ÐỨC PHẬT NÓI KINH HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
THẦN CHÚ
- Hán dịch: Vô
Danh
- Việt dịch:
Tuệ Khai cư sĩ -
Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
---o0o---
Tôi nghe như vầy, một
thuở đức Phật ở tại trú xứ của tiên thánh trong núi Khư La Ðế Gia, cùng
với vô số chúng đại Tỳ kheo và số chúng Ðại Bồ tát nhiều vô lượng vô biên
như cát sông Hằng. Ngài diễn nói kinh Công Ðức Như Lai rồi, bấy giờ ở
phương Tây có ngọc báu Như Ý tự nhiên xuất hiện với trăm ngàn ngọc báu
Thích ca tỳ lăng già làm quyến thuộc. Sự phát ra ánh sáng sủa ngọc báu Như
Ý đó đều suốt qua hết. Sắc tượng bốn ánh sáng lớn của người, trời, Thanh
văn, Bồ tát ở cõi này đều diệt không còn. Chỉ còn lại đức Như Lai và ngọc
báu Như Ý, còn bao nhiêu thứ khác đều đồng tướng với vô lượng vô biên,
chẳng thể ngôn thuyết hư không.
Lúc bấy giờ, quang sắc của đức
Thế Tôn sáng thêm. Chúng sinh trong hội đều chẳng thấy nhau, cũng chẳng
được tiếp xúc thân sắc hình tướng. Sự nhìn ngắm của họ cũng chẳng thấy ánh
sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú. Mắt chẳng thấy sắc, tai chẳng nghe
tiếng, mũi chẳng ngửi hương, lưỡi chẳng biết vị, thân chẳng giác xúc, tâm,
tâm số pháp, chẳng kể pháp, không ngã và ngã sở, chỉ thấy sắc tướng quang
minh của đức Như Lai và ngọc báu Như Ý. Bồ tát tại hội trụ ở Thập Ðịa,
được Thủ Lăng Nghiêm tam muội, nhất sanh bổ xứ, thân tối hậu, tâm chẳng sợ
hãi. Vì sao vậy ? Vì đã giải được đệ nhất nghĩa không Chân Như bảo tướng
của các pháp. Số Bồ tát còn lại, các chúng Thanh văn, trời, rồng, Dạ xoa,
A tu la, Khẩn na la, Câu bàn trà, Tỳ xá già, Phú đa na,
Ca tra phú đa na, người và chẳng
phải người, các người đến hội đều kinh sợ hết. Hoặc ở đây đó chẳng thấy
biết nhau, đây là việc gì mà không nơi hỏi han!
Lúc bấy giờ, trong hội có vị
Ðại Bồ tát tên là Phạm Âm đứng dậy, chắp tay hướng về đức Phật mà nói kệ
rằng :
Các pháp nghĩa thật chân |
Chúng sinh chẳng thể biết |
Ngu ở trong sáu căn |
Tham trước các sắc ấm. |
Một ấm chẳng nhìn xem |
Tìm cầu ở sắc tướng |
Nay có chúng như trên |
Nghi hoặc với Phật pháp. |
Nguyện xin Phật Thế Tôn |
Diễn nói tướng chân thật !
|
Với đây, đó giải thông |
Mau chứng như không nhẫn. |
Bậc dũng mãnh tu thiền
|
Thân chẳng thể luận nói |
Báu Ma ni Như ý |
Tại đỉnh hiện rõ ràng. |
Thích ca lăng già bảo |
Cách nhau cũng rất gần(chẳng xa) |
Ngọc đến các sinh chúng |
Ðến bờ kia kiện cường
|
Ðều có đại trí tuệ |
Muốn đến thấy Thế Tôn |
Ắt nói thậm thâm pháp |
Quyết định không nghi nan |
Nguyện xin Phật Thế Tôn |
An ủi những chúng đến |
Thành tựu cho chúng sinh |
Sở hạnh của Ðại sĩ ! |
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói kệ
rằng:
Như lời nói của ông |
Việc làm sức tam muội |
Người ấy trí tuệ thông |
Mới được nghe việc đó. |
Bồ tát Hư Không Tàng |
Sở hạnh của đại sĩ |
Không hí luận, không nương
|
Sức tam muội như vậy. |
Với hai kiến trụ bền |
Sở hạnh của ngu hoặc |
Vì chấp trước đoạn, thường
|
Chẳng giải được đây, đó. |
Nếu đối hai kiến này |
Người muốn được giải thoát |
Chấp trước dục chẳng nên |
Mau được chứng các địa. |
Ðức Phật bảo Bồ tát Phạm Âm
rằng :
- Này thiện nam tử ! Bồ tát sơ
hành (Bồ tát mới hành đạo Bồ tát) trước phải vì họ nói có duyên tưởng tu
hành sáu Ba la mật. Nếu có thể hiểu biết tánh của bốn đại chính là pháp
sanh diệt thì nhiên hậu mới vì họ nói tất cả pháp chẳng thể ngôn thuyết
không có tự tướng, chẳng sinh, chẳng diệt, không duyên, không sở hữu...
tất cả các hạnh đều như vậy hết. Nếu có quan sát như vậy thì lìa khỏi
đoạn, thường, cũng không sợ hãi. Ðối với tất cả pháp không duyên, không
xúc (chạm xúc) thì có thể mau thỏa mãn sáu Ba la mật, cũng chẳng chấp
trước các kiến đoạn và thường nữa.
Do thần lực của Phật nên khiến
cho những người đến hội ở đại chúng này thấy, nghe, hay, biết đều như
trước.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền
đưa tay phải lên, bảo đại chúng rằng :
- Bồ tát Hư Không Tạng, hôm
nay từ cõi đó đến mà Bồ tát này thiền định như biển, tịnh giới như núi,
trí như hư không, tinh tấn như gió, nhẫn như Kim cương, tuệ như Hằng sa.
Bồ tát ấy là tràng của các Bồ tát, là thầy dẫn đường đến Niết bàn, là sông
ao của thiện căn, là bình báu của người nghèo, là mặt trời trong tối tăm,
là ánh trăng cho kẻ mất lối, là núi của người sợ hãi, là thuốc hay của
người bệnh phiền não, làm sạch các nước kiến, tiêu diệt các ma oán giống
như sương bị chớp trị, như thuốc an-xà-na của người phá giới, là đất của
các căn lành, là vòng hoa trong các hoa, là gương soi người ác hạnh, là
mắt của kẻ không xấu hổ, là thầy thuốc giỏi của người bệnh, là giường ngồi
của kẻ mệt lười, là có thể làm sung túc sự đói rỗng như trời Thi Lợi có
thể trừ khát khao, thiếu thốn như ngọc nguyết ái, soi người thiền định như
ngọc Nhật ái, là xe của người hành đạo Bồ đề, là ao của người du hí thiền
định, là hoa man của người tu pháp trợ đạo, là diệu quả của người làm
những Ba la mật, là ngọc báu Như ý soi bậc Thập địa, che người trụ ở Thủ
lăng nghiêm tam muội như cây Ba Lợi Chất Ða la, đoạn các kiến kết như dao
bén, trừ khử tập khí như kim cương, có thể hàng phục trí ma oán như lửa
mạnh. Thân Bồ tát ấy tức là pháp khí của chư Phật, vòng hoa đội đầu của
Duyên giác, áo quần của Thanh văn, nhãn mục của chư thiên, chánh đạo của
người, chỗ dựa của súc sinh, nơi về của ngã quỉ, nơi cứu hộ của địa ngục,
pháp khí của chúng sinh, xe thuyền của Bồ tát, phụ tá của các đức Phật ba
đời, giữ cửa thành pháp, đã có thể trang nghiêm mười tám pháp của Phật, đủ
Nhất thiết trí. Tộc tính tử đó đáng được thọ sự cúng dường tối thắng của
tất cả chúng sinh, chỉ trừ đức Như Lai. Các ông, những người đến hội đều
nên đến gần, rồi tùy theo ý lực của mình mà cúng dường, cung kính, tôn
trọng, ngợi khen, đem đủ thứ trân bảo, tràng phan, bảo cái, hương hoa,
chuỗi ngọc... dọn sạch đường đi mà trang hoàng đẹp đẽ. Các ông chẳng bao
lâu sẽ thành pháp khí như vậy.
Tất cả những chúng đến hội đều
đứng dậy vòng tay, chắp tay hướng về phía Bồ tát Hư Không Tạng đến mà mừng
vui kính lễ chiêm ngưỡng không chán.
Lúc bấy giờ, trong hội các vị
Ðại Bồ tát và Ðại Thanh văn, vua trời, vua rồng, vua Dạ xoa, vua A tu la,
vua Ca lâu la, vua Khẩn na la, vua Ma hâu la, các tiên ngũ thông... đều
tác khởi ý niệm này : “Chúng
ta sẽ dùng đồ cúng tối thắng gì để phụng hiến cúng dường tộc tính tử đó”.
Bấy giờ, Ðại Bồ tát Hư Không Tạng liền biến thế giới Ta Bà này không có
núi đồi, đồng trống, gò đống, ngòi khe, khử trừ xú uế, gió bụi, tiếng ghê
rợn, hóa sinh ra những cây bảy báu mà hoa trái phát ra hương thơm vi diệu,
cỏ cây nương theo đất đều thành bảy báu, bệnh khổ sẵn có của tất cả chúng
sinh và khổ của địa ngục đều trừ diệt hết. Quần áo đồ ăn, thức uống, những
đồ trang nghiêm thì tùy ý người yêu cầu mà đầy đủ. Thân sắc của con người
đoan chánh, các căn hoàn bị đầy đủ. Con người không có phiền não, lòng họ
tịch tịnh, ưa tu thiện căn, thâm tín Tam Bảo. Những người đến hội thì mỗi
một chúng sinh, trên hai tay đều có ngọc báu Như Ý. Mỗi một viên ngọc báu
đều phát ra ánh sáng chiếu soi khắp cõi Ta bà, khiến cho khắp nơi sáng rỡ,
phát ra đủ thứ âm thanh nhạc trời vi diệu, mưa xuống đủ thứ áo trời, chuỗi
ngọc, hoa trái, hương Ða ma la bạt, hương Ngưu đầu chiên đàn và bột tạp
hương... đựng đầy trong đồ đựng đẹp. Hai bên đường cõi ấy, Bồ tát hóa làm
bảo đường giống như ngôi Tỳ Giả Diên Ðường của Ðế Thích. Trong đường ấy
(nhà ấy) đều có thiên nữ đoan nghiêm như thể nữ thắng diệu của vua trời
thứ sáu, tấu lên kỹ nhạc nhà trời. Bên trên đỉnh đức Thế Tôn, ở trong hư
không, có bảo cái lớn, ngang dọc một trăm do tuần với mọi báu trang nghiêm
như hoa cái của trời Phạm, xen lẫn vào là những màn lưới báu với sợi vàng,
chân châu... Chúng đều phát ra âm nhạc. Ðất sinh ra cỏ cây, hoa trái, cành
lá cũng phát ra âm nhạc nhà trời. Những âm thanh ấy diễn nói sáu Ba la mật
của pháp Ðại thừa mà chúng sinh nghe thì đều được bất thoái chuyển Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðại chúng hội thấy Bồ tát Hư Không Tạng hiện
đại trang nghiêm thì lòng sinh ra mừng vui, được chưa từng có, đều nói lên
rằng :
- Chúng ta sẽ dùng vật gì, ở
trước đức Thế Tôn, đặt bày pháp tòa để cho vị Tộc tính tử đó ngồi lên đây
?
Bấy giờ, trước đức Phật có hoa
sen lớn tự nhiên xuất hiện, ngang dọc mười dặm với bạch ngân làm thân,
hoàng kim làm cánh, mã não làm đài, báu Phạm quang làm tua. Lại có hàng
trăm ngàn hoa sen như vậy vây quanh. Ở trên hoa sen, Bồ tát Hư Không Tạng
ngồi kiết già, trên đỉnh đầu có ngọc báu Như ý. Quyến thuộc đem theo của
Bồ tát Hư Không Tạng đều ngồi ở trên những hoa sen vây quanh đó.
Lúc ấy, Bồ tát Di Lặc liền
dùng kệ hỏi Bồ tát Dược Vương về việc từ trước đến nay các Bồ tát có danh
tiếng lớn thì :
Trước lễ Phật Thế Tôn
Nhiên hậu mới tựu tọa
Ðại sĩ này vừa sang
Hiện việc trang nghiêm diệu
Cũng chẳng lễ Thế Tôn
Liền ngang nhiên tựu tọa ?
Bấy giờ, Ðại Bồ tát Dược Vương
dùng kệ đáp Ðại Bồ tát Di Lặc rằng :
Nay Ðại sĩ này sang
Ðã trụ Phật thâm pháp
Chẳng thấy có chúng sanh
Thân mình chẳng phân biệt.
Bồ tát Di Lặc lại dùng kệ hỏi
:
Nếu chẳng thấy chúng sanh
Ắt trụ ở thật tế
Vì sao hiện trang nghiêm
Nguyện đáp để quyết định ?
Bồ tát Dược Vương lại dùng kệ
đáp :
Bậc dũng mãnh phương tiện
|
Muốn thành tựu chúng sanh |
Phàm ngu phân biệt hạnh |
Chẳng giải nghĩa thật chân
|
Chỉ
biết đến thế đế |
Khổ vì chẳng đạt chân |
!
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo
Tộc tính tử rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Ðúng
như lời nói của ông ! Tất cả kẻ phàm phu chẳng thể biết việc làm phương
tiện và cả giải thoát của một Tu đà hoàn. Giả sử tất cả chúng sinh chính
là Tu đà hoàn thì chẳng thể biết hành động phương tiện và cả giải thoát
của một Tư đà hàm. Như Tư đà hàm, A na hàm, A la hán chẳng thể biết hành
động phương tiện và cả giải thoát của một Bích Chi Phật. Tất cả chúng sinh
đều là pháp-già-kiếp Bích Chi Phật chẳng thể biết hành động phương tiện
thành tựu chúng sinh và cả giải thoát của một Ðại Bồ tát Vô sanh pháp
nhẫn. Tất cả chúng sinh đều là Bồ tát Vô sanh pháp nhẫn chẳng thể biết
hành động phương tiện và cả giải thoát của một Ðại Bồ tát được Thủ Lăng
Nghiêm tam muội, các trí vô ngại, thông đạt đệ nhất nghĩa. Ðại Bồ tát Hư
Không Tạng này đã qua vô lượng vô biên kiếp được Vô sanh pháp nhẫn, các
trí vô ngại, Thủ Lăng Nghiêm tam muội, thông đạt đệ nhất nghĩa nên có thể
biết hết hành động và các phiền não trong lòng của những chúng đến hội
này. Hoặc có chúng sinh thấy sự đại trang nghiêm vi diệu đều được trụ ở Ly
dục địa. Vị Tộc tính tử đó ở chỗ kia biến mất mà hiện dến cõi này như Hư
không thần thông trí tuệ tam muội khiến cho các chúng sinh sinh ra lòng
lìa khỏi dục Nhiên hậu Bồ tát ấy lại hiện Thế đế trang nghiêm tam muội
khiến cho vô lượng chúng sinh được thành tựu tam muội như vậy, chẳng cùng
chung với Thanh văn, Bích Chi Phật. Nếu vị Tộc tính tử đó hiện Ðệ nhất
nghĩa vô sanh trang nghiêm thì tất cả người, trời... cho đến Bồ tát bát
trụ đều sinh ra kinh nghi mà chẳng thể biết hành động, tướng mạo. Công đức
Phật pháp thậm thâm như vậy. Vị Tộc tính tử đó dùng phương tiện trí, ở
trong tất cả biển Phật, Pháp, Tăng, lòng không có nghi hoặc, chẳng nhờ
người khác mà biết trong pháp bí mật của tất cả Ðại Bồ tát. Giống như
thắng tràng có thể bày thiện đạo của chúng sinh và đạo Niết bàn có thể trị
tâm bệnh phiền não và cả thân bệnh của chúng sinh. Có các chúng sinh ở nơi
đồng hoang sanh tử bị tà kiến mai một mà chẳng thể biết hướng đến thiện
đạo và Niết bàn phương tiện thì thường nên xưng danh hiệu Bồ tát Hư Không
Tạng trong thâm tâm, lễ bái cung kính, đốt hương A già lâu mà cúng dường.
Vị Tộc tính tử đó nhìn thấy lòng ô nhiễm và cả phiền não của các chúng
sinh ấy. Rồi tùy theo phiền não, các kiến ngu si và căn lành đời trước của
họ mà Bồ tát điều phục lòng họ. Nếu họ ở chỗ Phật, chỗ Pháp, chỗ Tăng mà
gieo trồng thiện căn, hoặc làm phước nghiệp bố thí, phước nghiệp trì giới,
phước nghiệp tu định rồi theo sở ứng ấy, hoặc ở trong mơ, hoặc trong giấc
ngủ Bồ tát ấy thường dùng đại phương tiện mà thị hiện chánh đạo cho họ. Do
phương tiện chân chánh nên họ mau chóng lìa khỏi tà kiến, tà hạnh, tà
nguyện, tà tâm, tà thú (thú hướng) khiến cho thân miệng ý của chúng sinh
đó được chánh hạnh, chánh nguyện, thiện hữu, có thể mau chóng tiêu trừ
phiền não dơ bẩn, lìa khỏi các đường ác, chẳng hoại thiện nhân, tâm được
tự tại, trụ ở nhẫn thậm thâm. Nếu có chúng sinh, thân dủ thứ bệnh, tâm
loạn điên cuồng, mắt chẳng thấy sắc, miệng chẳng thể nói, thân bị phân
hoại thì phải đem thâm tâm xưng danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng, để được
trừ bệnh nên đốt hương A gia lâu hay hương Ða già lâu, lễ bái cúng dường.
Vị Tộc tính tử đó ở trong mơ của người ấy hiện ra hình dáng Phạm thiên
hoặc hình dáng Ðế Thích, hình dáng trời Thi La, hoặc hình dáng Tát la bà
sa đế thiên, hoặc hình dáng Sát lợi, hoặc hình dáng đại thần, hoặc hình
dáng cha mẹ, hoặc hình dáng trai gái... đứng ở trước người ấy, rồi tùy
theo sở ứng của họ mà hiện phương thuốc và đồ vật họ cần, khiến cho người
bệnh kia nhân đây tất cả bệnh diệt hết không còn. Nếu có người khuyên dẫn
đường tìm của cải, người học hỏi cầu đa văn, người ngồi thiền cầu trí tuệ,
người cầu danh dự, người cầu xảo thuậtï, người cầu tụ lạcï, người cầu tôn
quí, người cầu sắc lựcï, người cầu chủng tộc, người cầu âm thanh, người
cầu con trai, con gái, quyến thuộcï, người cầu bố thí, trì giới... cho đến
trí tuệï, người cầu diệu âm thanh khiến cho chúng sinh ưa nghe, người muốn
lìa khỏi ác, người muốn khiến cho người khác trụ ở bố thí... cho đến trụ ở
trí tuệ, người muốn được trường thọ, người muốn được đồ tư sinh không mất,
người muốn khiến cho người san lận tu xả hủy giới, muốn người trụ giới
giải đãi tinh tấn, muốn người tà tuệ thành chánh tuệ, muốn người chưa trụ
thừa trụ thừa, muốn người tự cầu thừa mà vì người khác cầu thừa, muốn
người không có tâm đại bi chẳng tự vì thân chỉ vì chúng sinh... thì dùng
phương tiện gì khiến chúng sinh này đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác chẳng thoái chuyển, trụ ở đại phương tiện, bốn vô lượng tâm ? Những
chúng sinh đó nên phải lễ bái cung kính Bồ tát Hư Không Tạng, hoặc ở chỗ
không nhàn, hoặc trong vườn rừng đốt hương Ða già lâu hay hương
Ca-trà-a-đồ-la, chắp tay kính lễ hướng về mười phương. Lễ rồi người đó nên
đọc chú này :
A đá điệt tha - A nhị lị thước
- A nhị lị thước - Ca tăng nể ca (thượng) chá (thượng) La (thượng) Chá la
tỳ (thượng) Chá (thượng) La (thượng) San chá (thượng) La ca tăng nể ca
(thượng) Yết la (thượng) Ma la (thượng) Yết la (thượng) Ma la (thượng) Tỳ
(thượng) Già (thượng) A li ma ma pháp (thượng) Bồ (thượng) Tăng xà
(thượng) ma na (thượng) Ca tăng nể ca (thượng) Chơn đa ma uể xa la
(thượng) Dạ ca tăng nể ca (thượng) ta (thượng) la (thượng) phan ta mê ta
(thượng) tha bạt dạ - A hiền nha - A lị ta (thượng) măng cộng ta (thượng)
Măng cộng hộ tăng để tỳ (thượng) Phệ già (thượng) cộng đề lị sắt tri
(thượng) Phệ già (thượng) cộng ca tăng nhỉ ca liên lị dạ đỗ ma a ta dạ ta
(thượng) La (thượng) phan bạt đà (thượng) chá (thượng) a (thượng) thâu
ca (thượng) Già (thượng) để ta (thượng) bà ha.
Nếu có thể trì tụng chú này
như vậy thì Tộc tính tử đó, hoặc hiện làm hình dáng người, hoặc hình dáng
chim thú để hiện bày cho người ấy. Rồi tùy theo phước đức của người đó mà
ông vì họ nói pháp, thị hiện một phương tiện. Dùng một phương tiện ông
liền có thể khiến cho trăm ngàn na do tha chúng sinh đến trụ ở các thừa,
hoặc trụ ở Thanh văn, Bích Chi Phật thừa. Dùng chút ít thời gian phương
tiện ông khiến cho họ trụ ở Bất thoái chuyển Vô thượng Ðại thừa, được đủ
thứ tam muội, các Ðà la ni, các nhẫn, các địa. Tộc tính tử đó có chẳng thể
nghĩ bàn đại phương tiện trí thành tựu đại bi. Hoặc có chúng sinh có thể
lường hư không, phân đều mà không thể lường đại phương tiện trí, đại từ,
đại bi, thiền định tam muội lực thành tựu chúng sinh của Bồ tát Hư Không
Tạng. Tộc tính tử đó thành tựu chẳng thể nghĩ bàn những công đức thiện như
vậy. Nếu có chúng sinh mà lòng họ chất trực, không có dua nịnh quanh co,
an trụ chánh kiến, chẳng tự cao, chẳng theo người khác, lìa khỏi san tham,
tật đố, không có hư ngụy, lòng thanh tịnh thì Tộc tính tử đó khởi lòng
thương xót dạy bảo khiến cho tinh tấn, bày phương tiến chánh khiến cho
chúng sinh đó nhờ lực phương tiện tinh tấn đó nên lìa khỏi các suy hoạn,
có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hồi hướng tất cả căn lành
về với Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác chẳng thoái chuyển. Do sức phương
tiện tinh tấn này nên có thể đủ đầy khắp sáu Ba la mật. Siêng làm tinh tấn
mau thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Bồ tát Hư Không Tạng thành tựu
chẳng thể nghĩ bàn công đức cầu hành tinh tấn thành tựu chúng sinh như
vậy.
Lúc bấy giờ Bồ tát Di Lặc bạch
đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Vì nhân
duyên gì mà chỉ riêng trên đỉnh của Tộc tính tử đó có ngọc báu Như Ý còn
các Bồ tát khác thì không vậy ?
Ðức Phật bảo ngài Di Lặc rằng
:
- Bồ tát Hư Không Tạng này đã
thành tựu đại bi nên đối với những nguy khổ phạm căn bản tội, hướng đến
đường ác, thiêu diệt căn lành thì tự hủy hoại. Bồ tát ấy đối với những
chúng sinh này chính là đại lương dược (thuốc rất hay), với chúng sinh trụ
ở đen tối là làm ánh sáng lớn giống như mặt trời chiếu soi. Nếu có chúng
sinh phạm tội căn bản, mũi tên nghi cắm trong tâm, phá hoại pháp khí, mãi
rơi rớt ném bỏ, chôn mất căn lành, nhất định rơi vào đường ác, không qui
không y. Chẳng lẽ chúng sinh ác là đồ bỏ của người trí sao ? Tộc tính tử
đó có thể bày chánh đạo, trừ diệt phiền não, khiến cho họ lìa khỏi đường
ác. Nếu có chúng sinh tham dục, sân nhuế, ngu si nhiều, nói rằng không có
nhân quả, chẳng sợ đời sau, gom chứa không chán, thường làm tham lam, ganh
ghét... cho đến chuyên làm mười nghiệp bất thiện, cũng dạy người khác làm
thì Tộc tính tử đó giống như thuyền xe có thể thị hiện đường thiện và
đường Niết bàn. Vậy nên Tộc tính tử đó đều ứng cúng dường của tất cả người
trời trong thế gian chỉ trừ Như Lai.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Di Lặc
bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Những gì
là tội căn bản ? Nếu có chúng sinh phạm tội căn bản bị thiêu diệt thiện
căn, hướng đến đường ác, vĩnh viễn đọa lạc ném bỏ, lìa khỏi niềm vui người
trời thì Tộc tính tử đó làm sao trừ tội để đem niềm vui thiện đạo và niềm
vui Niết bàn sung túc vậy ?
Ðức Phật bảo ngài Di Lặc rằng
:
- Vua Sát đế lợi có năm thứ
tội căn bản. Nếu vua Sát đế lợi phạm tội này thì bị thiêu diệt căn lành,
hướng đến đường ác, vĩnh viễn đọa lạc ném bỏ, lìa khỏi niềm vui người
trời. Những gì là năm ? Vua Sát đế lợi hoặc lấy vật của Phật, vật của
Chiêu đề tăng, hoặc dạy người khác lấy thì đó gọi là tội đầu tiên. Chê bai
pháp Thanh văn, chê bai pháp Bích Chi Phật, chê bai pháp Ðại thừa, tạo tác
lưu nạn, phủ che giấu kín. Ðó là tội thứ hai. Nếu có người tín tâm xuất
gia, cạo bỏ râu tóc, thân mặc áo nhuộm, hoặc có giữ giới hay chẳng giữ
giới mà cởi cà sa người ấy, ép buộc hoàn tục, hoặc trói buộc, giam cầm,
hoặc thêm đánh đập khổ sở, hoặc đoạn dứt mạng. Ðó là tội thứ ba. Nếu tạo
tác ngũ nghịch, giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp tăng, ác tâm
làm chảy máu thân Phật. Với năm nghiệp này nếu tạo một nghiệp thì đó là
tội thứ tư. Chê bai không có nhân quả, chẳng sợ đời sau, thường làm mười
nghiệp bất thiện cũng dạy người khác làm, thân mình kiên trụ và dạy người
khác kiên trụ ở mười nghiệp bất thiện. Ðó là tội thứ năm. Nếu vua Sát đế
lợi đối với năm tội này mà phạm một tội thì vua Sát đế lợi đó thiêu diệt
căn lành, hướng đến đường ác, vĩnh viễn đọa lạc ném bỏ, lìa khỏi niềm vui
người trời. Vị Tộc tính tử kia vì người đó nên ở ly xa (xe ly biệt) xuất
hiện thân thọ sanh, hoặc làm hình dáng Sa môn uy nghi, hoặc làm hình dáng
Bà la môn uy nghi mà vì vua Sát đế lợi nói về Nhất thiết trí, nói về Kinh
Tu đa la thậm thâm chưa từng có, các Ðà la ni, các nhẫn, các địa, khiến
cho vua Sát đế lợi phát lồ sám hối, tu giới, nghe định tuệ, siêng hành
tinh tấn, được sinh về xứ thiện. Ðại thần phụ tướng có năm thứ tội căn
bản. Những gì là năm ? Ðại thần phụ tướng nếu lấy vật của Phật, vật của
Tăng thì đó là tội đầu tiên. Nếu phá hoại thành ấp, tụ lạc, hủy hoại nhân
dân thì đó là tội thứ hai. Bài báng chính pháp như đã nói trên thì đó là
tội thứ ba. Hủy hoại người xuất gia khiến cho họ khổ não như đã nói trên
thì đó là tội thứ tư. Với năm nghiệp vô gián nếu tạo tác một nghiệp thì đó
là tội thứ năm. Ðại thần phụ tướng với năm tội này nếu phạm một tội thì
như đã nói trên. Thanh văn đệ tử có năm thứ tội căn bản. Những gì là năm ?
Một là sát, hai là đạo, ba là dâm, bốn là vọng ngữ, năm là ác tâm làm chảy
máu thân Phật. Thanh văn đệ tử với năm tội này nếu phạm một tội thì như đã
nói trên. Sơ hành Bồ tát (Bồ tát mới tu hành) có tám thứ tội căn bản làm
hủy hoại Ðại thừa, thiêu diệt thiện căn, hướng đến đường ác, vĩnh viễn đọa
lạc ném bỏ, lìa khỏi niềm vui người trời, ở lâu trong sinh tử, lìa khỏi
thiện tri thức. Những gì là tám ? Những chúng sinh này do ác hạnh nên sinh
vào thế giới ngũ trược ác hiểm này, nhờ chút ít căn lành nên gần thiện tri
thức được nghe Kinh điển Ðại thừa thậm thâm. Người ấy trí cạn, thiện căn
nhỏ nhoi, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Sơ hành Bồ tát nghe
nói Kinh điển pháp không thậm thâm, theo đúng như điều nghe ấy thọ trì,
đọc tụng, vì người nhận thức nông cạn, theo ý nghĩa nghe ấy mà diễn nói.
Người đó nghe pháp lòng sinh kinh sợ, liền thoái lui Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác, phát tâm Thanh văn. Bồ tát sơ hành này đã phạm tội căn bản. Do
phạm tội nên thiêu diệt căn lành, hướng đến đường ác, vĩnh viễn đọa lạc
ném bỏ, lìa khỏi niềm vui nhân thiên và Niết bàn, hủy hoại tâm Bồ đề. Vậy
nên Bồ tát cần phải trước biết tâm hạnh của chúng sinh rồi nhiên hậu dần
dần theo thứ lớp mà vì họ nói pháp. Ví như người đi vào biển, từ cạn
chuyển dần dần đến sâu. Vì hạng người này nên Bồ tát Hư Không Tạng thọ
thân khắp nơi nơi khiến cho sơ hành Bồ tát tùy theo sự phạm tội, sợ đọa ác
đạo, nếu nghe danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng, nghe rồi vui mừng muốn được
nhìn thấy để sám hối tội đã phạm. Vào cuối đêm sơ hành Bồ tát mới đốt
hương A già lâu hay hương Ða khư la, chắp tay, cung kính xưng danh hiệu Bồ
tát Hư Không Tạng thì vị Tộc tính tử đó theo sở ứng của người kia hiện ra
đủ thứ thân, hoặc hiện thân mình, hoặc hiện thân Phạm vương, Ðế thích...
cho đến hiện thân trai gái ở trước mặt người ấy, liền khiến cho sơ hành Bồ
tát tùy theo sự phạm của mình mà sám hối trừ tội. Bồ tát Hư Không Tạng
cũng lại vì người đó nói Ðại thừa vô thượng, phương tiện thậm thâm, tam
muội Ðà la ni, các nhẫn, các địa, khiến cho người đó lìa khỏi đường ác
kinh sợ, chẳng thoái lui Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, phát khởi đại
tinh tấn giống như Kim cương hành sáu Ba la mật, mau chứng Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác. Bồ tát Hư Không Tạng nếu chẳng hiện thân thì nên phải cầu
thỉnh trời A lâu na, nói lên như vầy : “Nam mô A lau na thiên thành tựu
đại bi có uy thế lớn ! Khi ngài xuất hiện, ánh sáng soi sáng khắp cõi Diêm
Phù Ðề, đồng thời soi vào thân tôi thì nguyện đem lời nói của tôi bạch với
Bồ tát Hư Không Tạng rằng, cho tôi ở trong mơ được thấy ngài, để xin ngài
thị hiện cho tôi phương tiện, khiến cho tôi sám hối trọng tội căn bản,
được mắt thánh trí tuệ Ðại thừa. Bây giờ cần phải nằm ngủ lại chỗ cũ cho
đến khi trời A lâu na xuất hiện. Bồ tát Hư Không Tạng vì sơ hành Bồ tát ở
trong mơ hiện thân, vì Bồ tát ấy nói với phương tiện đại trí, khiến cho Bồ
tát ấy sám hối tội, cũng chẳng quên mất tâm Bồ đề, chứng được tam muội,
kiên trụ ở Ðại thừa, mau chóng đủ đầy sáu Ba la mật, chẳng bao lâu sẽ được
Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó gọi là tội thứ nhất của sơ hành Bồ
tát.
Nếu sơ hành Bồ tát nói với
chúng sinh rằng : “Ông đối với Ðại thừa chẳng thể giỏi tu Bát nhã Ba la
mật, cũng lại chẳng thể được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ! Ông
nên mau phát tâm Thanh văn, Bích Chi Phật thì ông có thể mau chóng được ra
khỏi sinh tử”. Còn nói lời như trên thì đó gọi là tội thứ hai của sơ hành
Bồ tát.
Lại nữa, nếu sơ hành Bồ tát
nói với mọi người rằng : “Ông kiên trì ba la đề mộc xoa giới làm gì ? Nên
mau chóng phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đọc tụng Kinh Ðại
thừa. Nếu vì phiền não nên khởi lên nghiệp bất thiện của thân miệng ý thì
nghiệp chẳng có gì, chúng đều sẽ trừ diệt chẳng chịu quả báo !” Còn lời
nói như trên thì đó gọi là tội thứ ba của sơ hành Bồ tát.
Lại nữa, nếu sơ hành Bồ tát
nói với chúng sinh rằng : “Này Tộc tính tử ! Ông chẳng nên thính thọ Kinh
pháp Thanh văn mà nên phải che giấu. Vì sao vậy ? Vì Kinh đó chẳng thể
khiến cho ông được quả báo lớn, đoạn trừ vĩnh viễn phiền não. Ông hãy nên
thính thọ Kinh Ðại thừa vì Kinh ấy khiến cho hành động ác của ông, tất cả
bị tiêu diệt, mau chóng chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Nếu chúng
sinh đó nhận lấy tà kiến này thì phạm tội căn bản. Ðó gọi là tội thứ tư
của sơ hành Bồ tát.
Lại nữa, nếu sơ hành Bồ tát vì
danh lợi nên đọc tụng giỏi nói kinh Ðại thừa và nói như vầy : “Ta là người
Ðại thừa !” tự đề cao thân mình, hạ thấp người khác. Vì ganh ghét nên tự
nói thân mình được pháp hơn người. Người này ở trong Ðại thừa mà phạm
trọng tội, hướng đến đường ác, vĩnh viễn đọa lạc, ném bỏ. Giống như có
người muốn vào biển cả, tu sửa thuyền bè muốn đến chỗ báu. Giữa đường
thuyền bị hư hoại, chôn thân mất mạng, sơ hành Bồ tát cũng lại như vậy,
muốn vào Ðại thừa, nhưng vì ganh ghét nên nói lời nói dối, phá hủy thuyền
tin, đoạn dứt mạng trí tuệ. Ma ha la phàm tiểu Bồ tát đó phạm tội căn bản.
Ðó gọi là tội thứ năm của sơ hành Bồ tát.
Lại nữa, này tộc tánh tử !
Trong đời vị lai sẽ có sơ hành Bồ tát xuất gia hay tại gia thọ trì đọc
tụng nghĩa “không” thậm thâm, tam muội Ðà la ni, các nhẫn, các địa, sở
hạnh của bậc đại nhân, những việc trang nghiêm, Kinh điển Ðại thừa mà tác
khởi tâm như vầy để vì người khác giải nói các pháp này : “Chính ta đã
chứng, nay vì đại bi nên ta vì ông giải nói ! Ông nên tu tập ! Ông cũng
chẳng bao lâu đối với thâm pháp này sẽ tự chứng biết !” Người đó chẳng nói
: “Ta chỉ đọc tụng thậm thâm pháp này, vì người khác giải nói mà thật chưa
chứng” mà nói dối là thân mình được pháp sở chứng nhiều hơn biển cả của ba
đời các đức Phật. Ðại Bồ tát, các bậc hiền thánh. Giống như có người đi
qua vùng khoáng dã bị đói khát bức bách rất mệt nhọc, thiếu thốn. Họ đi
đến cây kia trong rừng cây tìm kiếm đồ ăn thức uống. Họ bỏ cây có quả ngọt
đi đến cây độc, rồi ăn trái cây ấy, liền bị mạng chung. Ta nói người này
cũng lại như vậy, họ được điều khó được, bản thân gặp thiện tri thức, gặp
được pháp Ðại thừa, nhưng vì tham lợi dưỡng nên hư dối tự đề cao mình, hạ
thấp người khác. Người như vậy đã phạm tội căn bản, hướng đến đường ác,
vĩnh viễn đọa lạc ném bỏ, là sự hèn hạ của người trí. Người này chẳng nên
thân cận. Nếu Sát lợi, Bà la môn, tỳ xá, thủ đà la và những người trí mà
thân cận thì đều phạm tội hết. Ðó gọi là tội thứ sáu của sơ hành Bồ tát.
Lại nữa, này Tộc tính tử !
Trong đời vị lai có vua Sát đế lợi chiên đà la, quốc sư, tể tướng, phụ tá
đại thần chiên đà la, lại có kẻ ngu si tự cho là minh trí, khởi lên đại
kiêu mạn. Những người như vậy giàu có nhiều của báu, tu hành rộng rãi đủ
thứ phước nghiệp bố thí. Họ hành trì bố thí nên kiêu mạn, buông lung hướng
về vua Sát lợi nói đủ thứ tội ác của các Sa môn, cũng hướng về Sa môn nói
tội ác của vua. Chúng dựa vào lực vua khiển trách Sa môn để chiếm đoạt của
cải. Các Tỳ kheo bị bọn chúng áp bức liền lấy vật của Phật, vật của chiêu
đề tăng và vật của thân mình để mà cho chúng. Những chiên đà la được vật
này rồi, chúng đem dâng lên vua. Những người như vậy đều phạm trọng tội.
Ðó gọi là tội thứ bảy.
Lại nữa, ở trong đời vị lai có
quốc vương ác, Sa môn chiên đà la cho phi pháp chính là pháp, bỏ bỏ Kinh,
Luật chánh giới, cũng lại chẳng nương vào đại ấn của hắc ấn, lời nói của
thầy dẫn đường đại từ bi, giới Bát nhã Ba la mật và giới phương tiện khéo
léo trong Kinh điển khác. Họ lại tạo tác dị pháp, làm ra những hạn chế mới
để não loạn Tỳ kheo hành pháp. Vì não loạn nên Tỳ kheo chẳng thể tu tập
hạnh quán và chỉ tức, học vấn vui làm mọi việc. Hành cái nghiệp này nên
chẳng thể chế phục các kết phiền não, những Tỳ kheo này đã mất thiện tâm,
lại phá uy nghi, hành động lười nhác, thật chẳng phải là Sa môn mà tự xưng
là Sa môn, chẳng tu phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh, không điều gì kỵ
nạn cứ lớn tiếng nói bàn giống như đủ âm thanh, giỏi có thể nói pháp khiến
cho vua sát lợi đại thần phụ tá cung kính cúng dường. Bọn chúng còn hướng
về những người áo trắng (thế gian) nói đủ thứ lỗi xấu của hành pháp Tỳ
kheo, khiến cho vua và đại thần dấy khởi lòng hiềm trách mà thu lấy đồ vật
tư sinh của Tỳ kheo hành pháp, buộc Tỳ kheo quay về sống ở nhà. Người như
vậy đều phạm tội nặng. Vì sao vậy ? Vì Tỳ kheo thiền định chính là ruộng
phước tốt, là pháp khí tam muội Ðà la ni, pháp khí các nhẫn, pháp khí các
địa, diễn nói chánh đạo có thể tạo ra sự soi sáng, độ thoát các nghiệp
phiền não của chúng sinh. Phật vì sơ hành Bồ tát chẳng đủ pháp nên nói tám
tội căn bản này. Bồ tát sơ hành đối với tám việc này, nếu phạm một tội thì
Bồ tát sơ hành đó đã thiêu diệt các thiện căn, hướng đến đường ác, vĩnh
viễn đọa lạc ném bỏ, lìa khỏi niềm vui người trời, hủy hoại tâm Bồ đề. Bồ
tát Hư Không Tạng vì người đó nên ở các địa phương, hiện thân khắp nơi
nơi. Bồ tát, hoặc hiện hình tướng uy nghi của Sa môn... cho đến hình tướng
uy nghi của súc sinh mà rộng nói như Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Khắp nơi nơi Bồ
tát vì các chúng sinh giải nói Kinh điển thậm thâm của Như Lai, tam muội
Ðà la ni, các nhẫn, các địa khiến cho Bồ tát sơ hành phạm tội không phương
tiện tuệ đó, lòng phát sinh tàm quí, mang nỗi kinh sợ sâu sắc, phát lồ sám
hối. Nếu các chúng sinh nghe danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng mà muốn được
nhìn thấy để sám hối trọng tội, vĩnh viễn được trừ diệt nỗi sợ đường ác
thì cần phải lễ kính xưng danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng. Tộc tính tử đó
tùy theo phước lực của người ấy, hoặc hiện tự thân, hoặc hiện thân Phạm
Vương, thân Ðế Thích.. cho đến hiện thân trai, gái ở trước mặt người ấy
khiến cho Bồ tát sơ hành đã phạm tội, được sám hối, cũng vì người ấy diễn
nói phương tiện tam muội Ðà la ni vô thượng Ðại thừa thậm thâm, khiến cho
người ấy kiên trụ ở các nhẫn, các địa, vĩnh viễn được xa lìa nỗi kinh sợ
đường ác, đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà chẳng thoái chuyển,
có sức đại tinh tấn dũng mãnh, tu hành sáu Ba la mật nhanh giống như ánh
chớp, mau chóng thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Nếu Tộc tính tử đó chẳng vì họ
hiện thân khiến cho được thấy thì Bồ tát sơ hành nếu phạm tội kia vào phần
sau đêm, hướng về phương Ðông, đốt hương lễ bái cầu thỉnh trời A Lâu Na,
nói lên như vầy : “Nam mô A Lâu Na thiên thành tựu đại bi, có đại uy thế !
Nếu khi ngài xuất hiện, ánh sáng chiếu sáng cõi Diêm Phù Ðề, đồng thời
chiếu vào thân tôi thì nguyện xin ngài đem lời nói của tôi bạch với ngài
Bồ tát Ðại Hư Không Tạng, khiến cho tôi ở trong mơ được thấy ngài để ngài
bày cho tôi phương tiện khiến cho tôi sám hối tội căn bản, được mắt thánh
trí tuệ Ðại thừa”. Lúc ấy Bồ tát sơ hành cần phải nằm ngủ lại chỗ cũ, đến
khi A Lâu Na xuất hiện thì Bồ tát Hư Không Tạng vì Bồ tát sơ hành, ở trong
mơ hiện thân vì Bồ tát ấy nói phương tiện đại trí, khiến cho ông ấy sám
hối tội lỗi mãi quên mất tâm Bồ đề mà chứng được tam muội, kiên trụ ở Ðại
thừa, mau đầy đủ sáu Ba la mật, chẳng bao lâu sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Do có đại công đức chẳng thể nghĩ bàn dũng mãnh tinh tấn như
vậy nên trên đỉnh đầu Bồ tát Hư Không Tạng có ngọc báu Như ý này.
Lại nữa, Tộc tính tử ! Nếu có
chúng sinh nghe danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng mà vẽ hình tượng để cúng
dường thì chỗ sinh sống của người ấy lửa chẳng thể đốt cháy, nước chẳng
thể nhận chìm, binh đao chẳng hại độc, chẳng thể thương tổn, người cùng
chẳng phải người không thể xâm hại, nhất định chẳng bị chết oan uổng, việc
vua chẳng gia thêm, chẳng phạm tội nặng căn bản, không có bệnh tật, cũng
chẳng chết đói. Lúc sắp mạng chung thậm chí mắt chẳng thấy sắc, tai chẳng
nghe tiếng, mũi chẳng nghe hương, lưỡi chẳng biết vị, thân chẳng giác xúc
(chạm chẳng hay biết) chỉ còn có chút xíu hơi thở ra vào, thân còn lại
chút xíu nhận thức thậm chí là chút nhận thức sau cùng thì Bồ tát Hư Không
Tạng liền vì người ấy hiện thân. Nếu chúng sinh này trước thờ Phạm thiên
thì hiện hình dáng Phạm thiên, trước thờ Ma vương, trời Na la diên, Ma ê
thủ la, Thích đề hoàn nhân, Chuyển luân thánh vương, Nhật nguyệt thiên tử,
Ðề đầu lại tra cho đến Tỳ Sa môn vương... tùy theo việc phụng sự ấy mà Bồ
tát Hư Không Tạng ở trước người đó thị hiện thân hình của vị ấy mà nói kệ
rằng :
Bốn Thánh đế như vậy
Sở kiến người Tuệ Thông.
Vì biết đến sinh tử
Hay độ biển hữu tình.
Chúng sinh đó ở trong ý thức
biết pháp này rồi đều sinh vào chỗ thiện. Nếu có chúng sinh tin kính Phật
thì liền hiện ra thân Phật mà nói kệ rằng :
Chánh trí Phật thanh tịnh
Các biển hữu độ qua
Mau được chứng các địa
Tất cả khổ lìa xa.
Bấy giờ, chúng sinh nghe nói
lời đó, suy nghĩ về công đức của Phật nên sau khi mạng chung, chỗ vãng
sinh đến là đất nước thanh tịnh, không có năm trược, được diện kiến các
đức Phật hiện tại đang nói pháp. Suy nghĩ về công đức pháp, suy nghĩ về
công đức tăng cũng lại như vậy. Bồ tát Hư Không Tạng thành tựu như vậy
chẳng thể nghĩ bàn công đức thậm thâm. Nếu có chúng sinh muốn được đủ thứ
tâm tự tại thì vào phần sau đêm, nên tắm gội sạch sẽ, cung kính lễ bái Bồ
tát Hư Không Tạng, đối với các chúng sinh dấy khởi lòng thương xót mà nói
lên như vầy : “Nghĩ đến tôi ! Nghĩ đến tôi ! Có đại trí tuệ, được đại từ
bi ! Bồ tát Hư Không Tạng cho tôi niệm định phương tiện !” Rồi liền nói
chú này :
Ðát điệt tha hộ tăng nhiễu yết
la (thượng) na (thượng) Khê bả xoa nhỉ lê tam mộ (thượng) - Ðà la (thượng)
phan đa lê đá na (thượng) dạ ma ha ca tăng nhỉ ca a (thượng) nỏ bả thiềm
bà (thượng) tùng nhị lị để a (thượng) già (thượng) La (thượng) thiềm bà
tùng nhi lị để phan xà (thượng) lam (thượng) thiềm bà (thượng) tùng nhị lị
để yết lô thâu tùng nhị lị để a (thượng) na (thượng) ma tùng nhị lị để mãn
đá câu tri tùng nhị lị để sa (thượng) bà ha.
Nếu trì tụng chú đó thì liền
được vào niệm định phương tiện. Lại nữa, nếu muốn đọc tụng đủ thứ Kinh
luận, hoặc lời nói của Phật, hoặc lời nói của đệ tử Phật thì nên tắm gội
sạch sẽ, còn nói như trên, liền nói chú rằng :
Ðát điệt tha a (thượng) nhỉ la
(thượng) xà (thượng) ê cám bồ (thượng) sa xà (thượng) ê dạ phan na
(thượng) xà (thượng) ê bả xoa ta (thượng) mê bả tra la (thượng) xà
(thượng) sa sa (thượng) tha na (thượng) ta (thượng) la (thượng) đá la
(thượng) ca (thượng) la hổ ma hổ ma ma ha ca tăng nhỉ ca ta (thượng) bà
ha.
Nếu có người muốn vào biển cả,
muốn vào hang tối tìm đồ trân quí lạ lùng, muốn uống thuốc tiên, hoặc có
người bị trói buộc giam cầm, thọ hình phạt hay sắp chết, yêu mà biệt ly,
oán ghét mà hội hợp, sợ binh đao nước lửa, bị uy hiếp của cọp sói, sư tử,
rắn độc, đạo tặc, bị bệnh lâu dài... cho đến thiếu thốn đồ ăn thức uống
thì phải lễ bái cung kính đại Bồ tát Hư Không Tạng, ngoài ra như trên. Nếu
các vương tử muốn cầu ngôi vua, cầu trường thọ, cầu Bà la môn uy đức, cầu
cư sĩ uy đức, cầu phương thuật tinh xảo, cầu danh tiếng, cầu dung mạo đoan
chính, cầu tu định, cầu giải thoát... những chúng sinh như vậy nghe danh
hiệu Bồ tát Hư Không Tạng thì vào phần sau đêm nên tắm gội sạch sẽ, mặc áo
mới đẹp, lên trên tòa ngồi cao, chí tâm thỉnh cầu, nói lên như vầy : “Nam
mô Hư Không Tạng Bồ tát ! Bậc có đại bi cho con phước đức ! Thỏa mãn chí
nguyện của con !” Vị Tộc tính tử đó dùng thiên nhĩ nghe, rồi tùy theo
phước lực của người ấy liền vì họ hiện thân. Vị Tộc tính tử đó có phương
tiện đại trí chẳng thể nghĩ bàn như vậy với những công đức thiện đã qua
biển cả Phật pháp thậm thâm. Này thiện nam tử ! Hoặc có chúng sinh có thể
tính được nước biển cả, biết được số giọt nước của biển ấy mà không có
chúng sinh có thể lường được đại trí phương tiện thành tựu chúng sinh của
Bồ tát Hư Không Tạng. Hoặc có chúng sinh có thể đo lường được vô lượng vô
biên hư không phần tề mà không có chúng sinh có thể trù tính được đại Bồ
tát Hư Không Tạng vì thành tựu chúng sinh nên đã hiện đủ thứ thân, hoặc
hiện thân Phật, hoặc thân Bà la môn... cho đến thị hiện thân súc sinh hoặc
ở khi ngủ hay ở trong mơ... cho đến chúng sinh sắp mạng chung còn chút ý
thức sau cùng mà vì hiện thân để trừ bỏ ác nghiệp của người ấy, lìa khỏi
nỗi sợ hãi đường ác, khiến họ trụ ở thiện đạo. Vị Tộc tính tử đó đã thành
tựu chẳng thể nghĩ bàn các thiện công đức của phương tiện đại trí như vậy,
đã qua biển cả Phật pháp thậm thâm. Vậy nên trên đỉnh đầu có ngọc báu Như
Ý.
Lúc bấy giờ, những người đến
hội trong đại chúng thấy việc chưa từng có của Ðại Bồ tát Hư Không Tạng,
đều tôn trọng chắp tay cung kính, dùng đủ thứ kệ tụng mà khen ngợi. Bấy
giờ, Bồ tát Hư Không Tạng lễ dưới chân đức Phật mà bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Vì sao
đức Như Lai có thể ở trong chúng sinh tối tăm vô minh của thế giới ngũ
trược này mà làm Phật sự ?
Ðức Phật dạy rằng :
- Vị Tộc tính tử đó ví như hư
không không nhiễm, không hoạn, không si. Tính ấy thanh tịnh nhưng vì nhân
duyên gió, mưa, bụi bặm, sương móc nên chẳng thanh tịnh. Nếu nhân duyên ấy
diệt thì thanh tịnh như cũ, liền thấy mặt trời, mặt trăng và tinh tú, biết
được có khoảnh khắc giây lát sát na, thời gian ngày, đêm, năm tháng. Như
vậy, này thiện nam tử ! Như Lai đối với đệ nhất nghĩa không, tâm được tự
tại. Do các chúng sinh bị khách trần phiền não làm ô nhiễm lòng của họ.
Vậy nên Như Lai vì họ nói pháp khiến cho lòng ô nhiễm trở lại được thanh
tịnh. Nếu có chúng sinh được gặp ánh sáng trí tuệ của Như Lai chiếu soi
thì liền có thể sáng rõ, chứng biết Phật pháp thậm thâm. Như là bốn niệm
xứ, tám phận Thánh đạo... cho đến an trụ ở mười tám pháp bất cộng, đại từ,
đại bi, đại công đức, Nhất thiết chủng trí. Vậy nên liền có A la hán, Bích
Chi Phật, Ðại Bồ tát, các đức Phật Như Lai xuất hiện ở thế gian. Này thiện
nam tử ! Ý ông thế nào ? Hư không nương vào nhãn (mắt) hay nương vào nhãn
thức sinh ra xúc sao ?
- Thưa đức Thế Tôn ! Chẳng
phải vậy !
- Ý ông thế nào ? Hư không
nương vào bên trong mắt duyên với xúc sinh ra ba thọ sao ?
- Thưa đức Thế Tôn ! Chẳng
phải vậy !
- Tại, mũi, lưỡi, thân cũng
lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ý ông thế nào? Hư không nương vào ý hay
nương vào ý thức vậy ?
- Thưa đức Thế Tôn ! Chẳng
phải vậy !
- Này thiện nam tử ! Ý ông thế
nào ? Chúng sinh nương vào hư không hay hư không nương vào chúng sinh vậy
?
- Thưa đức Thế Tôn ! Chẳng
phải vậy ! Chẳng đắp đổi chẳng nương vào nhau, đều không sở hành, tất cả
các pháp cũng lại như vậy, không quán không hành, đồng một tính không, qui
về tướng thật tế Như Như. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như hư không không phá,
không hoại, không tính, không tướng, không có phân biệt, cũng không lay
động, không chủng, không tử, không quả, không báo, không có tướng biến dị.
Thưa đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát nếu có thể thuận theo quán tướng tất cả pháp
như vậy thì đó gọi là ở trong pháp Vô sanh được Vô sanh pháp nhẫn.
Bồ tát Hư Không Tạng liền nói
chú rằng :
Ðá điệt tha bà (thượng) đàn đá
bà (thượng) già bàn tệ phan la (thượng) xà (thượng) ma nỏ xoa dạ thị na
(thượng) xà (thượng) dạ xà (thượng) na nhỉ ma đố nhỉ ha (thượng) la
(thượng) a (thượng) na (thượng) dạ pha la (thượng) cù (thượng) pha già
(thượng) la (thượng) bà nhỉ ma a (thượng) tỳ (thượng) na (thượng) dạ tác
(thượng) phan thước (thượng) na (thượng) ma na (thượng) thước (thượng) đá
đá ca (thượng) la (thượng) ma thước (thượng) ma ca (thượng) lợi ma đổ tỳ
(thượng) sa sơ kha khước (thượng) ma lê đá na dạ kết lê thước (thượng) đổ
tăng thâu trứu nhỉ ta (thượng) bà ha.
Ðức Phật dạy rằng :
- Này Tộc tính tử ! Hay thay !
Hay thay ! Ông có thể vì chúng sinh nói Ðà la ni Ly cấu sư tử du bộ khư
này khiến cho các chúng sinh lúc sắp mạng chung, ý thức sau cùng của họ
lìa khỏi phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng, được vãng sanh cõi
Phật thanh tịnh. Ông có thể ở tại khắp chỗ ở của nhân dân trong vô lượng
vô biên đất nước, thành ấp, tụ lạc mà hiện đủ thứ hình tướng uy nghi của
thân, vì các chúng sinh giải nói Kinh điển Ðại thừa thậm thâm khiến cho
vua Sát đế lợi chiên đà la và những người làm ác đạt đến được thiện pháp.
Bấy giờ, khi đức Thế Tôn nói
pháp này thì vô lượng người, trời có được tam muội, được Ðà la ni, được
các nhẫn... cho đến trụ ở thập địa trí. Có mười ngàn chúng sinh được Vô
sanh pháp nhẫn. Các Tỳ kheo tại hội, đại chúng trời, rồng và Atu la.v.v..
nghe lời đức Phật nói đều vui mừng làm lễ mà lui ra.
KINH HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT THẦN CHÚ - hết
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-2-2003