- KINH
A NA LUẬT
- (Anuruddhasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
tại Jetavana, chỗ tinh xá của ông Anathapindika. Rồi thợ mộc Pancakanga bảo
một người.
– Hãy đến, này Người kia, hãy
đi đến Tôn giả Anuruddha, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả
Anuruddha và thưa như sau : "Thưa Tôn giả, thợ mộc Pancakanga cúi đầu
đảnh lễ Tôn giả Anuruddha, và thưa: Mong rằng Tôn giả Anuruddha cùng ba vị
nữa, ngày mai nhận lời dùng bữa ăn với thợ mộc Pancakanga. Mong rằng Tôn
giả Anuruddha đến thật sớm, vì thợ mộc Pancakanga có nhiều công việc,
có nhiều bổn phận phải làm đối với vua".
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người ấy vâng đáp thợ mộc
Pancakanga, đi đến Tôn giả Anuruddha, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả
Anuruddha, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy thưa
Tôn giả Anuruddha :
– Thợ mộc Pancakanga cúi đầu đảnh
lễ Tôn giả Anuruddha và thưa như sau : "Thưa Tôn giả, mong rằng Tôn giả
Anuruddha với ba vị nữa ngày mai đến dùng bữa ăn với thợ mộc
Pancakanga. Thưa Tôn giả, mong rằng Tôn giả Anuruddha đến cho thật sớm, vì
thợ mộc Pancakanga có nhiều công việc, có nhiều bổn phận phải làm đối
với vua".
Tôn giả Anuruddha im lặng nhận lời.
Rồi Tôn giả Anuruddha, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng đắp y, cầm
y bát, đi đến trú xứ thợ mộc Pancakanga, sau khi đến liền ngồi trên chỗ
đã soạn sẵn. Rồi thợ mộc Pancakanga tự tay mời mọc và làm cho thỏa
mãn Tôn giả Anuruddha với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mền.
Và sau khi Tôn giả Anuruddha đã ăn xong, đã cất tay khỏi bình bát, thợ mộc
Pancakanga lấy một ghế thấp rồi ngồi xuống một bên, Ngồi xuống một
bên, thợ mộc Pancakanga thưa cùng Tôn giả Anuruddha :
Ở đây, thưa Tôn giả, các Trưởng
lão Tỷ-kheo đến và nói như sau : "Này Gia chủ, hãy tu tập vô lượng
tâm giải thoát". Có một số vị Trưởng lão lại nói như sau : "Này
Gia chủ, hãy tu tập đại hành tâm giải thoát". Thưa Tôn giả, vô lượng
tâm giải thoát và đại hành tâm giải thoát, các pháp này vừa khác nghĩa
vừa khác văn, hay đồng nghĩa, chỉ khác biệt về văn ?
– Này Gia chủ, hãy nói lên những
điều gì Ông nghĩ về vấn đề này; nhờ vậy, vấn đề này sẽ trở
thành xác thật cho Ông.
– Thưa Tôn giả, con nghĩ như sau :
"Vô lượng tâm giải thoát và đại hành tâm giải thoát, các pháp này
đồng nghĩa nhưng khác văn".
– Này Gia chủ, vô lượng tâm giải
thoát và đại hành tâm giải thoát, những pháp này vừa khác nghĩa vừa khác
văn. Do vậy, này "Cư sĩ, đây cần phải hiểu đúng với pháp môn, nghĩa
là các pháp này vừa khác nghĩa vừa khác văn.
Và này Cư sĩ, thế nào là vô lượng
tâm giải thoát ? Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương
với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ
ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới,
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú
biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận,
không sân. Với tâm câu hữu với bi, với tâm câu hữu với hỷ, an trú biến
mãn, một phương với tâm câu hữu với xả, ... quảng đại, vô biên,
không hận, không sân. Như vậy, này Cư sĩ, được gọi là vô lượng tâm
giải thoát.
Này Cư sĩ, thế nào là đại hành
tâm giải thoát ? Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo, cho đến một gốc cây, an
trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu Thiền).
Như vậy, này Cư sĩ, được gọi là đại hành tâm giải thoát. Ở đây,
này Cư sĩ, Tỷ-kheo cho đến hai hay ba gốc cây, an trú, biến mãn và thấm
nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu Thiền). Như vậy, này Cư sĩ, được
gọi là đại hành tâm giải thoát. Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo cho đến một
ruộng làng an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong
khi tu Thiền). Như vậy, này Cư sĩ, được gọi là đại hành tâm giải
thoát. Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo cho đến hai hay ba ruộng làng, an trú biến
mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu Thiền). Như vây,
này Cư sĩ được gọi là đại hành tâm giải thoát. Ở đây, này Cư sĩ,
Tỷ-kheo cho đến một đại vương quốc, an trú biến mãn và thấm nhuần lớn
cho đến như vậy (trong khi tu Thiền). Như vậy, này Cư sĩ, được gọi là
đại hành tâm giải thoát. Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ-kheo cho đến hai hay ba
đại vương quốc an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy
(trong khi tu Thiền). Như vậy, này Cư sĩ, được gọi là đại hành tâm giải
thoát. Do vậy, này Cư sĩ, đây cần phải hiểu đúng với pháp môn này,
nghĩa là các pháp này vừa khác nghĩa, vừa khác văn.
Này Cư sĩ, có bốn hữu sanh này
(bhavuppattiyo: bốn sự sanh khởi cho một đời sống mới). Thế nào là bốn
? Ở đây, này Cư sĩ, có người, với hào quang hạn lượng (parittabha) an
trú, biến mãn và thấm nhuần. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được
sanh cọng trú với chư Thiểu Quang thiên. Ở đây, này Cư sĩ, có người với
hào quang vô lượng, an trú, biến mãn và thấm nhuần. Vị ấy sau khi thân
hoại mạng chung được sanh cọng trú với chư Vô Lượng Quang thiên. Ở đây,
này Cư sĩ có người với hào quang tạp nhiễm, an trú biến mãn và thấm
nhuần. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được sanh cọng trú với chư
Tạp Nhiễm Quang thiên. Ở đây, này Cư sĩ, có người với hào quang thanh tịnh
an trú, biến mãn và thấm nhuần. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được
sanh cộng trú với chư Biến Tịnh Quang thiên. Này Cư sĩ, có bốn loại hữu
sanh này.
– Có thời, này Cư sĩ, chư Thiên
kia tập họp tại một chỗ. Khi các vị này tập họp tại một chỗ, có
thấy sự sai khác về màu sắc, không có thấy sự sai khác về hào quang.
Ví như, này Cư sĩ, có người cầm nhiều cây đèn dầu đi vào trong một
nhà. Khi các cây đèn dầu ấy được đem vào trong nhà, có thấy sự sai
khác về ngọn lửa, nhưng không có thấy sự sai khác về ánh sáng. Cũng vậy,
này Cư sĩ, có thời chư Thiên kia tập họp tại một chỗ. Khi các vị này
tập họp tại một chỗ, có thấy sự sai khác về màu sắc, không có thấy
sự sai khác về hào quang. Có thời, này Cư sĩ, chư Thiên ấy, đi ra khỏi
từ chỗ kia. Khi chư Thiên ấy đi ra khỏi từ chỗ kia, có thấy sự sai
khác về màu sắc và cũng có thấy sự sai khác về hào quang. Ví như, này
Cư sĩ, có người đem nhiều cây đèn dầu ra khỏi ngôi nhà ấy, khi các
cây đèn dầu ấy được đem ra khỏi ngôi nhà kia, có thấy sự sai khác về
màu sắc và cũng có thấy sự sai khác về ánh sáng. Cũng vậy, này Cư sĩ,
có thời chư Thiên ấy đi ra khỏi từ chỗ kia. Khi chư Thiên ấy đi ra khỏi
từ chỗ kia, có thấy sự sai khác về màu sắc và cũng có thấy sự sai
khác về hào quang.
Này Cư sĩ, chư Thiên ấy không có
nghĩ : "Đây là thường còn, thường trú, thường hằng cho chúng
tôi". Nhưng chỗ nào chư Thiên ấy an trú, tại chỗ ấy, chư Thiên kia
sống trong thoải mái. Ví như, này Cư sĩ, khi các con ruồi bị mang đi trong
đòn gánh hay trong cái giỏ, chúng nó không có nghĩ : "Đây là sự thường
còn, thường trú hay thường hằng cho chúng tôi". Nhưng chỗ nào, chỗ
nào các con ruồi kia an trú, tại chỗ ấy các con ruồi ấy sống trong thoải
mãi. Cũng vậy, này Cư sĩ, chư Thiên ấy không có nghĩ : "Đây là thường
còn, thường trú hay thường hằng cho chúng tôi". Nhưng chỗ nào, chỗ
nào chư Thiên ấy an trú, tại chỗ ấy, chư Thiên kia sống trong thoải
mái.
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả
Abhiya Kaccana thưa với Tôn giả Anuruddha !
– Tốt lành thay, Tôn giả Anuruddha
! Ở đây, tôi có câu này cần phải hỏi thêm. Thưa Tôn giả, chư Thiên
có hào quang, tất cả đều có hào quang có hạn lượng ? Hay là ở đây
có một số chư Thiên có hào quang vô lượng ?
– Này Hiền giả Kaccana, tùy theo
trường hợp, ở đây một số chư Thiên có hào quang có hạn lượng,
nhưng ở đây cũng có một số chư Thiên có hào quang vô lượng.
– Thưa Tôn giả Anuruddha, do nhân
gì, do duyên gì, dầu cho chư Thiên ấy được sanh khởi trong một Thiên
chúng, lại có một số chư Thiên có hào quang hạn lượng và có một số
chư Thiên khác có hào quang vô lượng ?
– Này Hiền giả Kaccana, ở đây
Ta sẽ hỏi Hiền giả. Nếu Hiền giả kham nhẫn, Hiền giả sẽ trả lời.
Này Hiền giả Kaccana, Hiền giả nghĩ thế nào ? Tỷ-kheo cho đến một gốc
cây, an trú biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu Thiền),
và Tỷ-kheo cho đến hai hay ba gốc cây, an trú biến mãn và thấm nhuần lớn
cho đến như vậy (trong khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm này, sự tu tập
tâm nào rộng lớn hơn ?
– Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo cho đến
hai hay ba gốc cây, an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy
(trong khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập tâm này rộng
lớn hơn.
– Này Hiền giả Kaccana, Hiền giả
nghĩ thế nào ? Tỷ-kheo cho đến hai hay ba gốc cây, an trú biến mãn và thấm
nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu Thiền), và Tỷ-kheo, cho đến một
ruộng làng, an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong
khi tu Thiền) trong hai sự tu tập tâm này, sự tu tập tâm nào rộng lớn hơn
?
– Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo cho đến
một ruộng làng, an trú, biến mãn, và thấm nhuần lớn cho đến như vậy
(trong khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập tâm này rộng
lớn hơn.
– Này Hiền giả Kaccana, Tỷ-kheo
cho đến hai hay ba ruộng làng, an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến
như vậy (trong khi tu Thiền), và Tỷ-kheo cho đến một đại vương quốc,
an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu Thiền)
trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập tâm này rộng lớn hơn ?
– Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo, cho đến
một đại vương quốc, an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như
vậy (Trong khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập tâm ấy,
sự tu tập tâm này rộng lớn hơn.
– Này Hiền giả Kaccana, Tỷ-kheo
cho đến một đại vương, an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến
như vậy (trong khi tu Thiền), và Tỷ-kheo cho đến hai hay ba một đại
vương quốc, an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong
khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập tâm nào rộng lớn hơn
?
Thưa Tôn giả Anuruddha, Tỷ-kheo cho
đến hai hay ba đại vương quốc, an trú, biến mãn và thấm nhuần rộng lớn
cho đến như vậy (trong khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập
tâm này rộng lớn hơn.
Này Hiền giả Kaccana, Hiền giả
nghĩ thế nào ? Tỷ-kheo cho đến hai hay ba đại vương quốc, an trú, biến
mãn và thấm nhuần lớn cho đến như vậy (trong khi tu Thiền), và Tỷ-kheo
cho đến giải đất tận hải biên, an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn
cho đến như vậy (trong khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập
tâm nào rộng lớn hơn ?
– Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo cho đến
giải đất tận hải biên, an trú, biến mãn và thấm nhuần lớn như vậy
(trong khi tu Thiền), trong hai sự tu tập tâm ấy, sự tu tập tâm này rộng
lớn hơn.
– Này Hiền giả Kaccana, do nhân
này, do duyên này, giữa các chư Thiên ấy được sanh khởi trong một Thiên
chúng, có một số chư Thiên có hào quang có hạn lượng nhưng có một số
chư Thiên có hào quang vô lượng.
– Lành thay, Tôn giả Anuruddha !
Tôi có một câu cần phải hỏi thêm nữa. Thưa Tôn giả, về hào quang chư
Thiên, có phải tất cả hào quang là tạp nhiễm hay có một số chư Thiên
có hào quang thanh tịnh ?
– Tùy theo trường hợp, này Hiền
giả Kaccana, ở đây có một số chư Thiên có hào quang tạp nhiễm, nhưng
ở đây cũng có một số chư Thiên có hào quang thanh tịnh.
– Thưa Tôn giả Anuruddha, do nhân
gì, do duyên gì, trong chư Thiên ấy được sanh khởi trong một Thiên chúng,
có một số hào quang tạp nhiễm, nhưng có một số chư Thiên có hào quang
thanh tịnh ?
Này Hiền giả Kaccana, Ta sẽ cho Hiền giả một
ví dụ. Nhờ ví dụ ở đây, người có trí hiểu được ý nghĩa của lời
nói. Ví như, này Hiền giả Kaccana, một cây đèn đang cháy với dầu không
được sạch sẽ, với tim đèn cũng không được sạch sẽ. Vì dầu không
được sạch sẽ, và cũng vì tim đèn không được sạch sẽ, nên cây đèn
cháy rất lu mờ. Cũng vậy, này Hiền giả Kaccana, ở đây Tỷ-kheo an trú
biến mãn và thấm nhuần với hào quang tạp nhiễm. Thân dâm hạnh của vị
ấy không được khéo chấm dứt, hôn trầm thụy miên không được khéo
đoạn trừ, trạo cử hối quá không được khéo nhiếp phục. Vì không
được khéo chấm dứt thân dâm hạnh, vì không khéo đoạn trừ hôn trầm
thụy miên, vì không khéo nhiếp phục trạo cử hối quá, nên vị ấy được
cháy lên một cách lu mờ. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được sanh
cọng trú với chư Thiên có hào quang tạp nhiễm. Ví như, này Hiền giả
Kaccana, một ngọn đèn dầu được dốt cháy, với dầu sạch sẽ và với
tim đèn cũng được sạch sẽ. Do dầu được sạch sẽ và cũng do tim đèn
được sạch sẽ, nên cây đèn ấy được cháy không có mù mờ. Cũng vậy,
này Hiền giả Kaccana, ở đây Tỷ-kheo an trú biến mãn và thấm nhuần với
hào quang thanh tịnh, thân dâm hạnh của vị này được khéo chấm dứt,
hôn trầm thụy miên được khéo đoạn trừ, trạo cử hối quá được khéo
nhiếp phục. Do thân dâm hạnh được khéo chấm dứt, do hôn trầm thụy
miên được khéo đoạn trừ, do trạo cử hối quá được khéo nhiếp phục,
vị ấy được cháy lên không có mù mờ. Sau khi thân hoại mạng chung, vị
ấy được sanh cọng trú với chư Thiên có hào quang thanh tịnh. Này Hiền
giả Kaccana, do nhân này, do duyên này, giữa chư Thiên ấy sanh khởi cùng
trong một Thiên chúng, có một số chư Thiên có hào quang tạp nhiễm, nhưng
có một số chư Thiên có hào quang thanh tịnh.
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả
Abhiya Kaccana thưa với Tôn giả Anuruddha :
– Thật lành thay, Tôn giả
Anuruddha ! Thưa Tôn giả, Tôn giả Anuruddha không có nói như sau : "Như vậy
tôi nghe". hay "sự việc đúng như vậy". Trái lại, thưa Tôn giả,
Tôn giả Anuruddha chỉ nói : "Chư Thiên này là như vậy và chư Thiên
kia là như vậy". Thưa Tôn giả, tôi nghĩ như sau : "Tôn giả
Anuruddha chắc chắn đã sống từ trước, đã đàm thoại từ trước, đã
đàm luận từ trước với chư Thiên ấy".
Này Hiền giả Kaccana, lời nói này
của Hiền giả đến gần như thử thách Ta phải tuyên bố, nhưng Ta sẽ trả
lời cho Hiền giả. Này Hiền giả Kaccana, đã từ lâu, Ta đã sống từ trước,
đã đàm thoại từ trước, đã đàm luận từ trước với chư Thiên ấy.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Abhiya
Kaccana nói với thợ mộc Pancakanga:
– Thật lợi ích thay cho Ông, này
Cư sĩ, rằng Ông đã đoạn trừ được điều nghi ngờ từ trước, và cũng
được dịp nghe pháp môn này.