Kinh
ÐẠI THỪA GIÀ-DA SƠN-ÐÍNH
Dịch-giả Thích Tâm-Châu
Phật Lịch 2501
Chùa Từ Quang
584/1 Phan Thanh Giản
Saigon
---o0o---
KINH ÐẠI-THỪA GIÀ-DA SƠN-ÐÍNH
- Ðường,
Bồ-Ðề-Lưu-Chi dịch chữ Phạm ra chữ Hán.
- Thích Tâm-Châu
dịch chữ Hán ra chữ Việt.
Chính tôi được nghe: một thời kia đức Thế-Tôn ở nơi Tinh-xá, trên đỉnh núi
thuộc Già-Da-thành, cùng với một nghìn Ðại-Tỳ-Khưu-chúng, mà các vị trước
đây đều là dòng Phạm-Chí để tóc dài. Các vị đều là bậc A-La-Hán mọi
lậu-nghiệp đã hết, chỗ tạo-tác đã xong, xả được mọi gánh nặng, việc lợi
mình đã được, hết mọi sự ràng-buộc trong các cõi, chính-tri giải-thoái,
tâm được tự-tại, đến bờ Niết-bàn.
Lại cùng vô-lượng các vị Ðại-Bồ-Tát đều cùng tụ-hội nơi Phật.
Khi đức Thế-Tôn, thành ngôi Chính-Giác, không mấy
ngày, Ngài tịch-nhiên an-tọa, nhập nơi Chính-định, quán-sát pháp-giới,
khởi ý-niệm rằng: "Ta chứng được Bồ-đề rồi, được Thánh-trí-tuệ rồi, chỗ
nên làm đã làm xong, đã xả được mọi gánh nặng, đã ra ngoài đồng rộng
sinh-tử, đã xả vô-minh, được trí-minh rồi, đã nhổ được mũi tên độc, đã gạn
hết tâm khát-ái, đã chứng pháp-giới, đã đánh trống pháp, đã thổi loa pháp,
đã dựng pháp-tràng, đã lìa bỏ con mắt sinh-tử, nói rõ về con mắt pháp
(pháp-nhãn), đã đóng đường ác, mở mọi đường thiện, đã xả nơi phi-điền,
chỉ-bảo những phúc-điền.
"Ta nay xét kỹ những pháp như thế, pháp gì
hiện-chứng, đã chứng và sẽ chứng được? Pháp ấy là do thân chứng hay là do
tâm chứng?.
"Nếu là thân chứng Bồ-đề, thời thân là ngoan-độn,
không biết, không nghĩ, cũng như cỏ, cây, tường, vách, ngói, đá..., từ nơi
tứ-đại, cha mẹ sinh ra, là pháp vô-thượng bại-hoại, tan-diệt, phải nhờ mọi
duyên tắm giặt, cơm, áo, mà được tồn tại.
"Nếu là tâm chứng Bồ-đề, thời tâm như-huyễn-hóa, vô
tướng, vô hình, không chỗ y-cứ, không chỗ dung-nạp, lĩnh-thụ.
"Hơn nữa, Bồ-đề là tùy theo thế-gian, lập ra
danh-tự, chứ nó không có âm-hưởng, không có hình-sắc, không thành thực
(kết-quả), không có tướng-trạng, không lại, không đi, không ra, không vào,
qua cả ba cõi, không có xứ-sở nào; không thể trông thấy, nghe biết, không
thể nhớ nghĩ, xa nơi phan-duyên (dính-líu duyên trần), không phải là cảnh
hí-luận, không nơi vào (vô sở nhập) không văn-tự, không thể dao-động,
không thể an-lập và nó dứt hết tất cả đường ngôn-ngữ.
"Nói về hiện-chứng, đã chứng và sẽ chứng được
Bồ-Ðề, chỉ là danh-tự hư-vọng phân-biệt, chứ nó không sinh, không khởi,
không có thể-tính, không thể lấy, không thể nói, không thể ái-trước. Trong
ấy thực không có gì là đã thành Chính-Giác, hiện thành Chính-Giác và sẽ
thành Chính-Giác. Nếu vô chứng (không chứng), vô thành (không thành) được
như thế, mới được gọi là thành Chính-Giác. Tại sao? - Vì, Bồ-Ðề
(chính-giác) là lìa hết thảy tướng biến-động vậy."
Bấy giờ, Ðại-Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ biết được chỗ
Phật suy-nghĩ như thế, mới bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế-Tôn! Nếu tướng
Bồ-Ðề như thế, các thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân phát Bồ-Ðề-Tâm, nên trụ vào
đâu?" - Ðức Phật dạy: "Như tướng của Bồ-Ðề thế nào, thời nên trụ vào như
thế."
- Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ bạch Phật rằng: "Lạy đức
Thế-Tôn! Gì là tướng của Bồ-Ðề?"
- Ðức Phật dạy: "Văn-thù-sư-lÿ! Tướng của Bồ-Ðề cao
vượt ba cõi, tùy theo thế-tục mà có ra danh-tự, nhưng xa-lìa hết thảy
âm-thanh, ngôn-thuyết. Các Bồ-Tát phát tâm xu-hướng Bồ-Ðề, từ khi mới
phát-tâm, đã là "vô-sở-thú" (không có chỗ xu-hướng, vì Bồ-Ðề thuộc
không-tính). Thế nên, Văn-thù-sư-lÿ! Các thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nên
dùng cái tâm xa-lìa sự phát-tâm, xu-cầu mà trụ vào Bồ-Ðề. Văn-thù-sư-lÿ!
Nếu các Bồ-Tát phát-tâm, xu-hướng được vào nơi "vô-sở-thú", thế là
xu-hướng đạo Bồ-Ðề. Văn-thù-sư-lÿ! Xu-hướng về "vô-tự-tính" là xu-hướng
Bồ-Ðề; xu-hướng về "vô-xứ-sở" là xu-hướng Bồ-Ðề; xu-hướng về
"pháp-giới-tính", là xu-hướng Bồ-Ðề; xu-hướng về nơi của trong hết thảy
pháp không còn chỗ chấp-trước, là xu-hướng Bồ-Ðề; xu-hướng về "thực-tế
không sai-biệt", là xu-hướng Bồ-Ðề; xu-hướng về chỗ "như bóng trong gương,
như bóng trong ánh sáng, như mặt trăng dưới nước, như lửa trong mùa nóng"
là xu-hướng Bồ-Ðề!"
Lúc đó, trong đại-chúng có một vị Thiên-tử tên là
Tịnh-Nguyệt Uy-Quang bạch Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ rằng: "Thưa Ðại-Sĩ! Các Ðại
Bồ-Tát tu-tập hạnh gì và y vào đâu mà tu?" - Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ đáp:
"Thưa Thiên-tử! Các Ðại Bồ-Tát tu hạnh Ðại-bi, y nơi hết thảy chúng sinh
mà tu." - Thiên-tử Tịnh-Nguyệt lại hỏi:" Hạnh đại-bi của Bồ-Tát, y vào tâm
nào phát-khởi? "Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ:" hạnh đại-bi của Bồ-Tát y vào tâm
không siểm-nịnh, lừa-dối phát-khởi." - Thiên-tử Tịnh-Nguyệt lại hỏi: "Tâm
không siễm-nịnh, lừa-dối y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Tâm không
siểm-nịnh, lừa-dối y vào tâm bình-đẳng của hết thảy chúng-sinh phát-khởi."
- Hỏi: "Tâm bình-đẳng của hết thảy chúng-sinh y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp:
"Y nơi tâm nhập vào pháp-tính phi nhất (không phải là một), phi dị (không
phải khác) phát-khởi." Hỏi: "Tâm nhập vào pháp-tính phi nhất, phi dị ấy y
vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Y vào thâm-tín-tâm phát-khởi." - Hỏi:
"Thâm-tín-tâm y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Y vào tâm Bồ-Ðề phát-khởi." -
Hỏi: "Tâm Bồ-Ðề y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Y vào sáu pháp Ba-la-mật
phát-khởi." - Hỏi: "Sáu pháp Ba-la-mật y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Y nơi
phương-tiện-tuệ
phát-khởi." - Hỏi: "Phương-tiện-tuệ y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Y vào
nơi không buông-lung phát-khởi." - Hỏi: "Không buông-lung y vào đâu
phát-khởi?" - Ðáp: "Y vào ba hạnh thanh-tịnh (thân, khẩu, ý) phát-khởi." -
Hỏi: "Ba hạnh thanh-tịnh y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Y vào mười
thiện-nghiệp-đạo
phát-khởi." - Hỏi: "Mười thiện-nghiệp-đạo y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Y
vào giữ giới thanh-tịnh phát-khởi." - Hỏi: "Giữ giới thanh-tịnh y vào đâu
phát-khởi?" - Ðáp: "Y vào sự suy-nghĩ như chính-lý phát-khởi." - Hỏi:
"Suy-nghĩ như chính-lý y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Y vào tâm quán-sát
phát-khởi." - Hỏi: "Tâm quán-sát y vào đâu phát-khởi?" - Ðáp: "Từ chỗ
ức-trì (nhớ-nghĩ, gìn-giữ) không quên phát-khởi."
Khi ấy, Thiên-tử Tịnh-Nguyệt Uy-Quang lại hỏi
Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ: "Thưa Ðại-Sĩ! Các Bồ-Tát phát tâm Bồ-Ðề gồm có mấy
thứ nhân, quả mà được thành-tựu?" - Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ đáp: "Thưa
Thiên-tử! Các Bồ-Tát phát tâm Bồ-Ðề gồm có bốn thứ nhân quả mà được
thành-tựu. Bốn thứ nhân, quả ấy là gì?, - Một là, Sơ-phát-tâm. Hai là,
Giải, Hành, Trụ-phát-tâm. Ba là, Bất-thoái-chuyển phát-tâm. Bốn là,
Nhất-sinh bổ-xứ phát-tâm.
Nên biết rằng Sơ-phát-tâm là nhân của Giải, Hành, Trụ, Giải, Hành, Trụ
phát-tâm là nhân của Bất-thoái-chuyển, Bất-thoái-chuyển phát-tâm là nhân
của Nhất-sinh bổ-xứ, Nhất-sinh bổ-xứ là nhân của Nhất-thiết-trí."
Lại nữa, Thiên-tử! Nên biết sơ-phát-tâm như hạt
giống mới gieo xuống ruộng, giải, hành, trụ phát-tâm như mầm dần dần
tăng-trưởng, bất-thoái-chuyển phát-tâm như cành, lá, hoa, quả lần-lượt
sinh ra, nhất-sinh bổ-xứ phát-tâm, như quả-trái thành-thục.
Lại nữa, Thiên-tử! Phát-tâm thứ nhất như người làm
xe, trước phải thu thập gỗ, phát-tâm thứ hai như được gỗ rồi, chia ra và
bào gọt sạch-sẽ, phát-tâm thứ ba như người thợ mộc kia đã làm thành một
cái xe, phát-tâm thứ tư như cái xe của người kia đã chở nhiều thứ nặng đi
đến chốn xa-xôi.
Lại nữa, Thiên-tử!
Phát-tâm thứ nhất cũng như mặt trăng đầu tháng, phát-tâm thứ hai như mặt
trăng đêm mồng năm đến đêm mồng bảy, phát-tâm thứ ba như mặt trăng đêm
mồng mười, phát-tâm thứ tư như mặt trăng đêm mười tư. Nên biết trí-tuệ nơi
Như-Lai, ví như mặt trăng sáng đúng đêm hôm rằm, hết thảy ánh sáng đều
viên-mãn.
Lại nữa, Thiên-tử!
Phát-tâm thứ nhất siêu-việt Thanh-Văn-địa, phát-tâm thứ hai siêu-việt
Bích-chi-Phật địa, phát-tâm thứ ba siêu-việt Bất-định-địa, phát-tâm thứ tư
trụ nơi Quyết-định-địa.
Lại nữa, Thiên-tử! Phát-tâm thứ nhất ví như có
người mới học chữ cái, phát-tâm thứ hai như người đi học kia dần-dần biết
phân-tích, phát-tâm thứ ba như người đi học kia đã biết tính-toán
rành-mạch lâu rồi, phát-tâm thứ tư như người đi học kia thuần-thục và
liễu-đạt mọi luận-thuyết.
Lại nữa, Thiên-tử! Phát-tâm thứ nhất Bồ-Tát trụ nơi
nhân (nguyên nhân) phát-tâm thứ hai Bồ-Tát trụ nơi trí (trí-tuệ), phát-tâm
thứ ba Bồ-Tát trụ nơi đoạn (đoạn-diệt hai chướng), phát-tâm thứ tư Bồ-Tát
trụ nơi quả (quả-vị Bồ-Ðề).
Lại nữa, Thiên-tử! Phát-tâm thứ nhất nhiếp vào (nắm
giữ) nhân, phát-tâm thứ hai nhiếp vào trí, phát-tâm thứ ba nhiếp vào đoạn,
phát-tâm thứ tư nhiếp vào quả.
Lại nữa, Thiên-tử! Phát-tâm thứ nhất từ nhân
phát-khởi, phát-tâm thứ hai từ trí phát-khởi, phát-tâm thứ ba từ đoạn
phát-khởi, phát-tâm thứ tư từ quả phát-khởi.
Lại nữa, Thiên-tử! Phát-tâm thứ nhất là phần
sai-biệt của nhân, phát-tâm thứ hai là phần sai-biệt của trí, phát-tâm thứ
ba là phần sai-biệt của đoạn, phát-tâm thứ tư là phần sai-biệt của quả.
Lại nữa, Thiên-tử! Phát-tâm thứ nhất như hái góp
mọi thứ thuốc lại, phát-tâm thứ hai như phân-biệt tính của từng vị thuốc,
phát-tâm thứ ba như tùy bệnh, hợp thuốc nào cho thuốc ấy, phát-tâm thứ tư
như uống thuốc khỏi bệnh.
Lại nữa, Thiên-tử! Phát-tâm thứ nhất sinh vào nhà
Pháp-vương, phát-tâm thứ hai học pháp của Pháp-vương, phát-tâm thứ ba học
đã hiểu-biết rành-rẽ được, phát-tâm thứ tư học được tự-tại.
Bấy giờ, trong pháp-hội có vị Thiên-tử tên là
Quyết-Ðịnh Quang-Minh, bạch Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ rằng: "Thưa Ðại-Sĩ! Gì là
con đường nhanh-chóng của Ðại Bồ-Tát? Và, các Ðại Bồ-Tát đi con đường ấy
chóng được Vô-thượng Chính-đẳng, Chính-giác chăng?
- Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ đáp: "Thưa Thiên-tử! Con
đường nhanh-chóng của Ðại Bồ-Tát có hai và Ðại Bồ-Tát đi con đường ấy
chóng được đạo Vô-thượng Chính-đẳng, Chính-giác. Hai con đường ấy là gì? -
Một là, đường phương-tiện. Hai là, đường Bát-nhã. Ðường Phương-tiện nhiếp
thủ (nắm giữ) mọi thiện-pháp, đường Bát-nhã hiểu-biết lựa-chọn mọi pháp;
đường Phương-tiện không bỏ chúng-sinh, đường Bát-nhã hay xả mọi pháp;
đường Phương-tiện biết pháp hòa-hợp, đường Bát-nhã biết pháp không
hòa-hợp, đường Phương-tiện thường làm nhân-duyên, đường Bát-nhã thường đưa
tới nơi tịch-diệt (vô-vi); đường Phương-tiện biết được tướng sai-biệt của
mọi pháp, đường Bát-nhã biết được lý không sai-biệt của pháp-giới; đường
Phương-tiện thường làm trang-nghiêm trọn-vẹn những quốc-độ của chư Phật,
đường Bát-nhã biết được lẽ bình-đẳng trong quốc-độ của chư Phật; đường
Phương-tiện thường biết căn-tính, hành-động bất đồng của chúng-sinh, đường
Bát-nhã biết được căn-tính, hành-động là "không", không chỗ có (vô sở
hữu); đường Phương-tiện khiến các Bồ-Tát đến nơi đạo-tràng, đường Bát-nhã
thường khiến Bồ-Tát đạt tới chỗ "Vô-sở-giác" (không còn chỗ, không còn
tướng giác-ngộ).
- Thưa Thiên-tử! Ðại Bồ-Tát lại có hai con đường
nhanh-chóng. Hai con đường ấy là gì? - Một là, đường Tư-lương (sửa soạn,
tu-tập). Hai là, đường Quyết-trạch (lựa chọn quyết-định). Ðường Tư-lương
là năm pháp Ba-la-mật như Bố-thí v.v..., đường Quyết-trạch là Bát-nhã
Ba-la-mật. Ðường hữu-trước (còn có sự chấp-trước), đường vô-trước (không
còn sự chấp-trước), đường hữu-lậu, đường vô-lậu, đều nói có sự Tư-lương và
Quyết-trạch như thế.
Lại có hai đường nhanh-chóng. Hai đường ấy là gì? -
Một là, đường hữu-lượng (có hạn-lượng). Hai là, đường vô-lượng (không
hạn-lượng). Ðường hữu-lượng là có tướng-vị, đường vô-lượng là không có
tướng-vị.
Lại có hai đường nhanh-chóng nữa, là đường Trí
(trí-tuệ) và đường Ðoạn (đoạn-diệt). Ðường Trí là từ sơ-địa đến đệ thất
địa. Ðường Ðoạn là từ đệ bát đến đệ thập địa.
Khi ấy, trong pháp-hội có vị Bồ-Tát tên là Dũng-Tu
Trí-Tín, bạch Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ rằng: "Thưa Ðại-Sĩ! Thế nào là chỗ biết
nghĩa-tướng của Ðại Bồ-Tát? Thế nào là chỗ tu trí của Ðại Bồ-Tát?
- Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ đáp: "Thiện-nam-tử! Nghĩa
không phải là hòa-hợp, trí là hòa-hợp".
- Bồ-Tát Dũng-Tu Trí-Tín hỏi: "Thưa Ðại-Sĩ! Vì
nhân-duyên gì nghĩa không phải là hòa-hợp, mà trí là hòa-hợp?"
- Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ đáp: "Thiện-nam-tử! Nghĩa là
vô-vi, vô-vi thời phi-nghĩa (không còn có nghĩa-tướng), trong phi-nghĩa
không có pháp gì hoặc hòa-hợp hay không hòa-hợp, Nghĩa là không biến-đổi,
không thành thực (kết-quả), không thể lấy, không thể bỏ, đều nói đúng như
thế. Thiện-nam-tử! Trí gọi là "Ðạo" (đường), đạo cùng tâm hòa-hợp, không
phải là không hòa-hợp. Lại nữa, thiện-nam-tử! Trí chỉ là hòa-hợp, không
phải là không hòa-hợp.
- Bồ-Tát Dũng-Tu Trí-Tín hỏi: "Thưa Ðại-Sĩ! Vì
nhân-duyên gì Trí chỉ là hòa-hợp, không phải là không hòa-hợp?"
- Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ đáp: "Thiện-nam-tử! Trí
quán-sát rành năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới,
quán-sát rành pháp duyên-khởi, quán-sát rành xứ, phi-xứ (đúng chỗ hay
không phải chỗ), vì thế nên chỉ hòa-hợp, không phải không hòa-hợp.
Lại nữa, Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát có mười trí. Mười
trí ấy là gì? Một là, nhân-trí. Hai là, quả-trí. Ba là, nghĩa-trí. Bốn
là, phương-tiện-trí. Năm là, Bát-nhã-trí. Sáu là, nhiếp-trí. Bảy là,
Ba-la-mật-trí. Tám là, đại-bi-trí. Chín là, giáo-hóa chúng-sinh-trí. Mười
là, đối với hết thảy pháp, trí vô-sở-trước. Thiện-nam-tử! Như thế gọi là
mười trí của Ðại Bồ-Tát.
Lại nữa, Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát có mười hạnh
phát-khởi. Mười hạnh phát-khởi ấy là gì? Một là, thân-phát-khởi: vì hết
thảy chúng-sinh, thiện-trị nghiệp thân thanh-tịnh. Hai là, khẩu-phát-khởi:
vì hết thảy chúng-sinh, thiện-trị nghiệp khẩu thanh-tịnh. Ba là,
tâm-phát-khởi: vì hết thảy chúng-sinh, thiện-trị nghiệp ý thanh-tịnh. Bốn
là, nội-phát-khởi: đối với hết thảy chúng-sinh không chấp-trước. Năm là,
ngoại-phát-khởi: đối với hết thảy chúng-sinh, thực-hành hạnh bình-đẳng.
Sáu là, trí-phát-khởi: tu-tập hết thảy Phật-trí. Bảy là, quốc-độ
phát-khởi: thị-hiện hết thảy công-đức trang-nghiêm trong các cõi Phật. Tám
là, giáo-hóa chúng-sinh phát-khởi: biết các bệnh phiền-não của chúng-sinh
mà cho thuốc. Chín là, chân-thực phát-khởi: thành-tựu được quyết-định-tụ.
Mười là, vô-vi-trí mãn-túc (trọn-vẹn trí-tuệ vô-vi) phát-khởi: đối với hết
thảy pháp trong ba cõi, tâm không chấp-trước. Như thế gọi là mười hạnh
phát-khởi của Ðại Bồ-Tát".
Lại nữa, Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát có mười hạnh.
Mười hạnh ấy là gì? - Một là, tu hạnh lục Ba-la-mật. Hai là, tu hạnh
tứ-nhiếp,
nhiếp-thủ chúng-sinh. Ba là, tu hạnh Bát-nhã (không-tuệ). Bốn là, tu hạnh
phương-tiện. Năm là, tu hạnh đại-bi. Sáu là, tu cầu tư-lương về tuệ. Bảy
là, tu cầu tư-lương về trí. Tám là, tu hạnh tín-tâm thanh-tịnh. Chín là,
tu hạnh quán-nhập các đế-lý (như: chân-đế, tục-đế, tứ-đế). Mười là, tu
hạnh không phân-biệt cảnh yêu, ghét. Như thế gọi là mười hạnh của Ðại
Bồ-Tát.
Lại nữa, Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
quán vô-tận (không cùng tận). Mười pháp quán ấy là gì? - Một là, quán thân
vô-tận. Hai là, quán sự vô-tận. Ba là, quán pháp vô-tận. Bốn là, quán ái
(yêu) vô-tận. Năm là, quán kiến (tư-tưởng) vô-tận. Sáu là, quán
vô-sở-trước (không còn chỗ chấp-trước) vô-tận. Chín là, quán tương-ứng (sự
hợp nhau) vô-tận. Mười là, quán đạo-tràng thức tự-tính vô-tận.
thiện-nam-tử! Như thế gọi là mười pháp quán vô-tận của Ðại Bồ-Tát.
Lại nữa, Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
điều-phục-hạnh. Mười pháp ấy là gì? - Một là, điều-phục hạnh sẻn-tham,
ghen-ghét, bỏ của bố-thí coi như hạt mưa. Hai là, điều-phục hạnh phá-giới,
thân, khẩu, ý-nghiệp thanh-tịnh. Ba là, điều-phục hạnh giận-dữ, tu-tập tâm
từ. Bốn là, điều-phục hạnh lười-biếng, cầu pháp không chán-nản. Năm là,
điều-phục hạnh bất-thiện, được Thiền-định, giải-thoát và thần-thông. Sáu
là, điều-phục hạnh vô-minh, sinh tư-lương quyết-định, thiện-sảo trí-tuệ.
Bảy là, điều-phục hạnh về các phiền-não, đầy đủ về tư-lương của
Nhất-thiết-trí. Tám là, điều-phục hạnh điên-đảo, xuất-sinh tư-lương-đạo
chân-thực không điên-đảo. Chín là, điều-phục hạnh không được tự-tại, dù
đúng thời hay phi-thời đều tự-tại. Mười là, điều-phục hạnh chấp ngã,
quán-sát các pháp vô-ngã. Thiện-nam-tử! Như thế gọi là mười pháp
điều-phục-hạnh của Ðại Bồ-Tát.
Lại nữa, Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát có mười nơi
tịch-tĩnh (tịch-tĩnh-địa). Mười nơi ấy là gì? - Một là, thân-tịch-tĩnh: xa
lìa ba nghiệp bất-thiện nơi thân (sát, đạo, dâm). Hai là, khẩu-tịch-tĩnh:
thiện-trị trong-sạch bốn thứ thuộc khẩu nghiệp (nói dối, thêu-dệt, hai
lưỡi, ác khẩu). Ba là, tâm-tịch-tĩnh: bỏ hẳn ba ác-hạnh nơi ý (tham, sân,
si). Bốn là, nội-tịch-tĩnh: không chấp-trước tự thân. Năm là,
ngoại-tịch-tĩnh: không chấp-trước hết thảy pháp. Sáu là, trí-tư-lương
tịch-tĩnh: không chấp-trước chỗ hành-đạo. Bảy là, bất tự-cao tịch-tĩnh:
quán-sát tự-tính của Thánh-trí.
Tám là, cứu-cánh biên-tế thần-thông tịch-tĩnh:
xuất-sinh Bát-nhã Ba-la-mật. Chín là, diệt hí-luận tịch-tĩnh: không
dối-gạt hết thảy chúng-sinh. Mười là, bất cố-luyến (không đoái-tưởng,
luyến-tiếc) thân-tâm tịch-tĩnh: tâm đại-bi giáo-hóa chúng-sinh.
Thiện-nam-tử! Như thế gọi là mười nơi tịch-tĩnh của Ðại Bồ-Tát.
Lại nữa, Thiện-nam-tử! Các Ðại Bồ-Tát như-thực
tu-hành (như-thực-hành)
thời được đạo Bồ-Ðề, không như-thực tu-hành thời không chứng được.
Như-thực tu-hành là đúng như chỗ nói ấy thế nào, thời tu-hành như thế;
không như-thực tu-hành là chỉ có ngôn-thuyết, chứ không hay tín-thụ, không
hay tu-tập.
Lại nữa, Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát có hai lối
như-thực tu-hành. Hai lối ấy là gì? Một là, như-thực tu-hành theo đạo
phương-tiện. Hai là, như-thực tu-hành đoạn hẳn vọng-hoặc. Thiện-nam-tử!
Ðại Bồ-Tát lại có hai lối như-thực tu-hành. Hai lối ấy là gì? Một là,
như-thực tu-hành tự-điều-phục. Hai là, như-thực tu-hành giáo-hóa
chúng-sinh. Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát lại có hai lối như-thực tu-hành. Hai
lối ấy là gì? Một là, như-thực tu-hành theo trí-tuệ có công-dụng tác-động.
Hai là, như-thực tu-hành theo trí-tuệ không có công-dụng tác-động.
Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát lại có hai lối như-thực tu-hành. Hai lối ấy là
gì? Một là, như-thực tu-hành, kiến-lập (phân-biệt) rành mọi "địa"
(thập-địa). Hai là, như-thực tu-hành, quán-sát rành mọi "địa" không
sai-biệt.
Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát lại có hai lối như-thực tu-hành. Hai lối ấy là
gì? Một là như-thực tu-hành, khéo xa-lìa sai-lầm của các địa. Hai là,
như-thực tu-hành khéo làm viên-mãn công-đức của các địa. Thiện-nam-tử! Ðại
Bồ-Tát lại có hai lối như-thực tu-hành nữa. Hai lối ấy là gì? Một là,
như-thực tu-hành, nói rõ Thanh-Văn, Bích-Chi-Phật-Ðịa. Hai là, như-thực
tu-hành, nói rõ pháp Bồ-Ðề bất-thoái-chuyển của chư Phật. Thiện-nam-tử!
Ðại Bồ-Tát có vô-lượng, vô-biên pháp như-thực tu-hành như thế, nếu ai
như-thực tu-hành được như thế, nên biết người ấy không bao lâu sẽ được đạo
Vô-thượng Chính-đẳng, Chính-giác. Các Ðại Bồ-Tát nên siêng-năng tu, học
như thế!
Bấy giờ, đức Thế-Tôn tán-thán Bồ-Tát Văn-thù-sư-lÿ
rằng: "Quý-hóa thay, quý-hóa thay! Ông Văn-thù-sư-lÿ! Ông khéo nói
xác-thực những lời như-thực ấy!
Ðức Phật nói kinh này rồi, Ðại Bồ-Tát
Văn-thù-sư-lÿ, Ðại Bồ-Tát Dũng-Tu Trí-Tín, Thiên-Tử Tịnh-Nguyệt Uy-Quang,
Thiên-Tử Quyết-Ðịnh Quang-Minh cùng hết thảy Thế-gian Thiên, Nhân, A-tu-la
v.v...: chúng-nhân trong Pháp-hội, đều rất hoan-hỷ, tín-thụ phụng-hành.
Kinh này là cuốn kinh
số 467 trong Ðại-tạng-kinh. Kinh này nói tại Già-Da-sơn, nên lấy tên
núi mà đặt tên kinh. Già-Da-sơn là tiếng Phạm, Trung-Hoa phiên âm là
Yết-sà-thi-lÿ-sa (Gajasirsa) và dịch là "Tượng-đầu", nghĩa là trái núi
hình đầu voi. Núi này một mặt phụ-cận núi Linh-thữu, một mặt phụ-cận
Bồ-Ðề đạo-tràng (nơi đức Phật thành đạo). Và, theo Thái-Hư-Ðại-Sư thời
Già-Da-sơn còn có nghĩa là "thân"; thân có nghĩa là tích-tụ, do
tích-tụ tứ-đại, ngũ-uẩn mà thành.
Kinh này nói sau khi
Phật thành đạo đã độ được 1.000 vị dòng Phạm-Chí để tóc dài, tức là
đồ-chúng của ba anh em ngài Ca-Diếp. Tất cả các vị này đều thành
A-La-Hán, đã được nhiều công-đức giải-thoát, Niết-Bàn nên đoạn này là
tán-thán công-đức các vị (Nghĩa những câu tán-thán này xem các kinh
trước đã chú-giải).
Trên đây nói đức Phật
vào Chính-định tự quán-niệm nơi mình thấy đã chứng Bồ-Ðề, tránh khỏi
phiền-não, vô-minh, tham-ái sinh-tử, chúng pháp-giới-thân, hoằng-pháp,
độ-sinh, mở đường thiện-chí, mở pháp-nhân, xa-lìa mảnh ruộng ngoại-đạo
(phi-điền), chỉ cho Tam-Bảo phúc-điền. Nghĩa là đã đầy-đủ trí-tuệ
giác-ngộ và bi nguyện độ sinh.
Ðây đức Phật quán-sát
lại sự thành-tựu Bồ-Ðề của Ngài, Ngài nghĩ: pháp gì đã chứng, nay
chứng và sau này sẽ chứng. Và sự chứng được Bồ-Ðề này là thân-chứng
hay tâm chứng? Tức là quán-sát kỹ về ba pháp: năng-chứng, sở-chứng,
Bồ-Ðề vậy.
Ðây nói: nếu bảo là
thân chứng Bồ-Ðề thời thân này là giả-hợp, là vô-thường, sao chứng
được Bồ-Ðề?
Ðây nói: nếu bảo là
tâm chứng Bồ-Ðề, thời tâm như huyễn-hóa, sao chứng được Bồ-Ðề?
Ðây nói: Bồ-Ðề có chi,
đó chỉ là người đời đặt tên cho nó mà thôi, chứ thực nó không có
hình-tướng, đi, lại... chi cả, thời có gì là Bồ-Ðề, để mà chứng?
Quán-sát tỷ-mỷ thời không có thân, tâm chứng Bồ-Ðề, cũng không có
Bồ-Ðề để mà chứng, mới là chứng Bồ-Ðề.
Trên kia đã nói: thân,
tâm đều không phải là nơi chứng Bồ-Ðề và Bồ-Ðề cũng chỉ là danh-dự mà
thôi. Ðây lại nói không có cả sự hiện-chứng, đã chứng và sẽ chứng
Bồ-Ðề nữa. Vì, Bồ-Ðề là không-tính, Bồ-Ðề lìa tướng biến-động, chỉ
vô-chứng, vô thành mới là chứng Bồ-Ðề hay gọi là thành Chính-giác."
Ðoạn này Bồ-Tát
Văn-thù hỏi đức Phật: tướng của Bồ-Ðề như thế, chúng-sinh nên trụ vào
đâu mà phát-tâm được? Ngài dạy: trụ vào chỗ vô-tướng ấy!
Ðây Bồ-Tát Văn-thù
hỏi, đức Phật đáp: Bồ-Ðề là "không-tính" mặc dầu có danh-tự, nhưng nó
xa-lìa cả âm-thanh, ngôn-ngữ. Vì thế, Bồ-Tát phát-tâm, xu-hướng Bồ-Ðề,
phải không thấy có "phát-tâm", không thấy có xu-hướng" mới là
"phát-tâm, xu-hướng Bồ-Ðề". Nghĩa là hướng về nơi "vô-sở", nhập cùng
"pháp-giới-tính".
Phương-tiện tuệ:
Trí-tuệ biết dùng phương pháp đối-trị.
Mười Thiện-nghiệp-đạo:
Không sát-sinh, không trộm-cắp, không tà-dâm, không nói dối, không hai
lưỡi, không nói thêu-dệt, không ác-khẩu, không tham, không sân và
không si.
Ðoạn văn trên đây là
Thiên-tử Tịnh-Nguyệt hỏi về hạnh tu-tập cùng nơi y-chỉ của hạnh ấy nơi
các Ðại-Bồ-Tát, được Bồ-Tát Văn-thù giải-đáp tỷ-mỷ với mục-đích làm
cho sự phát-tâm Bồ-Ðề của Thiên-Tử đi sâu vào sự thực-hành hạnh
Ðại-thừa để đạt tới đích bất-thoái-chuyển.
Ðây Bồ-Tát Văn Thù đáp
về 4 nhân, quả của Bồ-Ðề: Sơ-phát-tâm là chỉ vào Thập-tín-vị; giải
(thắng-giải), hành, trụ chỉ cho Thập-trụ, Thập-hành, Thập-hồi-hướng;
Bất-thoái-chuyển chi cho Thập-địa và Nhất-sinh bổ-xứ là chỉ cho vị
Bồ-Tát tu rốt-ráo về Thập-địa, chỉ một lần chuyển-sinh bổ-xung lên
Phật-địa mà thôi.
Ðây nói 4 nhân, quả
của Bồ-Ðề, đầu từ sơ-phát-tâm sẽ làm nguyên-nhân, kết-quả lẫn nhau.
Ðoạn "lại nữa" trên
đây, Bồ-Tát Văn-Thù nói về tỷ-dụ, nhân-quả và sự đạt-thành từ thấp tới
cao, dẫn người hỏi đi sâu vào sự tìm-hiểu minh-bạch và thực-tế.
Ðoạn văn trên đây
Thiên-tử Quyết-Ðịnh hỏi Bồ-Tát Văn-Thù: con đường nào nhanh-chóng đạt
tới Vô-thượng Bồ-Ðề. Bồ-Tát Văn-thù đáp: có 2 con đường là Phương-tiện
và Bát-nhã. Phương-tiện là tư-lương của phúc-đức, Bát-nhã là tư-lương
của trí-tuệ. Phương-tiện biểu-hiện tính-cách hòa-đồng để nhiếp-dẫn,
Bát-nhã đứng trên phương-diện lý-giải không-tính, để đạt tới chỗ không
còn có tướng của giác-ngộ (vô-sở-giác).
Cũng trong hai con
đường nhanh-chóng. Bồ-Tát tu 5 độ trước là phúc-đức tư-lương, tu
Bát-nhã là quyết-trạch. Cho đến hữu-trước, hữu-lậu thuộc 5 độ trước,
vô-trước, vô-lậu thuộc Bát-nhã.
Hữu-lượng là con đường
Bồ-Tát tu lục-độ, từ sơ-địa đến thất-địa có sự trước-tướng nên
công-đức có hạn-lượng. Vô-lượng là từ Bát-địa Bồ-Tát tu không
trước-tướng, vô công-dụng đạo, nên không có hạn-lượng.
Từ sơ-địa đến
thất-địa, thực biết pháp-giới, nhưng còn chút phiền-não, nên gọi là
"trí", Bát-địa trở lên đoạn hết phiền-não, nên gọi là "đoạn"
Nghĩa-tướng tức
đệ-nhất nghĩa thực-tướng của các pháp. Trí đây là trí-tuệ của Ðại
Bồ-Tát.
Năm uẩn, 12 xứ, 18
giới: Xem các kiinh trước đã giải.
Ðoạn văn trên đây
Bồ-Tát Dũng-Tu Trí-Tín hỏi Bồ-Tát Văn-thù về hai chỗ "Nghĩa" và "Trí".
Nghĩa là đệ-nhất-nghĩa thực-tướng, là vô-vi nên không còn có nghĩa gì
là hòa-hợp, tức là thuộc về không-tính. Trí là trí-tuệ, là con đường
(đạo), là chính-lý, quán-sát thâu-suốt sự-vật, đúng chỗ (xứ), hay
không đúng chỗ (phi-xứ) mà nó luôn luôn hòa-hợp với thiện-tâm vậy.
Ðây giải rõ 10 trí của
Ðại Bồ-Tát. 10 trí này đứng trong vòng đối-đãi, hòa-hợp, lợi-sinh và
không trước-tướng mà có. Trong nầy "nghĩa-trí" tức là trí-tuệ của
đệ-nhất-nghĩa; "nhiếp-trí" là trí-tuệ để nhiếp-trì trong những trí-tuệ
đối-đãi, như nhân với quả v.v...
Quyết-định-tụ:
Công-đức tu-tập kết-tụ nhất-định không còn động-chuyển.
Ðây nói: Bản thân
thanh-tịnh của Bồ-Tát phát khởi những hạnh làm lợi-ích chúng-sinh.
Tứ-Nhiếp: Bố-thí,
ái-ngữ, lợi-hành, đồng-sự.
Ðây nói rất nhiều nơi
chư Phật thành đạo. Chư Phật thành đạo tức là lúc tự-tính
đại-viên-mãn-giác hợp với vô-cấu-thanh-tịnh-thức, nên gọi là
"đạo-tràng (nơi giác-ngộ) thức tự-tính vô-tận".
Ðây quán-sát pháp-giới
không chướng-ngại, không cùng tận.
Ðây là phương-pháp
rèn-luyện thân, tâm, nhiếp-phục phiền-não và phá chấp.
Tự-tính của Thánh-trí
bình-đẳng không cao, thấp, hay, dỡ.
Dùng Bát-nhã-trí, được
thần-thông tịch-tĩnh vô-biên trong mai sau, mà đạt tới cứu-cánh-địa.
Ðây nói về công-đức
thanh-tịnh nơi tự-thân đạt thàn.
Ðây nói về như-thực
tu-hành và không như-thực tu-hành. Như-thực tu-hành nói rõ nghĩa là y
thực như thế mà tu-hành.
Ðây chỉ vào các vị
tu-hành từ bát-địa trở lên.
Ðây: quán-nhập
nhất-tướng-trí, không chấp-tướng, không còn sự sai-biệt.
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-10-2002