, Như Lai không phải
che đậy. Thế nào là ba điều Như Lai không có phạm lỗi?
3. Này các Tỷ-kheo, pháp được
Như Lai khéo thuyết. Ở đây, chắc chắn không có một ai, hoặc Sa-môn, hay
Bà-la-môn, hay Thiên nhân, hay Ác ma, hay Phạm thiên, hay một ai ở đời sẽ
có thể buộc tội một cách đúng pháp: "Ở đây, pháp không được Ngài
khéo thuyết". Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy có tướng này. Này các Tỷ-kheo,
do không thấy có tướng này, Ta an trú, đạt được an ổn, đạt được
không sợ hãi, đạt được không hoảng sợ. Này các Tỷ-kheo, con đường
đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử được Ta làm cho khéo rõ biết. Nhờ
thực hành con đường như vậy, các đệ tử của Ta do diệt tận các lậu
hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ thắng trí, chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ở đây chắc chắn không
có một ai, hoặc Sa-môn, hay Bà-la-môn, hay Thiên nhân, hay Ác ma, hay Phạm
thiên, hay một ai ở đời sẽ có thể buộc tội một cách đúng pháp:
"Ở đây, con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử không được
Ngài làm cho khéo rõ biết. Nhờ thực hành con đường như vậy, các đệ tử
của Ngài do diệt tận các lậu hoặc..., ... và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát". Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy có tướng này.
Này các Tỷ-kheo, do không thấy có tướng này, Ta an trú, đạt được an
ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được không hoảng sợ. Này các Tỷ-kheo,
có đến hàng trăm hội chúng đệ tử của Ta do diệt tận các lậu hoặc,
... chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Ở đây chắc chắn không có một ai, hoặc Sa-môn, hay Bà-la-môn, hay
Thiên nhân, hay Ác ma, hay Phạm thiên, hay một ai ở đời sẽ có thể buộc
tội một cách đúng pháp: "Như vậy, Ngài không có hàng trăm hội chúng
đệ tử, do diệt tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình chứng
ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát.". Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy có tướng này. Này các Tỷ-kheo,
do không thấy có tướng này, Ta an trú, đạt được an ổn, đạt được
không sợ hãi, đạt được không hoảng sợ. Đối với ba điều này, Ta
không có phạm lỗi.
Này các Tỷ-kheo, có bốn điều này,
Như Lai không phải che đậy, và đối với ba điều này, Ngài không có phạm
lỗi.
(VI) 956) KIMBILA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Kimbila,
tại rừng Trúc. Rồi Tôn giả Kimbila đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Kimbila bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không được tồn tại lâu
dài?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập
diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không cung kính,
không tùy thuận bậc Đạo Sư; sống không cung kính, không tùy thuận Pháp;
sống không cung kính, không tùy thuận chúng Tăng; sống không cung kính,
không tùy thuận học pháp, sống không cung kính, không tùy thuận Thiền định;
sống không cung kính, không tùy thuận không phóng dậﴻ sống không cung
kính, không tùy thuận nghinh đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên,
khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không được tồn tại lâu dài.
2. - Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập
diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống cung kính, tùy
thuận bậc Đạo Sư, sống cung kính tùy thuận Pháp; sống cung kính tùy thuận
học pháp; sống cung kính tùy thuận Thiền định; sống cung kính tùy thuận
không phóng dật; sống cung kính tùy thuận nghinh đón. Này Kimbila, đây là
nhân, đây là duyên, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu
dài.
(VII) (57) BẢY PHÁP
1. - Này các Tỷ-kheo, thành tựu bảy
pháp, Tỷ-kheo không bao lâu diệt tận các lậu hoặc... chứng ngộ, chứng
đạt và an trú. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có lòng tin, có giữ giới, có nghe nhiều, sống Thiền tịnh, tinh cần tinh
tấn, có chánh niệm, có trí tuệ.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không bao lâu, do diệt tận các lậu hoặc chứng ngộ, chứng đạt
và an trú.
(VIII) (58) NGỦ NGỤC
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, tại vườn Nai. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Mahàmoggallàna đang ngồi ngủ gục, trong làng Kallavàlamutta, giữa dân chúng
Magadha. Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy Tôn giả
Mahàmoggallàna đang ngồi ngủ gục, trong làng Kallavàlamutta, giữa dân chúng
Magadha. Thấy vậy, như nhà lực sĩ duỗi bàn tay đang co lại, hay co lại bàn
tay đang duỗi ra; cũng vậy, Thế Tôn biến mất giữa dân chúng Bhagga, tại
núi Sumsumàra, rừng Bhesakalà, ở vườn Nai, rồi hiện ra trước mặt Tôn
giả Mahàmoggallàna, tại làng Kallavàlamutta, giữa dân chúng Magadha. Thế
Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn; sau khi ngồi, Thế Tôn nói với
Tôn giả Mahàmoggallàna.
- Này Moggallàna, có phải Thầy ngủ
gục? Này Moggallàna, có phải Thầy ngủ gục?
- Thưa phải, bạch Thế Tôn.
2. - Do vậy, này Moggallàna, khi nào
Thầy trú có tưởng và thụy miên xâm nhập Thầy, chớ có tác ý đến nó,
chớ có tưởng nhiều đến nó. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như
vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
3. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna, với tâm của Thầy,
hãy tùy tâm, tùy tứ, với ý hãy tùy quán pháp như đã được nghe, như đã
được học thuộc lòng. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy
miên ấy được đoạn diệt.
4. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy đọc tụng
pháp một cách rộng rãi, như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng.
Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn
diệt.
5. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy kéo hai lỗ
tai của Thầy, và lấy tay xoa bóp tay chân. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy
trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
6. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy từ chỗ
ngồi, đứng dậy lấy nước chùi mắt, nhìn về phía chân trời và nhìn
lên các sao lấp lánh. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy
miên ấy được đoạn diệt.
7. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy tác ý đến
quang tưởng và an trú vào tưởng ban ngày. Như ban ngày, ban đêm cũng vậy.
Như ban đêm, ban ngày cũng vậy. Như vậy, với tâm rộng mở, không có hạn
chế. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy miên ấy được
đoạn diệt.
8. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy trú tâm
trên chỗ kinh thành, với tưởng trước mặt và sau lưng, với căn hướng
nội, với ý không hướng ngoại. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như
vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
9. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy nằm như
dáng nằm con sư tử, về phía hông bên phải, hai chân gác lên nhau, chánh
niệm tỉnh giác, tác ý với tưởng thức dậy. Và khi thức dậy, này
Moggallàna, Thầy hãy thức dậy thật mau, nghĩ rằng: "Ta sẽ trú, không
có chú tâm đến lạc nằm ngủ, lạc nằm xuống một bên, lạc thụy
miên". Như vậy, này Moggallàna, Thầy cần phải học tập.
10. Do vậy, này Moggallàna, hãy học
tập như sau: "Không say sưa trong cao mạn, ta sẽ đi đến thăm các gia
đình". Này Moggallàna, như vậy các Thầy sẽ học tập. Này Moggallàna,
nếu Tỷ-kheo say sưa trong cao mạn đi đến thăm các gia đình. Trong các gia
đình, này Moggallàna, người ta có nhiều công việc phải làm. Do vậy, người
ta không có tác ý đến Tỷ-kheo đã đi đến. Ở đây, Tỷ-kheo ấy có thể
suy nghĩ: "Nay, ai đã chia rẽ ta với gia đình này. Các người này
không ưa thích gì ta". Như vậy, do không được gì, vị ấy nản chí,
vị ấy giao động; do giao động, vị ấy không phòng hộ, do không phòng hộ,
tâm rời xa Thiền định. Do vậy, này Moggallàna, hãy học tập như sau:
"Ta sẽ không nói lời khiêu khích". Như vậy, này Moggallàna, Thầy
cần phải học tập. Khi nào có lời khiêu khích, này Moggallàna, thời chờ
đợi là nhiều lời qua tiếng lại, khi nào có nhiều lời qua tiếng lại,
thời có dao động. Với người có dao động, thời không có phòng hộ. Với
người không có phòng hộ, tâm rời xa Thiền định. Này Moggallàna, Ta
không tán thán tất cả sự liên hệ, nhưng không phải Ta không tán thán tất
cả sự liên hệ. Thật vậy, này Moggallàna, Ta không tán thán các vị xuất
gia có sự liên hệ, với các gia chủ. Nhưng với các trú xứ ít tiếng ồn,
ít tiếng động, thoát khỏi hơi thở của nhiều người, những chỗ ở cô
độc xa vắng loài Người, thích hợp cho đời sống Thiền tịnh, Ta tán
thán sự liên hệ với những trú xứ như vậy.
11. Được nghe nói như vậy, Tôn giả
Mahàmoggallàna bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, cho đến như thế
nào, tóm tắt lại, một Tỷ-kheo được giải thoát nhờ sự đoạn diệt
khát ái, đạt đến cứu cánh mục đích, đạt đến cứu cánh an ổn khỏi
ách nạn, đạt đến cứu cánh Phạm hạnh, đạt đến cứu cánh của cứu
cánh, trở thành tối thượng giữa chư Thiên và loài Người?
- Này Moggallàna, ở đây, Tỷ-kheo
được nghe như sau: "Không nên thiên chấp tất cả pháp". Này
Moggallàna, và Tỷ-kheo được nghe như sau: "Không nên thiên chấp tất cả
pháp". Vị ấy thắng tri tất cả pháp; do thắng tri tất cả pháp, vị
ấy liễu tri tất cả pháp. Do liễu tri tất cả pháp, phàm có cảm thọ
gì được cảm giác, lạc, khổ hay không khổ, không lạc, vị ấy trú tùy
quán vô thường đối với các cảm thọ ấy. Vị ấy trú tùy quán ly tham.
Vị ấy trú tùy quán đoạn diệt. Vị ấy trú tùy quán từ bỏ. Do vị ấy
trú tùy quán vô thường trong các cảm thọ, do vị ấy trú tùy quán ly
tham, do vị ấy tùy quán đoạn diệt. Vị ấy trú tùy quán từ bỏ, nên
không chấp thủ một cái gì ở đời; do không chấp thủ nên không lo âu;
do không tham đắm nên tự mình nhập Niết-bàn. Vị ấy biết rõ: "Sanh
đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui
trong trạng thái này nữa". Này Moggallàna, cho đến như vậy, tóm tắt
lại, một Tỷ-kheo được giải thoát nhờ sự đoạn diệt khát ái, đạt
đến mục đích cứu cánh, đạt đến cứu cánh an ổn khỏi các ách nạn,
đạt đến cứu cánh Phạm hạnh, đạt đến cứu cánh của cứu cánh, trở
thành tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.
Này các Tỷ-kheo, chớ có sợ hãi
các công đức. Này các Tỷ-kheo, đồng nghĩa với an lạc chính là các
công đức . Ta thắng tri rằng, này các Tỷ-kheo, các công đức được làm
lâu ngày có quả dị thúc, có sự hình thành khả ái, khả hỷ, khả ý
lâu ngày. Trong bảy năm Ta tu tập từ tâm, sau khi tu tập từ tâm bảy năm,
trong bảy thành kiếp hoại kiếp, Ta không trở lui lại thế giới này. Khi
thế giới ở trong thành kiếp, này các Tỷ-kheo, Ta đi đến thế giới
Quang A⭠thiên. Khi thế giới ở trong kiếp đấy, này các Tỷ-kheo, Ta là Phạm
thiên, là Đại phạm thiên, vị Chiến thắng, vị Vô năng thắng, vị Biến
tri, vị Tự tại. Ba mươi sáu lần, này các Tỷ-kheo, Ta là Thiên chủ
Sakka. Nhiều lần bảy lần, Ta là vị Chuyển luân vương theo Chánh pháp,
là vị Pháp vương, bậc Chiến thắng bốn phương, đạt được sự thanh bình
cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Này các Tỷ-kheo, Ta có bảy loại
châu báu này, như là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ
báu và cư sĩ báu là thứ bảy. Ta có hơn một ngàn người con trai, này
các Tỷ-kheo, là những bậc anh hùng, dõng mãnh, đánh tan địch quân. Và
khi ta chiến thắng quả đất này, xa cho đến bờ biển, Ta trị vì quả đất
này không dùng trượng, không dùng đao, đúng với Chánh pháp.
Hãy xem quả dị thục,
Của các việc công đức,
Của các việc hiền thiện,
Với kẻ tìm an lạc.
Này Tỷ-kheo, Ta tu,
Từ tâm trong bảy năm,
Trong bảy thành hoại kiếp,
Không trở lại thành kiếp,
Ta đạt Quang A⭠thiên,
Khi thế giới hoại kiếp
Sanh Phạm cung trống rỗng.
Bảy lần, Ta đóng vai,
Đại Phạm thiên, Tự tại,
Trong ba mươi sáu lần,
Làm Thiên chủ Thiên giới.
Ta làm vua Chuyển luân,
Chủ tể cõi Diêm-phù.
Bậc Sát-ly quán đảnh,
Bậc chủ tể loài Người,
Ta chiến thắng đất này,
Không với trượng, với kiếm,
Không bạo lực, đúng pháp,
Đối mọi người bình đẳng,
Ta trị vì đúng pháp,
Trên cõi đất tròn này.
Ta khiến các gia đình,
Giàu lớn, tài sản lớn,
Họ hưởng mọi dục lạc,
Ta đầy đủ bảy báu,
Chư Phật thương tưởng đời,
Khéo dạy điều như vậy.
Đấy là nhân đại sự,
Được gọi là Địa vương.
Ta là vua, huy hoàng,
Bảo vệ nhiều tài sản,
Có thần lực, danh xưng,
Vương chủ rừng Diêm-phù,
Ai nghe, không tịnh tín?
Trừ các loại ác sanh,
Do vậy muốn lợi ích,
Cầu vọng sự lớn mạnh,
Hãy kính trọng diệu pháp,
Hãy nhớ lời Phật dạy.
(IX) (59) CÁC NGƯỜI VỢ
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế Tôn đắp y,
vào buổi sáng, cầm y bát, đi đến trú xử của Anàthapindika; sau khi đến,
ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Lúc bấy giờ, trong trú xứ của gia
chủ Anàthapindika có nhiều người nói cao tiếng, nói lớn tiếng. Rồi
Anàthapindika đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên:
- Này Gia chủ, vì sao trong nhà của
Ông lại có nhiều người nói cao tiếng, nói lớn tiếng như những người
đánh cá đang giành giựt cá?
- Bạch Thế Tôn, có nàng dâu
Sujàtà giàu có đến đây từ một gia đình giàu có. Nàng không vâng lời
mẹ chồng, không vâng lời cha chồng, không vâng lời chồng, cũng không
cung kính, không tôn trọng, không lễ bái, không cúng dường Thế Tôn.
2. Rồi Thế Tôn cho gọi nàng dâu
Sujàtà:
- Hãy đến đây Sujàtà!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Nàng dâu Sujàtà vâng đáp Thế
Tôn, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống
một bên. Thế Tôn nói với nàng dâu Sujàtà đang ngồi một bên:
- Này Sujàtà có bảy loại vợ này
cho người đàn ông. Thế nào là bảy? Vợ như người sát nhân, vợ như
người ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như người mẹ, vợ như
người chị, vợ như người bạn, vợ như người nữ tỳ. Này Sujàtà, có
bảy loại vợ cho người đàn ông. Và con thuộc loại vợ nào?
- Bạch Thế Tôn, lời dạy tóm tắt
này của Thế Tôn, con không hiểu rõ ý nghĩa một cách rộng rãi. Lành
thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp cho con để
con có thể hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi lời dạy tóm tắt này của
Thế Tôn.
- Vậy này Sujàtà, hãy nghe và suy
nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng Sujàtà vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Ai tâm bị uế nhiễm,
Không từ mẫn thương người,
Thích thú những người khác,
Khinh rẻ người chồng mình,
Bị mua chuộc bằng tiền,
Hăng say giết hại người,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ sát nhân.
Còn hạng nữ nhân nào,
Tiêu xài tài sản chồng,
Do công nghiệp đem lại,
Hay thương nghiệp, nông nghiệp,
Do vậy, nếu muốn trộm,
Dầu có ít đi nữa,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ ăn trộm.
Không ưa thích làm việc,
Biếng nhác, nhưng ăn nhiều,
Ác khẩu và bạo ác,
Phát ngôn lời khó chịu,
Mọi cố gắng của chồng,
Đàn áp và chỉ huy,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi là vợ chủ nhân.
Ai luôn luôn từ mẫn,
Có lòng thương xót người,
Săn sóc giúp đỡ chồng,
Như mẹ chăm sóc con,
Tài sản hồng cất chứa,
Biết hộ trì gìn giữ,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ như mẹ,
Ai như người em gái,
Đối xử với chị lớn,
Biết cung kính tôn trọng,
Đối với người chồng mình,
Với tâm biết tàm quí,
Tùy thuận phục vụ chồng,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ như chị.
Ai ở đời thấy chồng,
Tâm hoan hỷ vui vẻ,
Như người bạn tốt lành,
Đã lâu ta xa về,
Sanh gia đình hiền đức,
Giữ giới, dạ trung thành,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ như bạn.
Không tức giận, an tịnh,
Không sợ hình phạt, trượng,
Tâm tư không hiềm hận,
Nhẫn nhục đối với chồng,
Không phẫn nộ tức giận,
Tùy thuận lời chồng dạy,
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ nữ tỳ.
Ở đời các hạng vợ,
Được gọi vợ sát nhân,
Kể cả vợ ăn trộm,
Và cả vợ chủ nhân,
Vợ ấy không giữ giới,
Ác khẩu và vô lễ
Khi thân hoại mạng chung,
Bị sanh vào địa ngục.
Ở đời các hạng vợ,
Như mẹ, chị và bạn,
Và người vợ được gọi,
Là vợ như nữ tỳ,
An trú trên giới đức,
Khéo phòng hộ lâu ngày,
Khi thân hoại mạng chung,
Được sanh lên thiện thú.
Này Sujàtà, có bảy loại vợ này
đối với người đàn ông. Con thuộc hạng người nào?
- Bạch Thế Tôn, bắt đầu từ hôm
nay, Thế Tôn hãy xem con là người vợ đối với chồng như người vợ nữ
tỳ.
- (X) (60) SÂN HẬN
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp
này được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến
người phẫn nộ, đàn bà hay đàn ông. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này
trở thành xấu xí!’ Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không
hoan hỷ kẻ thù địch của mình có dung sắc. Này các Tỷ-kheo, hạng người
nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, dầu cho người
ấy khéo tắm rửa, khéo chải chuốt, tóc râu khéo sửa soạn, mặc toàn đồ
trắng rồi người ấy cũng trở thành xấu xí, vì bị phẫn nộ chinh phục.
Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ nhất, được người thù địch ưa thích,
tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn
ông.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này
ngủ một cách khổ sở!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch
không hoan hỷ kẻ thù địch của mình ngủ một cách an lành. Này các Tỷ-kheo,
hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối,
dầu có nằm trên ghế dài, nệm trải bằng len, chăn len trắng, chăn len thêu,
nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm khảm với lọng che phía
trên, ghế dài có đầu gối chân màu đỏ. Tuy vậy, họ vẫn ngủ một cách
khổ sở, vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ
hai, được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến
người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này
không có lợi ích!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không
hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được lợi ích. Này các Tỷ-kheo, hạng
người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối,
thâu hoạch bất lợi, lại nghĩ rằng: "Ta được lợi ích", thâu
hoạch điều bất lợi ích, lại nghĩ rằng: "Ta không được lợi
ích". Những pháp này được nắm giữ khiến người khác trở thành
thù địch, đưa đến không hạnh phúc, đau khổ lâu dài, vì bị phẫn nộ
chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ ba, được người thù ưa thích,
tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn
ông.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này
không có tài sản!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không
hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được tài sản. Này các Tỷ-kheo, hạng
người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, những
tài sản của họ thâu hoạch do sự phấn chấn tinh cần, cất chứa do sức
mạnh của cánh tay, chồng chất do những giọt mồ hôi, đúng pháp, thâu hoạch
hợp pháp. Các tài sản ấy được nhà vua cho chở về ngân khố nhà vua,
vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ tư, được
người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ,
đàn bà hoặc đàn ông.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này
không có danh tiếng!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không
hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được danh tiếng. Này các Tỷ-kheo, hạng
người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, nếu
có được danh tiếng gì nhờ không phóng dật thâu hoạch được, danh tiếng
ấy lánh xa họ, vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là
pháp thứ năm, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến
người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này
không có bạn bè!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không
hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được bạn bè. Này các Tỷ-kheo, hạng
người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, nếu
người đó có những bạn bè thân hữu, bà con huyết thống gì, họ sẽ xa
lánh, từ bỏ người đó, vì người đó bị phẫn nộ chinh phục. Đây là
pháp thứ sáu, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến
người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này
sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục !" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ
thù địch của mình sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này! Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ,
bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, người đó làm ác hạnh
với thân, người đó nói lời ác hạnh với lời, người đó nghĩ đến
điều ác hạnh với ý, khi thân hoại mạng chung, người đó sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đây là pháp thứ bảy, được người thù
ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc
đàn ông.
Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo,
được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người
phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Kẻ phẫn nộ xấu xí,
Đau khổ khi nằm ngủ,
Được các điều lợi ích
Lại cảm thấy bất lợi.
Phẫn nộ, nó đả thương,
Với thân với lời nói,
Người phẫn nộ chinh phục,
Tài sản bị tiêu vong.
Bị phẫn nộ điên loạn,
Danh dự bị hủy diệt,
Bà con cùng bạn bè,
Lánh xa người phẫn nộ.
Phẫn nộ sanh bất lợi,
Phẫn nộ dao động tâm,
Sợ hãi sanh từ trong,
Người ấy không rõ biết.
Phẫn nộ không biết lợi,
Phẫn nộ không thấy pháp,
Phẫn nộ chinh phục ai,
Người ấy bị mê ám.
Người phẫn nộ thích thú
Làm ác như làm thiện,
Về sau phẫn nộ dứt,
Bị khổ như lửa đốt,
Như ngọn lửa dầu khói,
Được thấy thất thểu cháy,
Khi phẫn nộ lan tràn,
Khi tuổi trẻ nổi nóng,
Không xấu hổ, sợ hãi,
Lời nói không cung kính.
Bị phẫn nộ chinh phục,
Không hòn đảo tựa nương.
Việc làm đem hối hận,
Rất xa với Chánh pháp.
Ta sẽ tuyên bố họ,
Hãy nghe như tuyên bố,
Phẫn nộ giết cả cha,
Phẫn nộ giết cả mẹ,
Phẫn nộ giết Phạm chí,
Phẫn nộ giết phàm phu.
Chính nhờ mẹ dưỡng dục,
Người thấy được đời này,
Nhưng phàm phu phẫn nộ,
Giết người cho sự sống.
Chúng sanh tự ví dụ,
Thương tự ngã tối thượng,
Phàm phu giết tự ngã,
Điên loạn nhiều hình thức,
Lấy gươm giết tự ngã,
Điên loại uống thuốc độc,
Dây tự trói họ chết,
Trong hang động núi rừng,
Những hành động sát sanh,
Khiến tự ngã phải chết.
Họ làm nhưng không biết,
Kẻ phẫn nộ hại người,
Với hình thức phẫn nộ,
Ma bẫy ẩn trong tâm.
Hãy nhiếp phục cắt đứt,
Với tuệ, tấn, chánh kiến,
Bậc trí tuệ cắt đoạn,
Mỗi mỗi bất thiện pháp
Như vậy học tập pháp,
Không để tâm nản chí,
Ly sân, không áo não,
Ly tham, tật đố không,
Nhiếp phục, đoạn phẫn nộ,
Vô lậu, nhập Niết-bàn.