PHÁP MẬT YẾU TRỊ BỆNH THIỀN
- Hán dịch:
Cư sĩ Thư Cừ Kinh Thanh, đời Tống
- Việt dịch:
Thích Nguyên Xuân
(Chùa Thiên Phú - Nha Trang.)
---o0o---
Quyển Thượng
BẢY MƯƠI HAI PHÁP
TRỊ BỆNH LOẠN TÂM Ở NƠI THANH VẮNG
(Những điều Tôn giả Xá-Lợi-Phất hỏi, được
rút ra trong những việc ở nơi thanh vắng, thuộc kinh Tạp A-hàm)
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ
đức Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo ở trong vườn
Kỳ-thọ Cấp-Cô-Ðộc, nước Xá-Vệ. Vào mùa Hạ ngày 15 tháng 5, năm trăm
Tỳ-kheo thuộc dòng họ Thích ở dưới rừng trúc, thực hành pháp A-luyện-nhã,
tu tâm thứ mười hai ở trong pháp sổ tức, nhập vào tam muội chánh định
Tỳ-lưu-ly.
Lúc ấy, thái
tử Tỳ Lưu Ly (con vua Ba Tư Nặc) cùng với năm trăm người con của trưởng
giả cỡi voi Ðại-hương gần bên Kỳ-hoàn, đùa giỡn như Na-la, lại cho voi
uống say để chúng đấu nhau. Có một con voi đen đầu đàn tên là Liên Hoa, có
tiếng rống rất ghê rợn, giống như sấm sét, tiếng nhỏ ở khoảng giữa như
tiếng mèo gào. Tỳ-kheo Thích tử Thiền Nan Ðề, Ưu Ba Nan Ðề... kinh sợ sởn
tóc gáy ngay lúc quán phong đại nên phát tưởng cuồng si, ra khỏi thiền
định, múa máy như voi say, không thể kềm chế. Tôn giả A-Nan bảo các
Tỳ-kheo đóng chặt cửa phòng ốc:
- Các Thích tử
(dòng họ) tôi nay đã phát cuồng, có thể gây ra tổn thương.
Các chúng
Tỳ-kheo bèn đến chỗ ngài Xá Lợi Phất thưa:
- Ðại đức, đại
đức! Trí tuệ hiểu biết của ngài vô ngại, như tràng phan bậc nhất của Thiên
Ðế Thích, đến đâu thì không còn sợ hãi. Xin ngài thương xót cứu khổ cuồng
loạn cho các Thích tử.
Khi ấy, Xá Lợi
Phất liền đứng dậy kéo tay A-Nan đi thẳng đến chỗ Phật, nhiễu Phật ba
vòng, làm lễ rồi quỳ, chắp tay thưa:
- Bạch Thế
Tôn, xin đức Thế Tôn từ bi với tất cả, vì hàng Tỳ-kheo ở (A-luyện-nhã) nơi
thanh vắng đời vị lai...
Ðức Phật dạy:
- Do năm việc
mà phát cuồng loạn:
Một là do
tiếng ồn.
Hai là do danh
xấu
Ba là do lợi
dưỡng
Bốn là do gió
bên ngoài.
Năm là do gió
bên trong.
- Năm loại
bệnh này phải trị như thế nào? Xin đức Thế Tôn vì con mà dạy rõ.
Bấy giờ đức
Thế Tôn mỉm cười, có hào quang năm màu từ miệng Phật phóng ra, xoay quanh
Phật bảy vòng rồi trở vào trên đảnh đầu. Phật bảo:
- Này
Xá-Lợi-Phất! Hãy lắng nghe. Lắng nghe khéo suy niệm. Ta sẽ phân biệt rành
rẽ cho ông. Nếu có hành giả sống nơi thanh vắng tu tập tâm thứ mười hai
trong pháp sổ tức, vì tiếng ồn bên ngoài dội vào trong tim nên bốn trăm lẻ
bốn mạch kéo tim đập gấp. Do một lúc loạn động, sức gió mạnh mẽ nên dẫn
tới phát cuồng, mạch tim chuyển động, năm loại gió nhập vào yết hầu, trước
tiên gây cấm khẩu. Nên dạy cho hành giả này uống sữa mật và ăn A-lê-lặc,
buộc tâm một chỗ, trước hết tưởng ra một chiếc gương màu pha-lê, tự quán
thân mình ở trong gương ấy mà làm các việc điên cuồng, thấy việc này rồi.
Lại nên quán lại mà nói như vầy: “Ngươi nhìn vào gương, tự thấy thân ngươi
làm các việc cuồng si, cha mẹ thân quyến đều thấy ngươi làm việc không
minh bạch. Ta nay bảo ngươi lìa pháp cuồng si”.
Ông
(Xá-Lợi-Phất) nên nhớ, trước dạy pháp trừ âm thanh. Pháp trừ âm thanh: uốn
lưỡi lên trên nướu, tưởng hai viên châu ma-ni ở giữa hai lỗ tai, hạt châu
như ý giống như giọt sữa nhỏ thẳng vào trong tai, biến thành Ðề-hồ thấm
nhuần lỗ tai (nhĩ căn) để không còn ghi nhận âm thanh nữa. Giả sử như có
tiếng lớn như cao dầu thấm vào cũng không lay động. Tưởng này đã thành tựu
thì tiếp đến tưởng mười chín lớp lọng kim-cang hiện ra từ vua châu như ý
che thân hành giả, bên dưới có hoa kim-cang, hành giả ngồi ở trên, có núi
kim-cang bao quanh bốn phía hành giả ấy. Không gian ấy khép kín, yên tĩnh,
dứt hẳn âm thanh bên ngoài. Ở trong mỗi núi có bảy vị Phật ngồi, thuyết tứ
niệm xứ cho hành giả. Khi ấy tĩnh lặng, không nghe âm thanh bên ngoài. Y
theo lời Phật dạy thì đây gọi là pháp môn trừ loạn, hay tưởng đuổi tiếng
ồn.
Phật bảo
Xá-Lợi-Phất:
- Hành giả các
ông nên phải tu tập cẩn thận, đừng quên. (Ðó gọi là pháp trị tâm đảo
loạn). Lại nữa, này Xá-Lợi-Phất, đã trừ đi âm thanh bên ngoài thì phải
đuổi luôn âm thanh bên trong. Âm thanh bên trong là do âm thanh bên ngoài
lay động sáu tình (6 căn) làm tim mạch đảo lộn, năm loại gió ác vào trong
tim mạch, do gió động tâm nên hát, múa, làm đủ mọi thứ... Ông nên dạy quán
rửa tâm.
Pháp quán tẩy
tâm: trước tự quán tâm cho sáng dần, giống như hỏa châu; còn bốn trăm lẻ
bốn mạch như ngọc tỳ-lưu-ly, hoặc như vàng ròng, như ba tiêu (cây chuối)
thẳng đến bên tim. Hỏa châu tỏa khí không nóng, không lạnh, không thô,
không tế. Dùng tưởng xông ướp vào các mạch. Một vị Phạm vương cầm gương
ma-ni chiếu vào ngực hành giả. Khi ấy hành giả lại quán ngực như châu
vương như ý trong sáng đẹp đẽ. Hỏa châu là tim trong lòng tay của vua trời
Ðại phạm, có ấn chuyển luân (bánh xe), trong ấn chuyển luân có hoa sen
trắng, trên hoa sen trắng có Thiên đồng tử tay giơ cao nước sữa từ châu
vương như ý tuôn ra, tưới vào các mạch, sữa từ từ nhỏ xuống đến nơi tim.
Tay đồng tử cầm hai cây kim, cây thứ nhất màu vàng ròng, cây thứ hai màu
xanh, ở hai bên tim an trí hai cái hoa bằng vàng, dùng kim khoan vào. Sau
bảy lần khoan, tim trở lại nhu nhuyến như trước, lại dùng sữa rửa tim một
lần nữa, giọt sữa đọng lại, chảy vào trong ruột già, ruột già đã đầy, vào
trong ruột non, ruột non đầy rồi chảy ra các thứ sữa, nhỏ mãi không dứt
vào trong miệng tám vạn hộ trùng. Các trùng no nê ở khắp trong thân, lại
chảy rót vào các xương ba trăm ba mươi sáu đốt đều biến khắp. Sau đó tưởng
một ao sữa có hoa sen trắng mọc lên ở trong ao. Hành giả ngồi ở trên, dùng
sữa tắm rửa, tưởng lụa mềm mại (đâu-la-miên) như hoa sen trắng xung quanh
thân bảy lớp. Hành giả ở trong đó, Phạm vương tự cầm cái thân sữa cho hành
giả súc miệng. Súc xong, Phạm vương cầm lọng che trên hành giả. Ở trong
lọng của Phạm vương, hành giả thấy hết tất cả các cảnh giới thắng diệu,
thì trở lại được bổn tâm, không còn thác loạn.
Lúc Phật nói
những lời này, năm trăm Thích tử Tỳ-kheo thuận theo lời Phật, nhất nhất
hành theo, tâm lần mát mẻ, quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường,
khổ, không, vô ngã, không tham luyến thế gian, thấu hiểu pháp không, bỗng
nhiên đắc lại bổn tâm, phá tám mươi ức kiết sử thiêu đốt, thành
Tu-đà-hoàn, tu học dần dần đắc A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải
thoát. Khi ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành. (Ðây gọi
là pháp nhu nhuyến trị nội phong của bốn đại)
Lại nữa,
Xá-Lợi-Phất! Hành giả nào muốn tu tập thiền định thì phải khéo quán cảnh
giới của bốn đại, tùy lúc tăng hay giảm. Mùa Xuân thì nên nhập hỏa đại tam
muội để thân thể ấm áp, ánh lửa mạnh mẽ, thân thể tỏa nóng thì nên trị
ngay, tưởng các ánh lửa thành châu như ý, từ chân lông phóng ra. Ở khoảng
giữa các tia sáng tạo ra hoa sen bằng vàng, có hóa Phật ngồi trên, dạy
pháp trị bệnh, dùng ba loại châu:
- Một là
nguyệt tinh ma-ni.
- Hai là tinh
quang ma-ni, giống như sao trời, thân màu xanh, tia sáng màu trắng.
- Ba là thủy
tinh ma-ni.
Tưởng ba loại
châu này, một chiếu trên đầu, một chiếu bên vai trái, một chiếu bên vai
phải. Ðã thấy ba châu, tưởng ánh sáng của ba loại châu phóng ra từ chân
lông trên thân, cực kỳ mát mẽ, thân tâm thư thái nhập vào hỏa tam muội,
không thứ gì hoại được. (Ðây gọi là pháp trị hỏa đại tam muội)
Lại nữa, này
Xá-Lợi-Phất! Mùa Thu thì nên nhập vào địa tam muội. Vào địa tam muội thấy
tướng đất này có trăm ngàn núi đá, núi sắt, núi thiết vi, núi kim cương,
từ đầu đến chân ba trăm ba mươi sáu đốt đều là trăm ngàn núi, thấy thần
núi Nham Ngạc, khi ấy phải gấp trị ngay. Pháp tưởng trị địa đại: mỗi mỗi
núi này quán cho thật kỹ giống như cây chuối, như vậy thứ tự như trong
kinh Thập thí, mỗi mỗi quán kỹ. Khi ấy chỉ thấy mười phương là đất (đại
địa) như bạch lưu ly có hoa trắng báu, thấy Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca
Diếp, Ca Chiên Diên ngồi trong hang kim cương trắng, như nước phủ đất, vì
hành giả nói năm pháp phá năm pháp hợp, nói đất vô thường. Hành giả thấy
rồi, thân tâm thư thái, đắc lại bổn tâm. Gọi là pháp trị địa đại.
Lại nữa Xá Lợi
Phất! Hành giả vào thủy đại tam muội, tự thấy thân mình như suối lớn chảy,
ba trăm ba mươi sáu đốt chảy theo dòng nước, thấy đất mười phương đầy tràn
nước xanh; nếu trắng hoặc đỏ thì nên trị gấp. Pháp trị thủy đại: trước nên
quán thân thành châu ma-ni, bình kiết tường, hoa bằng vàng che bên trên,
làm cho nước mười phương chảy vào trong bình, bình kiết tường này lại chảy
vọt ra bảy đóa hoa bảy cánh rõ ràng, ở giữa mỗi cánh có bảy dòng suối,
trong mỗi dòng suối có bảy hoa vàng, ở trên mỗi hoa có Phật ngồi nói bảy
giác chi. (Gọi là pháp trị thủy đại)
Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Nếu hành giả nhập vào phong tam muội, tự thấy thân mình thành
mười chín đầu rồng, mỗi đầu rồng có chín trăm lỗ tai, vô lượng miệng, lỗ
chân lông trên thân, lỗ tai và miệng như hang khe lớn, đều phát ra gió
mạnh, thì nên trị gấp. Pháp trị như vầy: nên dạy hành giả tự quán thân
mình thành tòa kim cang, ở bốn phía tưởng bốn bánh xe bằng kim cang để
ngăn gió này, bánh xe kim cang lại sanh bảy hoa kim cang, trên hoa có hóa
Phật tay cầm vòi nước, trong vòi có mười sáu đầu rồng uốn mình hút gió.
Khi đó, gió mười phương yên tĩnh bất động. Bấy giờ hành giờ hành giả lại
thấy bảy vị Phật, bốn vị đại Thanh văn, lại giảng dạy bảy giác chi. Hành
giả dần dần nhập vào tám phần thánh đạo. (Gọi là pháp trị phong đại) Thoa
sữa quán mềm mại cho bốn đại dần dần vào cảnh giới sáng rỡ của bậc thánh.
Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Nếu có hành giả bốn đại bị thô trệ, hoặc giận, hoặc mừng, hoặc
buồn, hoặc vui, hoặc lật úp, bò, hoặc phóng hạ phong... Các bệnh như vậy
nên dạy trị gấp. Pháp trị thế này: trước hết dạy quán da mỏng, bắt đầu từ
nửa đốt xương, thấy trong da mỏng có chín mươi chín lớp giống như bong
bóng. Quán tiếp da dày chín mươi chín lớp giống như bẹ cây chuối, kế tiếp
quán màng mỏng như màng mí mắt chín mươi chín lớp., tan vỡ sắp xuyên qua.
Tiếp đến quán thịt cũng chín mươi chín lớp giống như lá chuối, ở giữa có
trùng nhỏ như lông tơ, trùng có bốn đầu bốn miệng, chín mươi chín đuôi.
Lại nên quán xương, thấy xương có tia sáng trắng giống như bạch lưu ly,
chín mươi tám lớp, bốn trăm lẻ bốn mạch chạy vào giữa xương, chạy từ trên
xuống dưới, giống như thân cây chuối. Tiếp đến quán tủy chín mươi tám lớp,
như lưới tơ của trùng. Ðã quán các đốt xương, quán tiếp xương đầu, dưới
mỗi sợi tóc có bốn trăm lẻ bốn mạch, chạy thẳng vào não. Ngoài da mỏng, da
dày ra, thì xương cùng thân không khác, chỉ có màng não là mười bốn lớp.
Não có bốn phần, chín mươi tám lớp, bốn trăm lẻ bốn mạch chạy vào tim,
ruột già, ruột non, bao tử, thận, gan, phổi, tim, mật, cổ họng, (huyệt)
phế du phát hơi nóng cho hai tạng, tám vạn hộ trùng, từng bước quán kỹ đều
như thật, sáng rỡ rõ ràng, da da tiếp giáp nhau, khoảng giữa sáng trong
như bạch lưu ly, mỗi nửa đốt như vậy quán kỹ, khiến cho ba trăm ba mươi
sáu đốt đều rõ ràng, để tâm an trụ. Lại quán từ đầu một ngàn chín trăm
chín mươi chín lần. Sau đó mới nên trụ khí một chỗ, đếm hơi thở để (điều)
phục ý tưởng. Một Phạm vương tay cầm phạm binh, cùng các Phạm chúng đi đến
trước hành giả, cầm dao kim cang trao cho hành giả. Ðã được dao, tự gọt
đầu xương lớn như ngọc Mã-kha để trên gối trái. Ở trong phạm bình sanh ra
hoa sen trắng chín đốt, chín cánh, chín lớp, có một đồng tử theo sau Phạm
vương đi ra từ hoa sen đầu tiên, thân màu trắng như người bạch ngọc, tay
cầm bình trắng, trong bình đựng Ðề-hồ. Trên búi tóc Phạm vương, bên trong
có châu như ý hiện ra thuốc cỏ nhiều màu sắc đổ vào trong đề-hồ. Ðồng tử
rót vào từ đảnh hành giả, vào trong mạch não, chảy thẳng xuống dưới, đến
nửa đốt ngón cái chân bên trái, đầy nửa đốt rồi thấm nhuần cả chân, cho
đến da mỏng; lại đến một đốt, lần lần như vậy đầy khắp nửa thân. Ðầy nửa
thân rồi lại đầy toàn thân. Ðã đầy toàn thân bốn trăm lẻ bốn mạch, các thứ
thuố chảy mãi. Quán thân ba trăm ba mươi sáu đốt đều tràn đầy. Bấy giờ
hành giả nắm trở lại xương đầu để trên đầu. Ðồng tử lại lấy thuốc màu xanh
rưới trên đầu hành giả, từng giọt thuốc này đi vào từ lỗ chân lông, sợ gió
bên ngoài nhập. Phạm vương lại dạy làm sữa tuyết sơn cho hoàn toàn trắng
sáng. Ðề-hồ tuôn chảy như vách pha-lê, lấy để thoa thân bốn mươi chín lần.
Lại làm ao Ðề-hồ rộng lớn, sữa trắng làm hoa, hành giả ngồi trong hang
sữa, có lọng sữa ở trên, dùng thuốc Từ của Phạm vương rải khắp không gian
sữa. Quán kỹ như thế chín trăm chín mươi chín lần.
Sau đó nên
tưởng đốt thứ hai trong hoa sen có một đồng tử màu hồng cầm thuốc màu đỏ
rải ở trên tóc và khắp thân, tất cả lỗ chân lông hành giả, làm cho thuốc
này vào da mỏng... cho đến tủy, khiến cho dưới tim sáng rực, khắp thân thể
dần dần mềm mại.
Trong đốt thứ
ba, hoa sen nở ra đồng tử màu vàng kim, cầm thuốc màu vàng rải khắp trên
tóc, khắp thân thể và tất cả lỗ chân lông hành giả, làm cho thuốc ấy vào
trong da mỏng, đi vào trong tủy, khiến cho dưới tim có màu xanh, khắp thân
thể dần dần cao lớn, lại tăng thêm sự mềm mại.
Ðốt thứ tư,
đồng tử có màu như tỳ-lưu-ly, cầm thuốc xanh bằng tay mặt rải lên tóc,
khắp thân thể và tất cả lỗ chân lông hành giả, làm cho thuốc xanh thấm vào
da mỏng, cho đến tủy, khiến cho dưới tim có màu đỏ, mỗi lỗ chân lông ở
phần dưới chân đều châm một kim, phần trên châm hai kim. Trên tim tạo ra
ba hoa sen, trong ba hoa sen có ba viên hỏa châu tỏa ra ánh sáng màu đỏ,
ánh sáng chiếu vào tim làm tim dần dần ấm áp. Sau đó, hai lòng bàn tay áp
vào các đốt, mỗi đốt đều châm ba kim, tùy theo mạch trên hay dưới, điều
hòa các khí lưu thông trong bốn trăm lẻ bốn mạch, không chạm vào ruột già,
mạch thận tăng trưởng. Lại dùng năm kim châm vào mạch ruột phía trái, như
thế đồng tử điều hòa các kim, dùng sự huân tập không nghĩ ngợi, tu tập
không nghĩ ngợi, lấy các kim ra để dưới năm móng tay, dùng tay chà xát
khắp thân hành giả.
Ðốt thứ năm
đồng tử màu xanh lục, tay cầm bình ngọc, rót nước thuốc màu xanh lục vào
phẩn môn, chảy khắp ruột già ruột non, năm tạng, các mạch, nước này trở
lại chảy ra phẩn môn, vi trùng và các nhơ nhớp chảy ra theo nước mà Ðề-hồ
không hao tổn, trùng hết nước dứt lại rải thuốc khô màu xanh lục lên tóc,
khắp thân thể, tất cả lỗ chân lông hành giả, làm cho thuốc khô màu xanh
này vào trong da mỏng, đến tủy, khiến cho dưới tim màu trắng, khắp thân
thể dần dần tăng thêm sự mềm mại.
Ðốt thứ sáu,
đồng tử màu tía, cầm bình Châu-mân-côi đựng đầy nước Mân-côi tưới khắp các
mạch, làm cho nước Mân-côi chảy ra các lỗ chân lông, các trùng dưới chân
lông đều chảy ra theo nước. Lại dùng một thứ thuốc khô màu hổ phách rải
trên tóc và khắp thân, tất cả các lỗ chân lông, cho thuốc khô màu hổ phách
vào da mỏng, đến tủy, khiến cho dưới tim sáng dần như ánh sáng tuyết
trắng, khắp thân tăng thêm mềm mại.
Ðốt thứ bảy,
đồng tử màu vàng cầm dùi kim cang dùi dưới hai chân, hai lòng bàn tay, hai
bên tim, sau đó cầm châu vương như ý chà xát lên sáu căn, các căn khai mở,
cảm thọ vui của thiền vị tối thượng. Khoảng giữa các da và mạch như thoa
bạch cao, tất cả đều mềm mại.
Ðốt thứ tám,
đồng tử màu kim cang, tay cầm hai bình, dùng thuốc màu kim cang rưới vào
trong hai lỗ tai và tất cả lỗ chân lông, như pháp Án-ma, điều chỉnh các
đốt, (xương của) thân như mắc xích đi qua giữa các đốt.
Ðốt thứ chín,
đồng tử màu châu ma-ni đi ra từ miệng bình đến chỗ hành giả, đưa năm ngón
tay vào trong miệng hành giả, năm ngón chảy ra thuốc năm màu, hành giả
uống rồi quán thân và tâm, cho đến các mạch, thanh tịnh như gương sáng,
màu của pha-lê, ma-ni không thể sánh bằng. Ðồng tử cầm cành hoa sen đến
cho hành giả ăn. Khi ăn như uống sữa pháp, trong mỗi giọt tuôn ra cam lồ,
liền ăn hết cành này. Chỉ có chín hoa, trong mỗi một hoa có một Phạm vương
mang giường Phạm vương trao cho hành giả để hành giả ngồi. Ðã ngồi trên
giường, có lọng lớn bảy báu che trên hành giả. Mỗi Phạm vương đều giảng
thuyết pháp Từ dạy cho hành giả. Nhờ sức Phạm vương, mười phương chư Phật
hiện trước hành giả thuyết giảng từ, bi, hỷ, xả, tùy theo căn cơ mà nhận
thuốc pháp, thư thái bốn đại.
Này Xá Lợi
Phất! Ông khéo hành trì pháp bốn đại nhu nhuyến này, hàng phục chín mươi
tám kiết sử trong và ngoài thân, tất cả các bệnh, đem pháp Phạm vương quán
đảnh dùng sữa tưới thuyết giảng cho bốn chúng.
Khi ấy, Xá Lợi
Phất, tôn giả A-Nan... nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Lại nữa, này
Xá Lợi Phất! Nếu Tỳ-kheo ở nơi thanh vắng dụng tâm vội vã, sổ tức quá thô,
nằm ngủ thì đơn sơ, do đó phong hàn bên ngoài nhập vào các mạch của bao
tử, phế quản, thận... làm các gân khởi gió, khí ngược tức ngực, từng đốt
xương tiết ra nước, ứ đọng trong ngực, vì thế dẫn đến khí huyết ngưng trệ,
phát sanh đau đầu, các gân co giật, nên gấp trị liệu. Pháp trị bệnh ấy:
trước hết uống chất béo, vị thuốc tốt ở đời. Sau đó ngủ nằm ngửa, đếm hơi
thở cho an định, quán tưởng ao A-nậu-đạt nước tràn đầy một do tuần, dưới
đáy có cát vàng và bốn thứ báu, có bánh xe vàng sanh ra hoa vàng, lớn như
bánh xe, trong hoa có bốn thứ báu, có thú đầu voi mũi phun nước, sư tử
miệng phun ra nước, ngựa miệng phun ra nước, trâu miệng phun ra nước, đi
quanh ao bảy vòng. Long vương A-nậu-đạt với cung điện bảy báu ở giữa đầu
bốn thú, trên đảnh Long vương có châu như ý. Do sức của Long vương sanh ra
một ngàn năm trăm hoa sen nhiều màu, năm trăm hoa sen xanh. Tôn giả
Tân-đầu-lô cùng với năm trăm vị A-la-hán ngồi ở trên ấy, đêm đến hoa khép,
ngày hoa nở ra, có lọng bảy báu che trên Tỳ-kheo, có bảy giường báu, ở
dưới hoa sen có năm trăm hoa sen sắc vàng. Thuần Ðà Bà cùng năm trăm Sa-di
đều ngồi trên hoa, đêm về thì khép, sáng ra nở, có lọng bảy báu che trên
Sa-di, có giường bảy báu, ở dưới hoa sen có năm trăm hoa sen hồng. Tôn gải
Ưu Ba Nan Ðà, Hòa Tu Mật Ða... những vị đại A-la-hán, hay là năm trăm
quyến thuộc của đại Bồ-tát đều ngồi trên hoa, về đêm khép lại, ngày thì nở
ra, có bảy bảo cái ở trên Tỳ-kheo, có giường bảy báu ở dưới hoa sen, có
đài cao bằng bảy báu dài tám ngàn trượng từ phương dưới hiện lên. Lúc ấy,
trước cung điện của Long vương A-nậu-đạt có năm trăm đồng tử ở trên đài
ấy, thân màu vàng ròng. Ðồng tử thứ nhất tên là Xà Bà, thứ hai tên Thiện
Tài... đồng tử thứ năm trăm tên là Quán Ðảnh Lực. Nếu muốn vua trị bệnh
nghẹn, trước tiên nên niệm tôn giả Tân Ðầu Lô Phả La Ðọa... một ngàn năm
trăm vị như đã nói ở trên, khiến cho thấy rõ ràng, rồi thì tôn giả Tân Ðầu
Lô sẽ đưa đồng tử Xà Bà cầm thuốc uống Am-bà-đà (thuốc có vị ngọt như mía,
giống như ngó sen, lại có vị như đường phèn), màu trắng của Long vương
A-nậu-đạt. Ðã uống thuốc này thì bệnh nghẹn sẽ lành, bốn đại điều hòa, mắt
liền sáng trong. Nếu người phát tâm đại thừa thì Xà Bà, Thiện Tài... năm
trăm đồng tử thuyết pháp đại thừa cho. Nhờ thế mà được thấy Bạt Ðà Bà
La... mười sáu hiền sĩ. Lại thấy Di-Lặc ở Hiền kiếp... một ngàn Bồ-tát. Do
phát tâm Vô thượng chánh đẳng giác nên đủ sáu độ. Người phát tâm Thanh văn
thì tôn giả Tân Ðầu Lô thuyết pháp Tứ niệm xứ... tám phần Thánh đạo, trải
qua chín mươi ngày thì đắc đạo A-la-hán.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Ông khéo gìn
giữ pháp trị nghẹn này cẩn thận, chớ để quên mất.
Khi ấy Xá Lợi
Phất và A-Nan... nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị hành giả bị bệnh tham dâm:
Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Nếu hành giả khi nhập thiền định, sắp khởi tham dâm, phong động
bốn trăm lẻ bốn mạch từ mắt đến thân căn, một lúc giao động, các tình bế
tắc, gió tim phát động làm tâm điên cuồng. Do điên cuồng nên vướng phải
quỷ mị, đêm ngày nghĩ dục, như cứu lửa cháy đầu, nên gấp chữa trị. Pháp
trị bệnh ấy dạy hành giả này quán tử tàng. Tử tàng ấy ở dưới sanh tàng,
thục tàng ở trên, chín mươi chín lớp mô như heo chết trong bọc, bốn trăm
lẻ bốn mạch trong tử tàng giống như rễ cây, phân ra các căn. Như túi đầy
phẩn một ngàn chín trăm đốt, giống như lá chuối, tám vạn hộ trùng xoay
vòng xung quanh. Bốn trăm lẻ bốn mạch và tử tạng giống như ruột ngựa,
thẳng tới cửa sanh, giống như vòng xuyến đeo tay, đoạn lớn đoạn nhỏ, trên
tròn dưới nhọn, hình trạng như răng đầy đủ, chín mươi chín lớp, giữa mỗi
lớp có bốn trăm lẻ bốn trùng, mỗi trùng có mười hai đầu, mười hai miệng.
Khi người uống nước, nước tinh nhập vào mạch, phân bố cho các trùng, nhập
vào đảnh của trùng Tỳ-lô, thẳng đến cửa sanh, nửa tháng nửa tháng chảy ra
nước bất tịnh do các trùng mửa ra, giống như mủ, chảy vào trong miệng chín
mươi trùng, từ trong sáu khiếu của trùng mười hai đầu chảy ra như chất
nhờn đỏ. Lại có các trùng nhỏ như mảy lông, tung tăng ở trong.
Này các nam
tử! Do tội ác trước nên bốn trăm lẻ bốn mạch từ nhãn căn phân ra tứ chi,
dẫn đến các ruột, tới dưới sanh tạng, trên là thục tạng, mạch phế du, mạch
thận ở hai bên đều có sáu mươi bốn trùng, mỗi trùng có mười hai đầu, cũng
có mười hai miệng, quấn quýt với nhau giống như hình chiếc nhẫn, đầy mủ
màu xanh, giống như tinh heo rừng, rất hôi hám, đến âm tàng phân làm ba
nhánh, hai nhánh ở trên giống như lá chuối, có một ngàn hai trăm mạch, ở
trong mỗi mạch sanh ra trùng phong, nhỏ như lông tơ của chim Tỳ-lan-đa,
trong miệng các trùng sanh trùng cân sắc (trùng này giống như gân nối
nhau, giữ tử tàng, hay làm lay động các mạch, hút tinh trùng nam màu xanh
trắng và trùng nữ màu hồng đỏ) bảy vạn tám ngàn con cùng nhau quấn bên
trong, hình trạng như chiếc nhẫn dính nhau, giống như chim Cù-sư-la, có
chín mươi tám mắt, mạch trên thân thông tới tim, chạy lên đảnh tóc.
Này các thiện
nam tử! Mắt tiếp xúc với sắc (cảnh), gió động tâm căn bốn trăm lẻ bốn
mạch, bị gió kích thích chuyển động không dừng, tám vạn hộ trùng đồng thời
há miệng, mắt chảy ra mủ, đổ vào các mạch cho đến đảnh trùng. Các trùng
trăn trối điên cuồng không còn biết, chạm trước nữ căn, tinh nam xanh
trắng, là nước mắt của các trùng, tinh nữ vàng đỏ, là mủ của các trùng.
Chín mươi tám sử là pháp, huân tập tám
vạn hộ trùng, đất, nước, gió, lửa do tác động tạo ra.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Bốn chúng
nào mà mặc y tàm quý, uống thuốc tàm quý, muốn cầu giải thoát, độ cái khổ
ở đời, thì nên học pháp này như uống cam lồ. Người học pháp này, trước hết
tưởng tử tàng, cho đến nữ căn, thân phần của người nam, các trùng lớn nhỏ
há miệng vễnh tai, mắt lộ sân hận mữa mủ, dùng tay lật ngược để trên gối
trái cho ngay ngắn, đếm hơi thở khiến cho định, quán qua một ngàn chín
trăm chín mươi chín lần thì thành tựu tưởng này. Ðặt (tay) trên gối phải
cho ngay ngắn, quán y như trước. Lại dùng tay lật ngược che trên đỉnh đầu,
làm cho các vật bất tịnh của các trùng, trước tiên nhỏ vào hai mắt, hai
tai và miệng... không chỗ nào mà không đến. Thấy việc này rồi thì đối với
sắc đẹp của người nữ, người nam, thậm chí thiên tử, thiên nữ mà mắt nhìn
thấy họ giống như thấy người bị hủi, như trùng trong mụt ghẻ na-lợi, như
địa ngục tên, như dáng quỷ thần Bán-đa-la, như lửa dữ của ngục A-tỳ, cần
phải quán kỹ thân mình, thân người, thân phần của tất cả chúng sanh thuộc
cõi Dục này đều bất tịnh, tất cả đều như vậy.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Nay ông biết
không? Thân căn chúng sanh chủng tử căn bản đều bất tịnh, không thể nói
hết, chỉ nên đếm hơi thở, nhất tâm quán xét. Nếu uống thuốc này thì là bậc
đại trượng phu, thầy của trời người, là bậc điều ngự, thoát khỏi bùn dục,
không bị chìm nổi trong nước sông lớn ân ái. Dâm dật thì không rõ sắc là
huyễn, nên bị yêu quỷ nhiễu hại, nên biết đây là người chưa ra khỏi sanh
tử. Thân (hành giả) này tinh khiết thơm tho như hoa sen xanh trong loài
người, hương tượng, long vương, lực sĩ, ma-hê-thủ-la... không (thể) so
sánh được bậc đại lực trượng phu, trời người kính mến.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Ông khéo
(thọ trì), giữ gìn, thuyết giảng cho bốn chúng, cẩn thận chớ để quên mất.
Khi ấy, Xá Lợi
Phất và A-Nan... nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị
bệnh ghẻ lợi dưỡng:
Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Nếu có hành giả bị lửa tham thiêu đốt, gió ác thổi lay động, tên
độc lợi dưỡng bắn trúng tim hành giả. Do nhân duyên tham nên tâm bị điên
đảo, ngày đêm sáu thời nhớ nghĩ đủ cách tham, như mèo rình chuột, không
biết đủ, như rắn thất bộ phun độc phủ thân người ấy. Người ác này đắm
trước lợi dưỡng ị năm trăm rắn độc quấn lấy thân, như thế từng giây từng
phút lửa độc trong tâm thiêu đốt không ngừng, đêm ngày sáu thời gió dữ
phiền não thổi củi lợi dưỡng trong tâm người ấy, thiêu đốt không dừng, các
rắn tranh đấu đốt cháy mầm móng thiện. Vì nhân duyên ấy, quỷ đen cuồng
loạn độc dữ đốt cháy, thấy người được lợi như tên bắn trúng tim, như mũi
nhọn đâm vào mắt, như đinh đóng vào tai, các tình bít lấp, năm trăm lẻ năm
rắn, rồng độc bốn đại, năm giặc nhổ đao, la-sát sáu thôn đồng thời đấu
tranh, do vậy phát cuồng, phải gấp chữa trị.
Pháp trị bệnh
ấy: trước nên đếm hơi thở, buộc tâm cho định, tưởng tượng (Phật) một
trượng sáu, thân màu vàng tía, ba mươi hai tướng, ở núi Kỳ-xà-quật, trong
hang bảy báu, ngồi trên tòa sư tử, cùng với bốn chúng (thuyết) nói pháp
trừ tham, bảo các pháp tử: “Ông quán người tham đắm trước ca-sa, sáu vật,
các dụng cụ.... như (người) trong rừng gai nhọn, kim may, cây sanh ra
kiếm, trăm ngàn đinh nhọn, các trùng mỏ sắt nhọn mổ ăn thân này. Vạc đồng
sôi bốc hơi, cưa sắt, giường sắt... là chỗ ngồi của ông. Nước tiểu, phân,
rắn độc, hoàn sắt, vạc nước sôi, rừng đao, kích, kiếm, trăm ức gai nhọn,
nước đồng sông lửa, nước tro, máu mủ... là thức ăn nước uống của ông”.
Lúc ấy Thế Tôn
nói lời ấy rồi lặng yên không nói, khiến cho hành giả tự thấy thân mình
nằm trong bảy lớp thành sắt, thấy năm la-sát há miệng hai hướng, dùng tám
mươi móc sắt nhổ lưỡi ra ngoài, vô lượng lưỡi cày sắt giống như cây (gắn)
kiếm để cày lưỡi hành giả, lỗ trong thân trâu sắt chảy ra trùng đồng. Bầy
trùng sắt ở trong thân, mủ có trăm ngàn màu, trong mủ có trùng không thể
nói hết. Quán thấy việc này, tâm sợ lông dựng, xuất định nhập định, thấy
sự đắm trước ca-sa như mủ phân hòa với máu, các trùng sắt mỏ nhọn, rừng
đao kiếm kích để trang nghiêm, thấy vật thực giống như (thấy) giun, trăm
ngàn trùng nhỏ nhờ thế tạo ra các mủ, phân, nước tiểu và các thứ máu, tám
mươi trùng mỏ nhọn, trùng gió, trùng lửa, trùng nước, trùng đất, trùng địa
ngục, tất cả các trùng mữa mủ, mữa chất độc đầy cả bát, hoàn sắt, kiếm,
kích dùng làm rau quả.
Khi ấy Thế Tôn
nói kệ:
- Sanh tử
không dừng dứt
Vì tham đắm
(mùi) vị
Dưỡng thân
bằng vật độc
Phải chịu
các khổ đau
Thân hôi như
thây chết
Chín lỗ
chảy đồ nhơ
Như giòi cầu
thích phân
Ngu đắm
thân không khác
Bậc trí nên
quán thân
Không
tham nhiễm thế gian
Không lụy,
không đắm dục
Gọi là
chơn Niết-bàn
Như chư Phật
đã dạy:
Nhất tâm
nhất ý hành
Sổ tức nơi
thanh vắng
Gọi là
hạnh Ðầu-đà.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Lợi dưỡng
làm tổn thương thân, phá hoại thiện căn của người, không thể nói hết. Chỉ
nên đếm hơi thở, nhất tâm quán sát, nên uống thuốc này thì là đại trượng
phu, thầy của trời người, là vua điều ngự, thoát khỏi bùn dục, không bị
chìm nổi trong nước sông lớn ân ái. Tham lợi, không rõ cái hại của nó
thiêu đốt, nên biết người này chưa ra khỏi sanh tử, thân của người uống
thuốc ấy thơm tho tinh khiết như hoa sen xanh, trong loài người, hương
tượng (loài voi thơm), long vương, lực sĩ ma-hê-thủ-la... không thể so
sánh, bậc đại trượng phu được sự tôn kính của trời người.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Ông khéo thọ
trì, giảng nói cho bốn chúng, cẩn thận chớ quên mất.
Khi ấy Xá Lợi
Phất và A-Nan... nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Pháp
trị phạm giới:
Lại nữa, Phật bảo Xá Lợi
Phất:
- Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni,
Thức-xoa-ma ni, Sa-di, Sa-di ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào thọ cấm giới Phật
mà thân tâm cuồng loạn giống như khỉ vượn, hạt gống pháp đã trồng nhưng
chưa sinh trưởng mà diệt cành phá gốc. Bảy chúng cũng vậy, đối với giới
cấm của Phật, giới sắc chưa sanh, phạm Ðột-kiết-la cho đến Ba-la-di, giống
như voi say, không tránh tốt xấu, không biết các phương, đạp bừa tan nát
tất cả các vật tốt đẹp. Bốn chúng cũng vậy, đạp phá hoa sen xanh tịnh giới
trong ao, phá giới mạnh mẽ giống như chó điên, thấy người thấy cây cho đến
chim thú... đuổi theo cắn lấy. Người ác phá giới thấy sự thanh tịnh của
Phật, La-hán, công đức phước điền của Tỳ-kheo chạy theo mạ nhục, phỉ báng,
phá hoại, tự uống thuốc độc, khắp thân hiện ra máu lửa thiêu từng đốt
xương. Kẻ cuồng ngu vô trí, kiết sử của họ như gió mạnh thổi động núi rừng
phiền não. Tham dâm là mắt, sân hận là tay chân, ngu si là thân thể, dẫm
đạp thế gian, trồng hạt giống ác; đã tự trồng, lại dạy người khác tìm cầu.
Ngục tốt trong địa ngục, la-sát, ngưu đầu, a-bàng, ác quỷ kiếp lửa, thần
rừng kiếm, vua Diêm-la..., mười tám chúa ngục thường là bạn thân, là
thượng thiện tri thức của ngươi, chắc chắn ngươi sẽ cùng với hạt giống địa
ngục đêm ngày dong ruỗi khắp nơi. Người phá giới này, vì lợi dưỡng và danh
tiếng nên các lửa dữ sẽ đến (nhập) vào tâm. Họ tự cho mình là tốt, đầy đủ
oai đức, đến chỗ vị biết pháp ở nơi thanh vắng, giống như nhà ảo thuật làm
mê hoặc mắt người, trò huyễn này lừa phỉnh người, nói dối là hành Ðầu-đà.
Gió ác phá giới thường thổi hoa nghiệp tội trên thân tan nát, ác khẩu phỉ
báng, hương tâm bất thiện dùng để ướp thân tâm. Thân tâm người này giống
như hoa lan kia có trăm ngàn bọ chét. Tuy hành thiền định nhưng dối hiện
đếm hơi thở, được thấy cảnh giới, ban đầu thấy Phật màu đen giống như chân
voi đen, thấy như người (bằng) tro, thấy các Tỳ-kheo vỡ đầu gãy chân, thấy
Tỳ-kheo ni trang điểm bằng vòng hoa, thấy các voi trời hóa thành khỉ vượn,
lông dựng lửa thiêu đến quấy nhiễu rồi, hoặc thấy một con cáo hoang và một
con chó khác có trăm ngàn đuôi, mỗi đuôi thẳng ra, có vô số trùng và các
thứ nhơ nhớp, hoặc thấy lạc đà, heo, chó gầy ốm, quỷ hình vò... các Dạ-xoa
ác, La-sát Khôi quái đều cầm các vũ khí và lửa dữ đánh đập Tỳ-kheo. Do vậy
phát cuồng, hoặc ca, hoặc múa, nằm trên đất phân, phải gấp chữa trị.
Pháp trị như
vầy: Hướng đến người có trí chí thành sám hối, nói lên việc tạo nghiệp ác
bất thiện. Vị có trí nên dạy vị Tỳ-kheo này nhớ nghĩ Phật Thích Ca Mâu Ni,
tiếp đến nhớ nghĩ bảy vị Phật. Nhớ nghĩ bảy vị Phật rồi, nhớ nghĩ ba mươi
lăm Phật. Sau đó lại nên nhớ nghĩ các Bồ-tát, nhớ nghĩ tâm đại thừa, quán
pháp không sâu xa, tự tàm quý, tưởng mỗi mỗi Phật cầm nước tắm cho,
dùng (nước) tưới lên đầu.
Lại tự quán
thân mình đọa vào địa ngục A-tỳ, mười tám địa ngục chịu các khổ não, ở
trong địa ngục xưng niệm: “Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tỳ-kheo Tăng”,
tu hành sáu niệm. Ở trong mộng thấy lông trắng giữa chặn mày của các Phật
Như Lai phóng ánh sáng cứu khổ địa ngục. Thấy việc này rồi, như người mắc
nợ, ôm lòng xấu hổ, cần phải trả vậy. Nhất tâm nhất ý khoác Tăng-già-lê,
mặc An-đà-hội, đến chỗ Tăng thanh tịnh, năm vóc gieo xuống đất như núi lớn
đổ, ôm lòng xấu hổ, sám hối các tội, chấp sự cho Tăng, làm các việc lao
nhọc như quét nhà xí, gánh phân, trải qua tám trăm ngày, sau đó tắm rửa
thân thể, lại mặc Tăng-già-lê, vào trong tháp nhất tâm chấp tay nhìn kỹ
tướng lông trắng giữa chặn mày, tưởng ánh sáng đại nhơn của Như Lai một
ngày đến bảy ngày, trở lại đến chỗ người trí cầu xin sám hối. Người trí
nên bảo rằng: “Này Tỳ-kheo! Ông nay tự quán thân ông giống như bình vàng
đựng bốn con rắn đôc, hai trên hai dưới nhổ ra chất độc đáng sợ. Lại quán
một con rồng sáu đầu quấn quanh bình, rồng cũng phun độc, nhỏ vào trong
miệng rắn. Cây lớn bốn phương từ bình vàng hiện ra đầy khắp ba cõi, voi
đen lại đến, muốn nhổ cây này, bốn phía lửa bùng cháy”. Thấy việc này rồi
thì nên đến bảo: “Tỳ-kheo nên biết! Bình này là khí của đất vậy. Rắn màu
xanh từ phong đại sanh, là chất độc của phong đại, nương vào màu của rắn
từ thủy đại sanh, là chất độc của thủy đại. Rắn màu trắng từ địa đại sanh,
là chất độc của địa đại. Rắn màu vàng từ hỏa đại sanh, là chất độc của hỏa
đại. Rồng sáu đầu là ngủ ấm và hư không trong thân ông. Như vậy, thân này
độc hại không sạch, tại sao theo ác phạm giới không trị?”. Nói lời này rồi
lại dạy quét, trét đất tháp, làm các việc nhọc nhằn. Lại dạy quán Phật,
thấy Phật phóng hào quang màu vàng, lấy tay xoa đầu, sau đó mới nên dạy
quán bất tịnh. Pháp môn bất tịnh dẹp hết không còn các chướng ngại. Sau đó
có thể cùng với Tăng thuyết giới. Khi muốn nói giới nên xướng lời này:
“Tỳ-kheo mổ, giáp..., hoặc Tỳ-kheo ni mổ, giáp... đã tám trăm ngày làm các
việc khổ nhọc, bảy ngày quán tướng bạch hào giữa chặn mày Phật, tác quán
độc xà, tưởng địa ngục. Lại quán một vị Phật nói pháp sám hối, quán pháp
bất tịnh, đối cảnh không còn ngã nhơn, lại còn thông đạt trong cảnh giới.
Phật dùng nước tắm rưới trên đảnh Tỳ-kheo, thiên thần hiện mộng nói đã
thanh tịnh. Nay đã xấu hổ, tôi đã chứng biết, xin đại chúng hứa khả cho”.
Khi ấy, Luật sư lại phải dùng luật để tra hỏi Tỳ-kheo này. Lại dạy tụng
giới qua tám trăm lần. Sau đó mới cho như Tỳ-kheo thanh tịnh không có sai
khác.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Nếu trong
bảy chúng có ai phạm giới khinh, quá hai đêm mà không sám hối, thân người
này hiện tại tuy hành thiền định nhưng rồi không đắc đạo. Nếu phạm trọng
giới, đọa đại địa ngục, ra khỏi địa ngục thọ thân súc sanh. Như vậy trọn
đủ luôn trong ba kiếp, sau đó làm người, tuy được thân người nhưng nghèo
cùng, mang bệnh hủi, bảy mươi bảy thân không thấy Phật, không thể nghe
pháp, không đủ các căn. Vì thế người trí nếu phạm giới Phật, tội
Ðột-kiết-la, phải sanh sợ hãi như bị đao chém, xấu hổ vô cùng, huống gì
trọng giới. Nếu người nào hay uống thuốc trì giới này, nên biết đây là
người trượng phu, nhẫn nhục, tàm quý tối thượng, không ai hơn được.
Bấy giờ Thế
Tôn nói kệ:
- Phá giới tâm
bất tịnh
Như chó hoang
chạy rong
Chốn chốn cầu
lợi dưỡng
Giết hại
vì tâm tham
Nên uống thuốc
tàm quý
Nhẫn nhục
làm áo mặc
Sám hối hoa
trang nghiêm
Dùng
hương thiện tâm ướp
Nhất tâm quán
tướng Phật
Trừ khổ
không sầu lo
Cũng nên niệm
pháp không
Tu tâm
quán bất tịnh
Ðó gọi là Như
Lai
Cam lồ
thuốc quán đảnh
Uống vào tâm
không sầu
Ðược đến
bờ Niết-bàn
Nên tu hành
như pháp
Phi pháp
chẳng nên tạo
Ðời nay hoặc
quá khứ
Người
hành pháp được độ
Thuận theo lời
Phật dạy
Trì giới,
hành Ðầu-đà
Thân tâm không
hạnh ác
Sớm đến
nơi giải thoát.
Khi ấy Thế Tôn
bảo Xá Lợi Phất:
- Ông khéo thọ
trì thuốc phạm giới này, cẩn thận chớ quên mất.
Bấy giờ Xá Lợi
Phất và A-Nan... nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
PHÁP MẬT
YẾU TRỊ BỆNH THIỀN
Hết quyển
thượng
**************
Quyển
Hạ
Pháp trị thích âm nhạc:
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Nếu bốn bộ chúng thích các âm nhạc, kệ xướng (hát)
không chán, do đó động phong, buông lung như ngựa, cũng như chó mùa thu,
giống như nai chúa Y-ni-lợi, mê muội ngu si, tâm giống như hồ nhão, nơi
nơi đều đắm trước, không thể kềm chế, phải mau trị gấp.
Pháp trị bệnh
ấy, trước hết tưởng một thiên nữ đoan chánh vô song, hai tay tự nhiên cầm
các nhạc khí phát ra vạn thứ âm thanh. Hành giả đã thấy thiên nữ này hơn
sắc bên ngoài trăm ức vạn lần, nghe âm thanh cõi trời, nhạc đời không sánh
bằng. Do đó thích nhìn sắc, nghe âm thanh, vì vậy nên dạy: Do nhìn người
nữ này mà sáu tình, các căn (hành giả) phát khởi cảnh giới. Vì sức sổ tức
nên thấy dễ mến, mắt sanh sáu rắn độc, từ con mắt đi ra, vào trong lỗ tai;
lại thấy hai con trùng hình dáng như cú mèo, kêu lớn tiếng khó nghe, phá
đầu xuất não, giành lấy để ăn. Ngoài bốn căn thì thấy mèo, chuột, thấy chó
giã can giành nhau ăn. Do đó thấy sắc của tất cả người nữ, ba mươi sáu vật
bày ra sự nhơ nhớp. Loài giun trong tử tàng là anh lạc của người nữ, thấy
người nữ cầm các nhạc khí có phân vận hành ở trong. Các trùng làm trống
khua động, làm giã can kêu, nói việc yêu quái không thể lắng nghe. Giống
như tiếng khóc của La-sát, vậy nên nhàm chán, đến chỗ người trí nói việc
tạo nghiệp ác bất thiện trước đó, thành tâm sám hối. Người trí nên dạy
quán vô thường.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Ông khéo thọ
trì pháp trị thích âm nhạc này, cẩn thận chớ quên.
Khi ấy Xá Lợi
Phất và A-Nan... nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị
thích ca tụng khen ngợi:
Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Hành giả nào thích làm kệ tụng, dùng âm thanh hay để tán thán,
giống như gió lay lá cây Sa-la phát ra âm thanh hòa nhã, tiếng như phạm
âm, làm vui tai người, tạo từ ngữ vừa ý khiến cho người vui. Do ảnh hưởng
của gió (phong đại) nên cống cao kiêu mạn, tâm như cỏ loạn theo gió phiền
não, chốn chốn không yên, phất cờ kiêu mạn, đánh trống tự đại, thổi động
các mạch, do đó phát cuồng, như khỉ vượn cuồng si hái bẻ hoa quả, tâm
không tạm dừng, không thể đếm hơi thở, nên gấp trị ngay.
Pháp trị như
vầy: Trước nên tưởng mười bảy lá cờ báu trên cao, có Càn-thát-bà ở ngay
giữa cờ, thân như ngọc trắng, thân động, đọc kệ. Lỗ chân lông trong thân
hiện ra hoa sen lớn, trăm ngàn Tỳ-kheo trên hoa sen, vạn thứ âm thanh vượt
cách thân mình trăm ngàn vạn lần. Nhờ đó mà sự kiêu mạn dần dần chấm dứt.
Bậc trí nên dạy cho hành giả quán kỹ cờ đoan nghiêm, thấy cờ đoan nghiêm,
gương pha-lê sáng, các Tỳ-kheo... nương vào tiếng kiêu mạn mà tâm bất tịnh
ấy hóa làm La-sát phát ra tiếng thô ác, lửa từ miệng hiện ra. Lại có
Dạ-xoa từ bốn phương đến, kéo lưỡi lấy tim đặt trên ngọn cờ, tâm bị giao
động, khóc la kêu gào như voi say rống. Hoặc nói tiếng nhỏ như Tỳ-xá-xà
ngâm vịnh. Nhờ đó mới xem các âm thanh hay, như tiếng người kêu tên cha mẹ
mình mà mắng chửi vô đạo... do đó mà nhàm chán, tai không thích nghe, sanh
tưởng yểm ly. Người trí nên dạy quán tám khổ. Quán tám khổ như đã nói.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Ông khéo ghi
nhận pháp trị ca tụng khen ngợi, cẩn thận chớ quên mất.
Khi ấy, Xá Lợi
Phất và A-Nan... nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị
thủy đại cường thịnh:
Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Bốn chúng nào vào chánh định thủy, khắp thân thể nước chảy ra,
không thấy thân tâm, giống như biển cả. Khi ra khỏi định, ăn uống không
ngon, bệnh tâm nhiệt thấp, mạch nước tăng động, bệnh nhiệt hạ không (bớt),
nên gấp trị ngay.
Pháp trị bệnh
ấy: Tưởng một con chim sí-điểu, Tỳ-kheo ngồi trên, dạo chơi trên biển cả
không có sợ hãi. Các rồng, La-sát đều kinh sợ chạy, chim bắt rồng ăn, rồng
sợ kinh khủng, hút hết nước, hóa thành bốn con rắn. Vua kim-sí-điểu miệng
ngậm bốn con rắn. Tỳ-kheo ngồi trên, tìm nước không được, mắt vua
kim-sí-điểu phát ra lửa đốt rắn, các rắn kinh sợ, giống như người ảo thuật
hóa ra người huyễn rồi ẩn mất không hiện, vào thân Tỳ-kheo, từ đó xuất
định. Nên uống thuốc đoạn hạ ở đời để trị: tưởng hai hạt châu lửa, một ở
dạ dày phế quản để ấn các mạch, một ở phẩn môn, hình dáng giống như hạt đá
nhiệt. Tưởng thần núi Tuyết tên Uất-đa-già, thân cao sáu trượng, trắng như
ngọc kha tuyết, cầm vị thuốc hương tên là Sa-ha-na-già trao cho hành giả.
Khi uống thuốc này, trước phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Uống thuốc một
lần thì bệnh bốn trăm lẻ bốn mạch trọn đời không còn tái phát, huống chi
là giảm bệnh. Nếu khiến cho vị thần ấy sớm đến thì phải tắm rửa sạch sẽ,
không ăn ngũ vị tân, không uống rượu, không ăn thịt, ở chỗ yên tịnh, nhất
tâm đếm hơi thở, gọi tên vị thần, nhớ nghĩ tượng thần kia từ một ngày đến
bảy ngày. Ðại thần núi Tuyết cùng mười hai vị thần Bạch quang... đến trước
hành giả, trước hết thuyết pháp, sau trao cho (hành giả) thuốc. Lại dạy
mười hai pháp thiền. Các vị thần kia đều là đại Bồ-tát ngũ địa. Nếu hành
giả bệnh thì trước phải niệm vị thần Uất-đa-la-già kia, sau đó niệm vị
thần dõng kiện, thần cường lực, thần hùng mạnh, thần Trí hạnh, thần Tự
tại, thần Thiện Tý, thần Cưu-ma-la, thần Nan thắng, thần Bạch quang minh,
thần Bạch quang minh vương, thần Dược vương... mười hai vị thần Bạch
quang. Ðã được thấy rồi, đối với mỗi vị thần đều hỏi pháp môn khác nhau.
Các vị thần kia... trước phải cho hành giả được thấy Bồ-tát Di Lặc. Ở chỗ
Bồ-tát Di Lặc thấy Văn Thù Sư Lợi... tất cả các Bồ-tát và mười phương
Phật. Nếu người ấy ở quá khứ không phá bốn trọng giới, hiện tại không phá
bốn trọng giới, khi thấy các vị thần thì thấy liền được dấu đạo. Nếu hành
giả phạm giới thì các thần vương dạy sám hối đủ một ngàn ngày, rồi sau đó
được thấy Bồ-tát Di-Lặc và Văn Thù Sư Lợi, các đại sĩ... Sau được dấu đạo.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Nếu có hành
giả vì thủy (đại) đi xuống động bốn trăm lẻ bốn mạch nên bệnh, muốn được
trị thì phải uống Sa-ha... các thuốc trừ bệnh, không còn hoạn nạn, diệt
hết biển nghiệp chướng ngại, chóng thấy dấu đạo. Vì thế các ông khéo thọ
trì, cẩn thận chớ quên mất.
Khi ấy A-Nan,
Xá Lợi Phất... nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị đau đầu, đau mắt, điếc tai do hỏa đại:
Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Hành giả nào nhập vào hỏa tam muội, từng đốt từng đốt bị lửa
thiêu, ruột già ruột non cùng lúc bốc cháy, thiêu đốt mạch lửa. Khi xuống
định, đầu hơi đau, các mạch co rút, mắt đỏ, tai ù, do đó phát bệnh, nên
gấp trị bệnh.
Pháp trị bệnh
ấy: trước hết tưởng một cái vò bằng lưu ly đầy nước đủ màu, sanh hoa tạp
bảo, trên mỗi hoa có trăm ngàn hóa Phật, các hóa Bồ-tát đều phóng bạch
hào, chiếu các ánh sáng lửa, khiến cho các ánh sáng ấy hóa thành rồng
vàng. Hành giả thấy rồi, liền sanh hoan hỷ, khởi niệm tưởng vò, đặt lửa ở
dưới, đài hoa ở trên. Hành giả đến chỗ Phật rồi, dùng tay vin vò, tay liền
mát mẽ. Vì thế nhấc thân đến gần bên vò, đảnh lễ Phật, liền thấy hóa Phật
phóng ánh sáng giữa chặn mày, mưa nước cam lồ, tưới khắp các đốt, nơi nào
được giọt cam lồ tưới liền hóa thành lưu ly. Ruột già, ruột non nhờ nước
cam lồ rưới đầy nên lửa đỏ tắt dần, sanh các hoa báu, hoa báu có ánh sáng
màu hồng và trắng. Lại nên tưởng một vị Ma-hê-thủ-la cỡi trâu màu vàng
ròng, cầm bình nước báu, đến trước hành giả, trong nước có các vị thuốc,
thuốc tên phá độc, cho hành giả uống. Lại cầm một hạt châu tên là
Chiên-đà-la-ma-ni (đời Tống gọi là Nguyệt Tinh) để trên đảnh đầu, chảy ra
các thứ thuốc, nhỏ vào tai mắt mũi, chỉ thấy một lần, liền được lành bệnh.
Ma-hê-thủ-la là đại Bồ-tát, thường du hý trong tam muội Thủ-lăng-nghiêm. Ở
giữa chặn mày liền phóng đại quang minh, hóa thành tượng Phật, năm trăm vị
tiên hầu quanh Thế Tôn, vì hành giả nói pháp cam lồ trị bệnh,bảo Xá Lợi
Phất: “Ông khéo thọ trì cẩn thận, chớ quân mất”. Bấy giờ Xá Lợi Phất
và A-Nan... nghe lời Phật dạy hoan hỷ
phụng hành.
Pháp trị
bệnh nhập tam muội đất thấy các việc không lành sợ hãi mất tâm:
Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Hành giả nào nhập tam muội đất, thấy bốn hướng như mặt núi
đen giữa các núi uy nghiêm, có vô biên Cưu-bàn-trà ngồi xoạc chân trên đất
cứng, hiện hình xấu ác, thân có phần đoan nghiêm. Lại có năm núi, Dạ-xoa
giành nhau đến, tranh lấy núi ấy. Các Cưu-bàn-trà đau đớn sợ hãi, khẩn
thiết kêu tiếng ghê rợn, hướng đến hành giả. Lại thấy các quỷ đầu tóc rối
bời, cầm gậy sắt lớn, trên gậy có núi, đến chỗ hành giả. Lại thấy Dạ-xoa
vác núi múa. La-sát cầm cây đến chỗ Dạ-xoa, La-sát sân hận cùng Dạ-xoa
đánh nhau. Tỳ-xá-giá quỷ đầu đội núi đen, miệng ngậm xác cọp. Hành giả
thấy rồi, giật mình, lông tóc dựng đứng, do đó sợ hãi. La-sát hung hăng
cùng Dạ-xoa đánh nhau. La-sát đắc thắng, cắt đầu Dạ-xoa, chân tay
Tỳ-xá-giá dùng làm chuỗi anh lạc, thân Cưu-bàn-trà dùng làm tràng hoa, reo
hò múa máy trên đất. Răng chó bên trên hiện ra như nhành cây kiếm, trong
mắt có mưa đá, phát ra lửa sấm sét. Dạ-xoa lại thắng, nắm La-sát lạn da
mặt, khoét lấy nữ căn, chặt thân Cưu-bàn-trà, chân tay Tỳ-xá-giá dùng làm
tràng hoa, vòng qua tai cổ, múa máy trên đất, thân lắc lư kêu lớn tiếng,
rất ghê rợn, thật đáng sợ.
Lại thấy thần
bốn biển lớn được mẹ sanh ra đến Lầu Tỳ Mâu nằm ngữa trong nước biển, có
đến ngàn đầu, mỗi đầu hai ngàn tay chân, vuốt ve bốn phía thân, hiện ra nữ
căn sâu thẳm, rất đáng sợ, như núi huyết đồ, các sợi lông của nó rất gớm,
hình dáng như thân cổ thụ kiếm, trong sanh ra cây cổ thụ như rừng núi
kiếm, trăm ngàn vô lượng tai lừa, đầu trâu, miệng sư tử, chân ngựa, đuôi
chó sói, thân Cưu-bàn-trà, các quỷ như vậy... từ trong núi xuất hiện.
Lại thấy rồng
lớn trăm ngàn đầu, dài hàng mười do-tuần, từ trong núi hiện ra.
Thấy một con
quỷ giống như trăm con thú, dáng như sư tử, có một vạn chân, giữa móng
chân có vô số trăm ngàn rắn độc trong đó hiện ra.
Lại thấy ngạ
quỷ thân hình dài lớn mười ức do-tuần mữa độc và lửa, vác các núi, trong
đó hiện ra.
Lại thấy ngàn
chó sói nối đuôi nhau, thân thể quái lạ, răng như đá nhọn từ trong hiện
ra.
Lại thấy ngàn
hổ đuôi cũng có đầu, hợp với thân đi nghiêng, từ trong hiện ra.
Lại thấy Long
nữ trang sức bằng anh lạc, vẻ đẹp hiếm thấy, từ trong đó đi ra, bị Dạ-xoa
bắt ăn; chồn, mèo, chuột, chuột nhắt, khỉ, vượn, chó hoang, hồ ly, quỷ mị,
ác quỷ, tất cả ác thú đều từ trong đó hiện ra.
Ðịa ngục A-tỳ,
thần núi Yên Tiêu, mười tám vị thần địa ngục, chín ức ngưu Ðầu A Bàn, tám
mươi ức ngạ quỷ, năm trăm ức giun trùng, ngàn ức giòi nhà xí, các tướng
trạng biến hóa như vậy...
Quỷ thần xấu
ác, hoặc cầm núi đao, hoặc nắm cổ thụ kiếm, hoặc dời núi Tu-Di, hoặc làm
chấn động núi Thiết Vi, giống như núi Càn đà...
Hành giả tự
thấy thân đầy địa đại, ba trăm ba mươi sáu đốt đều như núi cao đến cõi Vô
sắc, trong rốn chảy ra nước. Rắn độc bốn đại đùa giỡn trong nước, trong
miệng phóng lửa, mười ác La-sát chạy ở trong lửa, trong tai thổi ra gió,
phẩn môn gió đi ra, thổi động các núi. Tất cả quỷ thần đến đều sân hận,
chảy nước mắt. Do đó hành giả kinh sợ, vui mừng phát bệnh cuồng loạn. Nếu
thấy việc này nên gấp trị ngay.
Pháp trị như
vầy: Trước hết tưởng một mặt trời cùng với Nhật thiên tử trong cung điện
bốn báu, đánh trăm ngàn kỹ nhạc ở trên núi đen chiếu sáng núi đen, làm cho
dần dần sáng bừng. Tưởng một mặt trời đã thành, lại tưởng hai mặt trời.
Tưởng được hai mặt trời rồi, lại nên tự quán xương trắng của thân mình, ba
trăm ba mươi sáu đốt trắng như núi tuyết, mặt trời chiếu núi tuyết.
Lại tưởng trên
đảnh có Nguyệt thiên tử với cung điện bằng bốn thứ báu, trăm ngàn quyến
thuộc cầm châu mặt trăng để trên đảnh đầu hành giả. Tưởng này thành rồi,
tưởng hòn núi thứ ba.
Lại có một mặt
trời như trên không khác. Ðã thấy mặt trời này, lại tưởng xương trên đảnh
trắng như núi tuyết. Bắt đầu y như trước.
Lại có một mặt
trăng, đã thấy mặt trăng rồi, lại tưởng trên hòn núi thứ tư có một mặt
trời chiếu sáng núi đen này.
Ðã thấy mặt
trời rồi, nên tưởng ba trăm ba mươi sáu đốt của thân mình như núi xương
trắng, các xương hướng đến nhau (bốn xương đối nhau), giữa mỗi mỗi xương
có một mặt trăng sáng, tay thiên tử cầm hai hạt châu giữ ở hai hướng. Như
vậy các đốt ở giữa mỗi xương đều ứng hợp với khoảnh khắc tim dừng trong
mười hơi thở ra vào. Quán kỹ khiến thấy rõ ràng, thấy mỗi mỗi đốt có hai
mươi tám vì sao sáng suốt rất đẹp, như bảy hạt châu quý báu.
Tưởng này
thành tựu, lại tưởng một vua chim sí-điểu vàng đầu đội châu ma-ni, nắm bắt
bốn con rắn và sáu con rồng. Rắn sợ khiếp, rồng chạy... kinh động một lúc,
trạng thái như tối đen, đều do quả báo đời trước phá giới, cần phải sám
hối giới cấm nghiêm tịnh. Nhờ giới cấm tịnh, ánh sáng mặt trời mặt trăng
sáng rỡ, sáng tỏ gấp bội. Nếu tâm nghĩ ác, miệng nói lời ác phạm
Ðột-kiết-la thì trên châu ma-ni sẽ mưa đất đen, mặt trời mặt trăng dính
bụi, tinh tú không vận hành. Vua A-tu-la chín trăm chín mươi chín tay,
ngàn đầu, cùng lúc xuất hiện, che khuất mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Ðây
gọi là thối, vì dao ác tâm, lửa ác khẩu, bị giặc phá giới cướp đoạt. Nếu
muốn uống thuốc thắng cam lồ này, trước phải trì giới, các oai nghi thanh
tịnh, sám hối nghiệp chướng, tội ác bất thiện.
Lại phải buộc
tâm buộc ý ngồi ngay ngắn một nơi, đếm hơi thở, bế khí, quán ba trăm ba
mươi sáu đốt y như trước, làm cho một đốt mỗi xương hướng về nhau, quyến
thuộc mặt trăng, tinh tú... cũng như trên đã nói, tâm trở nên sáng suốt,
nhạy bén, thấy ở giữa mỗi đốt, ánh sáng của mặt trăng như áo, tinh tú như
sợi tơ, may liền lại với nhau; thấy bốn mặt trời hiện ra, bốn biển, nước
lớn ba phần giảm xuống còn hai phần; thấy năm mặt trời xuất hiện, núi Tu
Di chảy tan hết, biển lớn khô cạn; thấy sáu mặt trời hiện, tưởng các núi
này dần dần chảy tan hết; thấy bảy mặt trời xuất hiện, các hang động trong
đất bốc cháy. Các quỷ La-sát bay đứng trong không trung, cho đến cõi Dục,
cờ lửa theo sau. Họ lại đến cõi Sắc, lửa cũng theo đến. Sắp đến cõi Vô
sắc, tay chân cháy khét, còn lưu lại rơi ở trong lửa, tiếng rống rất đáng
sợ, chấn động cõi đất (khi nhập vào tam muội này, đại địa chấn động đôi
chút như bánh xe quay), phải mau giữ tâm tưởng ba trăm ba mươi sáu đốt,
như núi kim cương, hình dáng rất đẹp, hơn núi Tu-di; đất nước gió lửa
không thể làm lay động; chỉ thấy bốn con rắn ngậm châu ma-ni ở giữa núi
xương.
Khi ấy, trước
hết phải tưởng ảnh Phật, thấy ranh giới của kim cương, cờ kim cang đoan
nghiêm, có gương ma-ni, bảy vị Phật ở quá khứ ảnh hiện trong gương. Lại
phải quán lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Tỳ Bà Thi, lông trắng giữa
chặn mày của đức Phật Thi Khí, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Ðề
Xá, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Câu Lưu Tôn, lông trắng giữa
chặn mày của đức Phật Na Hàm Mâu Ni, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật
Ca Diếp, lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thấy lông
trắng giữa chặn mày của bảy vị Phật, sắc như pha-lê. Nước rất mát mẻ, tẩy
rửa các đốt xương, ba trăm ba mươi sáu đốt. Nước của bạch hào tẩy rửa sáng
sủa, cực trắng, màu sắc tinh khiết, tươi đẹp vi diệu, như gương pha-lê,
không có vật gì có thể ví dụ, nhờ đó lại thấy năm bánh xe bằng kim cương,
ở trên cờ bằng bảy báu đoan nghiêm từ phương dưới hiện lên, quay vòng tròn
trên không trung, nói nghĩa bốn đế. Tuy thấy nghe việc này nhưng phải nhất
tâm quán núi xương trắng của thân mình, liền thấy Phật Thích Ca Mâu Ni
dùng nước trong lọ tắm, xối trên đảnh đầu, sáu đức Phật kia cũng vậy.
Khi ấy đức
Phật Thích Ca Mâu Ni nói: “Này pháp tử! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
khổ, không, vô thường, vô ngã, ngươi nên quán kỹ”.
Lại giảng rộng
về pháp không, vô tướng, vô tác, vô nguyện, nói thân không tịch, bốn đại
vô chủ, năm ấm không nhà, rốt ráo tịch diệt, đồng với hư không. Nhờ đó
liền ngộ vô thường hủy hoại thế gian. Quán bốn chân đế, trong khoảnh khắc
năm hơi thở ra vào, phá hết hai mươi ức kiết sử thiêu đốt, thành
Tu-đà-hoàn. Trong khoảnh khắc mười hơi thở ra vào, thoát khỏi các dòng
chảy của dục, thành Tư-đà-hàm. Trong khoảnh khắc mười hơi thở ra vào, đoạn
các độn sử, kiết sử của Dục giới, Sắc giới, các kiết sử căn bản, không còn
trở lại Dục giới, thành A-na-hàm. Ở khoảnh khắc trong mười hơi thở du hý
trong pháp không, tâm không còn bị buộc ràng ngăn ngại, tương ứng ở trong
ba mươi bốn tâm, giải thoát mười cội rễ (thập sử), không diệt không hoại,
xô ngã chín mươi tám núi kiết sử. Tướng đại đại dõng mãnh, cờ pháp tuệ
sáng, từ bốn phương đến, tòa kim cương báu từ phương dưới hiện lên, cùng
nhau hợp lại, rộng nói pháp không, năm bánh xe kim cương trụ bên gối phía
trái, tự nhiên giảng thuyết rộng chín vô ngại, tám pháp giải thoát. Thanh
văn quá khứ đều vào tam muội Tỳ-lưu-ly, đứng ở trước mặt hành giả. Phật
Thích Ca Mâu Ni vì hành giả giảng thuyết rộng về nghĩa vi diệu của cảnh
giới kim cang thí định. Ở trong sự tĩnh lặng đó, không còn thấy thân tâm,
nhập vào kim cang tam muội, từ kim cang tam muội thức dậy, núi kiết sử tan
rã, gốc phiền não dứt sạch, sông vô minh khô cạn, diệt nô lệ già chết, đối
với vấn đề sanh vĩnh viễn chấm dứt. Phạm hạnh đã lập, như luyện vàng
nguyên chất, không thọ các dục, việc làm đã hoàn tất. Ðó gọi là Ðại
A-la-hán. Nếu người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mới thấy ánh sáng tướng lông
trắng giữa của bảy vị Phật, thì mỗi mỗi ánh quang minh phân ra thành mười
nhánh, hóa ra mười hoa báu, cây báu, đài báu xếp thành hàng trên không.
Lúc ấy mười phương Phật cũng phóng ánh sáng như trên đã nói, rửa giữa các
đốt xương, ở trong mỗi ánh sáng tướng bạch hào của Phật nói mười tám thứ
pháp môn từ tâm, nói mười tám thứ pháp môn đại bi, nói mười tám thứ pháp
môn đại hỷ, nói mười tám thứ pháp môn đại xả, dần dần tăng trưởng, dạy rồi
tu tập bốn tâm vô lượng. Ðầy đủ bốn tâm vô lượng rồi, Phật vì hành giả
thuyết mười thứ tâm sáng đầy đủ. Tâm sáng rồi dạy rằng: sắc tức là không,
chẳng phải sắc diệt mới không. Ðã quán không rồi, dạy sáu pháp Bồ-tát.
Hành sáu pháp rồi, tu hành sáu niệm, niệm pháp thân Phật. Niệm pháp thân
Phật rồi, phát khởi tâm hồi hướng. Tâm hồi hướng thành tựu rồi, lập bốn
hoằng thệ nguyện, không bỏ chúng sanh. Bốn nguyện thành rồi, đủ giới
Bồ-tát. Thành tựu Bồ-tát giới rồi, học tu tương tợ bố thí độ. Thành tựu
(Ðàn-ba-la-mật) bố thí độ rồi, tu học tương tợ mười ba-la-mật. Tưởng này
thành rồi, quán trong không ngoài không, thấy trăm ngàn vô lượng chư Phật
ở ngay trước mặt, lấy nước rưới trên đầu, dùng lụa (dày) quấn lên đầu,
thuyết pháp “không” cho (hành giả). Do đó mà ngộ tâm không, vào địa vị
Bồ-tát. Ðây gọi là Tánh địa, cảnh giới ban đầu của Bồ-tát. Ðối với pháp
này hay sanh tăng thượng mạn, cần phải biết điều này. Ðây chỉ là là tướng
cảnh giới ban đầu của tâm Bồ-đề.
Phật bảo Xá
Lợi Phất:
- Ðây gọi là
pháp trị địa tam muội, diệt tăng thượng mạn, mẹ vô minh, tướng đáng sợ của
tam độc. Ông khéo thọ trì cẩn thận, chớ quên mất.
Khi ấy, Xá Lợi
Phất và A-Nan... nghe lời Phật nói hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị
phong đại:
Lại nữa, Xá
Lợi Phất! Hành giả nào nhập phong tam muội, tự thấy chín lỗ ở trong thân
mình, giống như khe hang lớn, phát ra gió năm màu, lại thấy ba trăm ba
mươi sáu đốt của thân mình trắng như núi tuyết, từng đốt xương gió hiện ra
thây quỷ dựng đứng. Các thây quỷ tay cầm gậy sắt, lấy ngàn đầu lâu làm
chuỗi anh lạc, cùng với chín mươi tám loài long quỷ đến chỗ hành giả. Hành
giả thấy vậy tâm kinh sợ, rỡn tóc gáy. Do đó phát cuồng, hoặc bị bệnh hủi
trắng, nên gấp trị ngay.
Pháp trị bệnh
ấy: Trước hết nên quán núi Tuyết, núi Hương có bốn vị đại tiên, cả thảy
đều là bậc đại Bồ-tát, tưởng thân các vị tiên ấy bằng vàng ròng, cao mười
sáu trượng, một tay cầm hoa, một tay cầm bánh xe kim cương, miệng ngậm
thuốc hương, hộ giá hành giả, không cho gió phát khởi. Tiên nhơn cầm hoa
chú vào nước, hiện ra rồng, hút hết các gió, thân rồng phình lớn, nằm ngủ
trên đất mãi không thể thức dậy. Nên quán rồng này giống như cây chuối, bẹ
chuối bọc nhau không thể thở mạnh. Khi ấy Thế Tôn nói thần chú:
“Nam mô
Phật-đà, nam mô Ðạt-ma, nam mô Tăng-già. Nam mô Ma ha lê sư tỳ xà la xà,
ái đốt đà đạt đà, sa mãn đà, bạt xà la sí đà la, quật trà thệ trà, giá lợi
giá lợi, ma ha giá lợi tra, ma lợi tra, ma lặc sí tất chẩm, bính diêm bính
a diêm bính, lợi cứu cúc cúc, sí tát bà đà la ni, sí a phiến đề ma câu, lê
ứng nghệ, tra di tra di, tra ma tra ma, bà họa ha”.
Khi ấy, Thế
Tôn nói thần chú này rồi, bảo Xá Lợi Phất:
- Như thần chú
này, vô lượng chư Phật quá khứ đã nói; hiện tại Ta cũng nói thần chú này;
vị lai Di Lặc, Bồ-tát Hiền kiếp cũng sẽ tuyên nói công đức của thần chú
này; như trời Tự-tại, có thể khiến cho đời sau trong năm trăm năm các
Tỳ-kheo ác được tâm ý thanh tịnh, điều hòa, khéo trị bốn đại tăng giảm,
cũng trị bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh trong tâm do bốn trăm lẻ bốn mạch phát
sanh cảnh giới, chín mươi tám sử chủng tử tánh dục, cũng trị nghiệp chướng
phạm giới và các ác, vĩnh viễn đoạn tận không còn sót lại. Ðây gọi là
Ðà-la-ni khéo trị bảy mươi hai loại bệnh sầu não. Cũng gọi là Ðà-la-ni nhổ
cội gốc vô minh năm ấm. Cũng gọi là pháp hiện tại thấy tất cả chư Phật và
các Thanh văn giảng cho chơn pháp phá các kiết sử.
Khi ấy Thế Tôn
nói kệ:
- Tánh pháp
không chỗ nương
Quán
không cũng như vậy
Nếu hay quán
bốn đại
Không bị
sử sát hại
Uống thuốc
hành thiền định
Tụng
Ðà-la-ni này
Nhất tâm niệm
chư Phật
Kiết sử
mãi không sanh
Biển phiền não
khô hết
Sông ân
ái cũng lìa
Nhân các dục
không có
Tự tại là
giải thoát.
Không họa, tâm
tĩnh lặng
Du hý sáu
thần thông
Cũng đem
Ðà-la-ni Truyền dạy cho người khác.
Khi ấy Thế Tôn
nói kệ này rồi, bảo Xá Lợi Phất:
- Ông nay nên
biết, sau khi Ta Niết-bàn, trong đời vị lai nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được nghe pháp thậm thâm mật yếu tịnh Thi-la (giới)
này và phương thuốc trị các bệnh hành thiền định với Ðà-la-ni quang minh
thắng tràng này, thì nên biết người này không chỉ ở một đức Phật, hai đức
Phật, ba, bốn, năm đức Phật trồng các căn lành, mà từ lâu đã ở chỗ vô
lượng trăm ngàn Phật tu tập ba thứ tâm Bồ-đề, nay mới được nghe pháp mật
yếu sâu xa này, như lời dạy mà tu hành. Nên biết, người này gần đến thân
tối hậu, giống như nước chảy mau, mau chóng đắc bốn quả Sa-môn và hạnh
Bồ-tát.
Khi Phật nói
lời ấy, năm trăm Thích tử tinh tấn gấp bội, đủ sáu thần thông. Trong thành
Xá Vệ, đời trước, một ngàn vị Thủ-đà-la (nông dân) hành thiền phát cuồng,
nghe lời Phật dạy, liền sanh vui mừng, đắc Tu-đà-hoàn, tám mươi ức chư
thiên trị bệnh bốn đại, thân tâm không còn hoạn nạn, ngay lúc ấy liền phát
tâm Vô thượng đạo, khắp nơi mưa thiên hoa rải trên đức Phật và các đại
chúng. Khi ấy trong hội, trời rồng... tám bộ chúng nghe lời Phật dạy, khác
miệng cùng lời nói như vầy:
- Như Lai xuất
hiện ở đời chính là trị bệnh cuồng loạn, tàn ác, tà kiến của La-sát và con
người, làm cho họ được bản tâm. Như tràng hoa đẹp, rất đáng ưa thích. Hay
thay, Thế Tôn như hoa Ưu-đàm, đúng thời mới hiện một lần.
Khi ấy, chúng
trong đại hội dùng kệ tán thán:
- Thái tử dòng
mặt trời
Dòng dõi
mần Cam giá
Cháu ngoại
Tinh Quang Nguyệt
Con Ma-Da
phu nhân
Sanh ra đi bảy
bước
Chân bước
động đại thiên
Mười phương
các thần hiện
Ba mươi
hai tướng lành
Bỏ nước như
nước bọt
Ngồi ở
Tất-bát-la (dưới cây Bồ-đề)
Ðạo tràng Kim
cang thắng
Hàng phục
vạn ức ma
Ðược thành đạo
Bồ-đề
Mặt sáng
như trăng rằm
Tâm dơ dứt
vĩnh viễn
Con nay
nhất tâm lễ
Tối thắng
trong dòng Thích
Bậc từ bi
bậc nhất
Hay khiến các
chúng sanh
Thoát hẳn
khổ sanh tử.
Bấy giờ, Thế
Tôn nghe bốn chúng nói kệ này rồi, lần nữa ân cần dùng tay kim sắc xoa
trên đảnh Xá Lợi Phất và A-Nan phó chúc việc này. Lúc ấy Xá Lợi Phất và
A-Nan... cùng với các đại chúng nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị
người mới học tọa thiền mắc phải quỷ mị, các thứ bất an, không thể đắc
định:
(Tôn giả
A-Nan hỏi)
Tôi nghe như
vầy:
Một thời đức
Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Ðộc, thuộc nước Xá Vệ, chỗ cư ngụ của quỷ
Na-lợi-lâu, giảng đường do Mạt Lợi phu nhân tạo dựng, La Tuần Du... một
ngàn vị con của hàng trưởng giả mới xuất gia mời tôn giả A-Nan, Ma ha Ca
Diếp, Xá Lợi Phất... làm Hòa thượng. Ma ha Ca Diếp dạy một ngàn Tỳ-kheo
niệm sổ tức nơi thanh vắng, mắc phải quỷ mị, thấy một quỷ thần mặt như đàn
Tỳ-bà, bốn mắt, hai miệng, nghênh mặt, lắc lư, phóng ánh sáng, dùng tay
đánh dưới hai nách và các chỗ khác trong thân (hành giả), miệng hát rằng:
“phụ dịch phụ dịch” như bánh xe lửa quay, giống như tia sáng điện, chợt
sanh, chợt diệt, làm cho tâm hành giả không an. Nếu thấy điều này nên gấp
trị ngay.
Pháp trị bệnh
ấy: Dạy hành giả này khi “phụ dịch” đến, nhất tâm nhắm mắt mắng thầm, nói
như vầy: “Ta đã biết ngươi, biết ngươi ở trong Diêm Phù Ðề này, ăn lửa,
ngửi hương (mùi thơm) trộm lạp-kiết-chỉ. Ngươi làm việc tà kiến, phá tụ
giới cho là vui. Ta nay trì giới, vĩnh viễn không sợ ngươi”. Nếu người
xuất gia, nên tụng bài tựa của giới. Nếu người tại gia thì nên tụng tam
quy ngũ giới, bát giới, quỷ liền khúm núm bỏ đi.
Khi ấy A-Nan
nghe lời này rồi, bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn, nay Tỳ-kheo con của trưởng giả này nhờ Thế Tôn dạy trị quỷ phụ dịch
mà thoát khỏi các ác, không bị quỷ mị trói buộc. Tỳ-kheo đời sau, sau khi
Phật Niết-bàn, trải qua một ngàn năm rồi, muốn dạy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tu sổ tức nơi thanh vắng, niệm định An-ban, nếu các
quỷ thần làm loạn đạo, hóa ra hình chuột, hoặc đen hoặc đỏ, nắm tâm hành
giả, cào chân hành giả, hai tay, hai tai, không chỗ nào mà không đụng đến,
hoặc làm tiếng chim kêu, hoặc làm tiếng quỷ rên, hoặc lại trộm lời nói,
hoặc có Hồ ly tinh mị hóa hình người phụ nữ trong sạch, trang nghiêm thân
mình, xoa ấn thân cho hành giả được điều hòa, nói việc phi pháp. Hoặc hiện
làm chó sủa tru vô độ, hoặc làm giống chim hung tợn, trăm loại giống chim
kêu các thứ tiếng, chiếm lời gọi lớn, âm thanh không đồng, hoặc hiện làm
trẻ nhỏ, trăm ngàn hành trạng, muôn sai vạn biệt, tạo các thứ âm thanh...
đến chỗ hành giả. Hoặc (hành giả) thấy rận, ruồi, bọ chét, rắn hổ mang,
hoặc vào trong tai như ong chúa kêu, hoặc vào trong mắt như cát rơi thẳng
vào, hoặc chạm vào tim, làm các việc điên loạn, do đó phát cuồng, bỏ nơi
thanh vắng, tạo hạnh phóng dật... Phải trị như thế nào?
Phật bảo
A-Nan:
- Lắng nghe,
lắng nghe! Khéo mà suy tư việc ấy. Ta sẽ giảng giải cho ông. Nếu trong bốn
chúng mắc phải nạn quỷ này, ông nên thuyết pháp trị quỷ. Quỷ phụ dịch này
có sáu mươi ba tên. Ở thời quá khứ, Phật Ca Na Hàm Mâu Ni có một Tỳ-kheo
sắp đến Tu-đà-hoàn, do vì tà mạn nên bị Tăng đuổi, sân hận nên chết, tự
thề làm quỷ cho đến ngày nay, làm não loạn bốn chúng, thọ mạng một kiếp,
kiếp hết mạng chung, rơi vào ngục A-tỳ. Các ông ngày nay nên biết tên gọi
(của họ), nhất tâm buộc niệm, chớ để họ làm loạn động.
Khi ấy Thế Tôn
liền nói:
- Phụ dịch là
ác Dạ xoa, cũng gọi là mộng quỷ. Khi mộng thấy phụ dịch đến liền thất
tinh, nên sanh tâm sám hối: “Do nhân duyên ác đời quá khứ nên ta mới gặp
ác quỷ hại và giặc phá giới này. Ta nay cầm roi tâm thúc liễm các tình,
không cho phóng dật. Như quỷ thần này khi trụ trên không, gọi là quỷ hư
không, ở trong giường mền gọi là phúc hành quỷ. Lại có ba tên: tên thứ
nhất là Thâm-sách, Ca phục khưu Na khưu nê chỉ lệ phúc khứu A ma lặc ca sa
họa ha, quỷ phương đạo, quỷ Ly mị, quỷ võng lượng (loài quỷ ở gỗ đá hóa
ra), quỷ ăn mủ, quỷ ăn đàm dãi, quỷ thần nước, quỷ thần lửa, quỷ thần núi,
quỷ thần vườn rừng, quỷ phụ nữ, quỷ nam tử, quỷ đồng nam, quỷ đồng nữ, quỷ
sát-lợi, quỷ bà-la-môn, quỷ Tỳ-xá, quỷ Thủ-đà-la, quỷ bộ hành, quỷ tảo
hành, quỷ cỡi xe, quỷ tai lừa, quỷ đầu cọp, quỷ tiếng mèo chuột, quỷ chim
tu hú, bồ câu, quỷ tiếng cú mèo, quỷ chim sĩ giao (loài chim có chân cao,
lông cánh nhọn như dao, màu xanh), quỷ chim giác chí (si). Hoặc lại hóa
làm tám bộ quỷ thần, quỷ hư mạo, quỷ tám sừng, quỷ chuột trắng, quỷ
Liên-hoa-sắc, quỷ hồ mị, quỷ mị, quỷ bách trùng tinh mị, quỷ tứ ác
Tỳ-xá-giá, quỷ Cưu-bàn-trà..., như vậy các loại quỷ thần xấu ác sáu mươi
ba loại, đó là tên của họ. Khi quỷ làm loạn, cần phải đếm hơi thở cho thật
yên ổn, cần phải chí tâm niệm bảy vị Phật ở quá khứ, niệm danh hiệu của
Phật ấy: “Nam mô Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Ðề Xá Phật, Câu Lưu Tôn
Phật, Ca na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật”. Niệm
danh hiệu bảy vị Phật rồi, cần phải trì tất cả âm thanh Ðà-la-ni.
Thế Tôn liền
đọc chú:
- A di, a
di ca lê xa toan địa lợi phục khí nậu. Sí du di tha du di, tha ma ha ca
lâu ni ca di đa la bồ đề tát đỏa.
Nếu người bị
loạn tâm do quỷ phụ dịch não loạn, hoặc tạo ra các loại cảnh giới hư huyễn
thì cần phải tụng Ðà-la-ni này và danh hiệu của bảy vị Phật với danh hiệu
của Bồ-tát Di-Lặc, nhất tâm sổ tức, trì tụng ba-la-đề-mộc-xoa (giới bổn)
một trăm biến thì các ác quỷ này đều được điều phục, không còn não loạn
bốn chúng hành đạo.
Phật bảo
A-Nan:
- Ông khéo giữ
gìn pháp tịnh thân khẩu ý, điều phục oai nghi, đuổi ác quỷ này, làm cho
bốn chúng đệ tử được lớn mạnh, khiến họ không khởi niệm loạn, được vào tam
muội, phải khéo thọ trì, cẩn thận, chớ quên mất.
Lúc ấy, tôn
giả A-Nan nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
- Lại nữa,
A-Nan! Hành giả nào khi tọa thiền, hai tai mắc bệnh, đốt xương khắp thân
đau nhức, hai lòng bàn tay ngứa, dưới hai chân đau, tâm hạ đông, gân
chuyển, mắt hoa, lãnh địa của tỳ quỷ, nó đến đoạt lời hoặc rải hương hoa,
làm các trò yêu quái, nên gấp trị ngay.
Pháp trị bệnh
ấy: Trước hết phải quán hai vị Bồ-tát Dược vương, Dược Thượng tay cầm bình
vàng đựng nước rưới thân (hành giả). Lại quán thần vương núi Tuyết cầm hoa
trắng đến chỗ hành giả, che trên đảnh hành giả. Ánh sáng trắng chảy vào
thấm nhuần chân lông và thân hành giả, liền được mềm dịu, không có tướng
khác. Sau đó, thấy Xà Bà đồng tử cầm hoa Tiên nhơn rải trên hành giả, ở
giữa mỗi hoa mưa các thứ thuốc vi diệu, thấm nhuần chân lông, các sự đau
ngứa ở lá lách, mọi thứ đau khổ, âm thanh lời nói thì thầm, các bậc quỷ
thần vĩnh viễn không còn. Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Dược Thượng thuyết
pháp đại thừa bình đẳng cho hành giả. Tất cả thần vương núi Hương, núi
Tuyết, Xà Bà đồng tử cũng tùy căn cơ hành giả mà thuyết giảng mười hai môn
thiền, tùy theo bệnh sắc thuốc, cho phương thuốc chú thuật, nhờ thế mà
được thấy tôn giả Tân Ðầu Lô và các La-hán, năm trăm Sa-di như Thuần Ðà
Bà... Lúc ấy đồng đến chỗ hành giả, mỗi vị Thanh văn đều giảng các phương
pháp trị bệnh, hoặc có La-hán nương lời Phật nói mà dạy cho Tỳ-kheo: khéo
ở trên đảnh dần dần rỗng không, cử động thân (thấy) hoàn toàn không, dùng
dầu tưới lên đảnh (hành giả). Phạm vương cầm thuốc, thuốc đó màu vàng ròng
rưới khắp thân hành giả. Bồ-tát Dược Vương thuyết các pháp. Ai phát tâm
Thanh văn thì theo lời dạy của Tân Ðầu Lô mà đắc Tu-đà-hoàn. Ai phát tâm
đại thừa thì nương lời dạy của hai vị Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng, liền
đắc tam muội chư Phật hiện tiền.
Phật bảo
A-Nan:
- Sau khi Phật
diệt độ, bốn chúng đệ tử nếu muốn tọa thiền, trước hết phải ngồi ngay
ngắn, yên tịnh bảy ngày, sau đó tu tâm sổ tức bảy ngày. Lại phải uống
thuốc trừ các bệnh này, trừ âm thanh. Ðịnh tâm giữ ý, tu tâm, tu thân,
điều hòa các đại, không để mất thời giờ, nhất tâm nhất ý, không phạm giới
khinh và oai nghi đối với việc trì giới, như bảo hộ mắt, như người bệnh
nặng theo lời thầy thuốc bảo. Hành giả cũng vậy, luôn luôn tăng tiến, đừng
để thối lui, như cứu lửa cháy đầu, thuận theo lời dạy của hiền thánh. Ðó
gọi là thuốc trị bệnh để ấm thân.
Phật bảo
A-Nan:
- Ông khéo thọ
trì cẩn thận, chớ quên mất.
Khi ấy, tôn
giả A-Nan nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
PHÁP MẬT
YẾU TRỊ BỆNH THIỀN
Hết quyển
hạ
(Trọn bộ)
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-1-2003