Kinh Như Lai Viên Giác
Trực chỉ đề cương
Pháp Sư Thích Từ Thông
---o0o---
MỤC LỤC
TỰA
(^)
Bộ
kinh nầy tiền bối cổ kim từ các thời đại Tống, Minh xa xưa
ở Trung Quốc và qua bao thế hệ lịch sử ở Việt nam ta đều
tiếp nhận danh xưng của bộ kinh nầy qua nhan đề ĐẠI PHƯƠNG
QUẢNG VIÊN GIÁC TU ĐA LIỄU NGHĨA KINH. Với nhan đề đó, nói
lên tánh chất trọng đại trong trọng đại ở nội dung và
giáo nghĩa thậm thâm vi diệu của kinh. Thực lý mà nói, văn
tự có tuyệt xảo thế nào cũng không chở hết được ý. Người
xưa nói: Ý tại ngôn ngoại. Phật thì nói: "Nhất thiết
tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ". Văn tự, giáo lý
của tất cả kinh tạng ví như ngón tay chỉ trăng. Và lại
theo lời Phật dạy cho Bồ tát Hiền Thiện Thủ thì kinh nầy
có thể gọi bằng những năm danh tự khác nhau. Mà danh tự nào,
ý nghĩa cũng hun hút chiều sâu như vực thẳm.
Khi dịch và viết phần
Trực chỉ bộ kinh nầy, tôi suy nghĩ rất nhiều về cái đề
kinh. Theo cổ nhơn gọi tắt với cái tên: VIÊN GIÁC KINH, tôi
thấy không vừa lòng. Dùng nhan đề ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN
GIÁC TU ĐA LA LIỄU NGHĨA KINH tôi cho là quá dài mà cũng không
hẳn đủ đảm bảo nội dung của kinh trong đó. Qua quá trình
tư duy dai dẳn tôi vụt nhớ hai câu thơ của một thiền sư
Việt nam:
"Nam
nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu
hướng Như Lai hành xứ hành".
Lời cổ vũ sấm rang đó,
tôi khởi ý quyết định "chiết trung" hai nhan đề
một dài và một ngắn ấy, thành: NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH. Đó
làcái nhan đề mà tôi dâng trọn tâm hồn lên đức Phật để
xin được đặt ra.
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH là
một bộ kinh thuộc hệ tư tưởng Liễu nghĩa Đại thừa. Ơ
㠫?nh
nầy, đức Phật khai thị về tự tánh VIÊN GIÁC của mọi người.
Rằng con người ai cũng sẵn có cái tánh giác ngộ viên mãn
thanh tịnh không có tội lỗi nhiễm ô. Dù ở Thánh tánh đó
không thêm, ở phàm cũng không bị hao bớt. Chúng sanh hiện
hữu trên cõi đời nầy chỉ là diệu dụng tùy duyên vốn
sanh khởi từ bản thể tự tánh VIÊN GIÁC bất biến ấy. Vì
vậy, cho nên gọi là NHƯ LAI VIÊN GIÁC.
Tu học theo kinh Như Lai Viên
Giác hành giả sẽ hiểu rõ về giáo lý:
Đốn
tu đốn ngộ
Tiệm
tu tiệm ngộ
Đốn
ngộ tiệm tu
Đốn
tu tiệm ngộ
"Đốn"
"Tiệm" là phạm trù đối đãi về mặt thời gian.
"Tu" "Ngộ" là phạm trù đối đãi về mặt
nhân quả. Có tu thì có ngộ. Có ngộ thì có chứng đắc
quả vị. Đó là chân lý về nhân quả. Chân lý nhân quả không
riêng gì phương tiện tu chứng mà nó bao quát hết thảy sự
vật hiện tượng thế gian và pháp xuất thế gian, ngoại
trừ thân chứng cảnh giới NHƯ LAI VIÊN GIÁC.
Đáp câu hỏi của Bồ tát
Văn Thù về pháp hành của Như Lai khi tu nhơn địa. Phật
dạy: PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI KHI TU NHƠN ĐỊA LÀ SỬ DỤNG TRÍ
VIÊN GIÁC QUÁN CHIẾU LÝ VIÊN GIÁC. VÌ VẬY KHÔNG SANH KHỞI VÔ
MINH GỌI LÀ THÀNH PHẬT ĐẠO. Qua lời dạy đó, người đệ
tử Phật thấy rằng: Khi tu nhơn, đức Phật chỉ sử dụng
chân trí soi rọi chân lý. Đức Phật không có làm gì cực
nhọc khó khăn. Lấy chân trí trong sáng tỉnh thức quán
chiếu chân lý vốn thanh tịnh bản nhiên, do vậy, vô minh không
có điều kiện sanh khởi. Mà không có vô minh thì không phải
chúng sanh. Không phải chúng sanh thì gọi là Phật, là thành
Phật đạo !
Giáo lý đốn tu, đốn
ngộ, đốn chứng được Thế Tôn khai thị cho Bồ tát Đại
Trí Văn Thù ở chương một của bộ kinh nầy.
TRI HUYỄN TỨC LY, LY
HUYỄN TỨC GIÁC đức Phật dạy cho Bồ tát Phổ Hiền ở chương
hai Như Lai vẫn chưa mở bày phương tiện, vì ý Phật muốn
cho những người có chủng tánh Đại thừa cần phải hứng
khởi ý chí quyết liệt, như người bừng tỉnh một cơn ác
mộng. Người biết mộng là người đã tỉnh thức rồi.
Dạy về pháp ĐỐN NGỘ
ĐỐN TU ở chương một, đức Phật khai thị cho Bồ tát Đại
Trí Văn Thù về công năng tu tập qua một chữ TRI. Ơ
㠣?ương
hai Phật khai thị về công dụng của chữ LY do Bồ tát Phổ
Hiền nêu ra cũng nhằm để hướng dẫn pháp hành ĐỐN TU ĐỐN
NGỘ và ĐỐN CHỨNG.
Nếu chưa phải là bậc
lợi căn đại trí thì cầu học những phương tiện
"Tiệm tu". với pháp tiệm tu, hành giả có thể thực
hành tu tập những pháp môn ngang với nghị lực và nhận
thức của mình. "Tiệm" có nghĩa là dần dần, từ
thấp tới cao, từ chậm đến mau trên đường tu, ngộ. Tuy
nhiên, hành giả không để lệch mục tiêu là VIÊN GIÁC TỰ TÁNH
vốn có của mình. Rời mục tiêu ấy mà cầu mong chứng ngộ
Bồ đề Niết bàn… chẳng khác nào mò trăng đáy nước,
nấu cát hy vọng thành cơm, chờ hoa đốm trong hư vô sanh ra
quả ngọt…
CHỈ, QUÁN và THIỀN là ba
pháp hành căn bản trong nền giáo lý Phật. Nó được ứng
dụng xuyên suốt không gian và thời gian đối với người đệ
tử Phật phát chí tu hành, và cũng từ căn bản đó vận
dụng triển khai thành "vô lượng pháp môn tu" ! Ví như
xi măng, cát, đá, sắt và nước là chất liệu cơ bản của
ngành kiến trúc vậy.
Sự chấp mắc sai lầm chân
lý đối với đường tu, nó trở thành vật cản, chặn đứng
sự tiến lên đỉnh cao Bồ đề Niết bàn Phật. CHỨNG,
NGỘ, LIỄU, GIÁC là sự chấp mắc sai lầm về "bản ngã".
Không tỏ ngộ chân lý "ngã không", con người rất khó
dứt ý tưởng "ngã chấp câu sanh". Dứt câu sanh ngã
chấp khó, ví như người tự cắt đầu mình !
TÁC, NHẬM, CHỈ, DIỆT cũng
là thứ bệnh chấp sai lầm từ nhận thức, dẫn đến chủ
trương lệch lạc chánh nhân. Nhân đã lầm thì quả sẽ
lạc, khiến cho VIÊN GIÁC DIỆU TÁNH không còn là mục tiêu hướng
thiện hâm hở của lúc khởi hành ! Hãy thận trọng lưu tâm
!
"Đại hải bất nhượng
tiểu lưu". Là biển cả thì không ngại dung chứa nước
sông ngòi khe lạch. NHƯ LAI VIÊN GIÁC kinh là tư tưởng Liễu
nghĩa Thượng thừa, mà bậc đại căn cơ hay trung lưu tiểu
trí, học tu đều đem lại lợi ích thích ứng với CHÍ,
NGUYỆN, HÀNH của mỗi người.
Vì nội dung tư tưởng
thậm thâm vô thượng, vì tán chất Đại Phương Quảng Liễu
Nghĩa của kinh mà tiền bối hậu triết dị khẩu đồng tâm
mỗi mỗi triển khai và ghi lại những điều tâm đắc của mình.
Suốt quá trình Phật sử ở Trung Quốc, kinh Viên Giác được
những nhà Phật học sớ giải, chú thích, trước thuật, biên
soạn gồm có những tên gọi:
-
Viên Giác Kinh Lược Sớ. Đời Đường, ngài
Tông Mật sớ, phân thành 4 quyển.
-
Viên Giác Kinh Đại Sớ, Sớ Sao cũng do ngài
Tông Mật sớ sao phân thành 3 quyển
-
Viên Giác Kinh Sao Biện Nghi Ngộ. Đời
Tống, ngài Quang Phục biên soạn phân thành 2 quyển.
-
Viên Giác Kinh Sớ Sao Tùy Văn Yếu Giải.
Đời Tống, ngài Thanh Viên soạn thuật phân thành 12
quyển
-
Viên Giác Kinh Ngự Chú. Đời Tống, Hiếu
Tông Hoàng Đế chú giải phân thành 2 quyển.
-
Viên Giác Kinh Loại Giải. Đời Tống, ngài
Hạnh Đình giải phân thành 8 quyển.
-
Viên Giác Kinh Lược Sớ Tự Chú. Đời
Tống, ngài Như Sơn chú 1 quyển
-
Viên Giác Kinh Tâm cảnh. Đời Tống, ngài
Trí Thông thuật phân thành 6 quyển.
-
Viên Giác Kinh Tập Chú. Đời Tống, ngài
Nguyên Túy thuật phân thành 2 quyển.
-
Viên Giác Kinh Hiệp Tụng Tập Giải Giảng
Nghĩa. Đời Tống, ngài Chu Kỳ soạn thuật phân thành 12
quyển
-
Viên Giác Kinh Trực Giải. Đời Minh, ngài
Đức Thanh soạn thuật phân thành 6 quyển
-
Viên Giác Kinh Yếu Giải. Đời Minh, ngài
Tịnh Chánh giải phân thành 2 quyển.
-
Viên Giác Kinh Cú Thích Chánh Bạch. Ngài
Hoằng Lệ trước thuật phân thành 6 quyển.
-
Viên Giác Kinh Liên Châu. Ngài Tịnh Định
trước thuật 1 quyển.
-
Viên Giác Kinh Tịnh Nghĩa Sớ. Ngài Thông Lý
trước thuật phân thành 4 quyển
-
Viên Giác Kinh Giải Nghĩa. Ngài Đế Nhàn
diễn giải phân thành 2 quyển
Đó là những vị tiền
bối có quyết tâm đầu tư trí tuệ khai thác nguồn tài nguyên
tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa ở kinh Viên Giác
Ơ㠖?ệt
nam ta, cũng đã có một vài bản dịch từ Hán văn ra Việt văn,
nhưng vì thiếu vốn đầu tư, và không vận dụng khả năng sáng
tạo. Vì vậy công dụng của kinh Viên Giác vẫn còn mai một
chưa có cơ hội phát huy, bởi phẩm chất chưa đáp ứng thị
trường đối với người muốn tìm học Phật pháp.
Nay với nhan đề NHƯ LAI
VIÊN GIÁC KINH TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG, với khả năng của mình,
tôi viết ra phần TRỰC CHỈ để chỉ thẳng trọng tâm, hướng
dẫn người đọc nắm được ý chính, nhận thức nghĩa lý
tiềm ẩn ở văn kinh ý Phật. Đó là lý tưởng của bỉ nhân
tôi đối với công trình biên soạn dịch thuật bộ kinh
nầy. Tuy nhiên, sức đầu tư rất hữu hạn mà tài nguyên
liễu nghĩa thượng thừa thì vô tận bao la, cho nên hy vọng có
được chút lợi ích nào cho người đọc cũng đáng mừng
rồi.
Cổ nhân nói: "Chí
lạc mạc như đọc thơ, chí yếu mạc như giáo tử". Không
có thú vui nào bằng thú vui đọc sách. Không có sự bí yếu
nào bằng cái bí yếu đem dạy cho con.
Đọc sách đã là vui, đọc
kinh Phật đối với người Phật tử có lẽ không đến nỗi
buồn ! Mong thay !
Viết
tại HUỲNH MAI TỊNH THẤT
Sài gòn, ngày 20 – 11 – 1992
Pháp
sư: THÍCH TỪ THÔNG
Kính
đề.
---o0o---
LỜI CÁO BẠCH
(^)
Bộ kinh NHƯ LAI VIÊN GIÁC các tiền bối cổ kim có lẽ
vì y theo khuôn sáo trước mà các Ngài thường phân chia thành
nhiều quyển từ 2, 3, 4, 5 hay nhiều hơn thế nữa. Riêng tôi, tôi
nhận thấy sự phân chia ấy không đem lại hiệu quả gì, mà chỉ thêm
phần hình thức rườm rà vô bổ. Sự kiện then chốt của toàn kinh
là mười hai vị Bồ tát thay mặt Viên Giác Hải Hội nêu lên những
câu hỏi để cầu Phật chỉ dạy. Y?ghĩa nội dung những câu hỏi có
thể thu nhiếp trong hai mục đích yêu cầu:
-
Học phương pháp tu mà đức Phật và thập phương chư Phật đã tu
và được thành Phật.
-
Cầu Phật giải phẫu chứng bệnh "chấp" và bệnh
"nghi" và cầu Phật chỉ dạy phương pháp ngăn ngừa các
chứng bệnh đó cho Bồ tát và chúng sanh tu hành hậu thế.
Hai mục đích yêu cầu xuyên qua mười hai đề tài nghi
vấn của mười hai vị đại Bồ tát, được Phật khai thị cặn kẽ rõ
ràng, khiến cho trình độ tiếp thu chánh pháp của thính chúng được
nâng cao liên tục. Với nhận xét đó, tôi thấy sự phân chia ra
nhiều quyển, không cần, cho nên tôi chỉ rút một câu hoặc những
từ có ý nghĩa then chốt, trọng tâm của đề tài được Phật khai
thị, tôi đặt thành "Tiểu đề" của đề tài đó. Và mỗi
đề tài nghi vấn của một Bồ tát, tôi kể đó là một chương. Ví
dụ:
Chương Một
PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA.
Chương Hai
LY HUYỄN TỨC GIÁC GIÁC TỨC THÀNH PHẬT
Như vậy trọn bộ kinh nầy có tất cả 12 chương, mà
không phân chia số quyển. Mong sao người đọc nhận ý quên lời để
giảm nhẹ bệnh hình thức, câu nệ khuôn sáo biến kế danh ngôn.
"Nhất thiết tu đa la giáo
Như tiêu nguyệt chỉ".
Lại có thơ rằng:
"Không môn bất khẳng xuất
Đầu song giả tự si
Bách niên toàn cố chỉ
Hà nhật xuất đầu thì".
Pháp sư:
THÍCH TỪ THÔNG
Kính cáo.
---o0o---
PHÀM LỆ
(^)
Bộ kinh NHƯ LAI VIÊN GIÁC gồm cả thảy 12 chương, khi
nghiên cứu kinh nầy kính mong độc giả lưu ý:
-
Phần nguyên văn kinh được in chữ đứng, đó là phần dịch từ
kinh Hán tự ra Việt văn.
-
Phần trực chỉ in chữ nghiêng để cho dễ phân biệt. Phần nầy do
bỉ nhân tôi đóng góp viết ra những điều tâm đắc bằng kiến
giải của riêng mình. Hy vọng phần trực chỉ sẽ giúp cho độc giả
manh mối để tư duy, gợi trí nhận xét trong tiến trình tìm hiểu học
tu theo con đường Phật.
-
Đoạn kinh có nhiều ý, tôi đánh số 1, 2, 3, v.v
Đoạn có
đánh số là có tiềm ẩn ý nghĩa sâu xa. Tôi phân tích và triển
khai phần tiềm ẩn đó trong phần TRỰC CHỈ sau chương đó.
-
Ở phần TRỰC CHỈ cũng được đánh số 1, 2, 3, v.v
Số ở
phần nầy ứng hợp với số ở phần kinh văn trên. Ví dụ: số 2
ở phần TRỰC CHỈ diễn đạt ý nghĩa tiềm ẩn của đoạn số 2 ở
phần kinh văn. Ngược lại, ở phần kinh văn thấy có đánh số 2
tức là đã có diễn đạt ý nghĩa tiềm ẩn của đoạn kinh đó ở
sau chương trong phần TRỰC CHỈ.
Mấy lời kính cáo, mong độc giả lưu tâm.
Ngày nào chúng ta còn sống là còn phải học
"HỌC, HỌC NỮA VÀ HỌC MÃI".
Pháp sư:
THÍCH TỪ THÔNG
Cẩn bạch.
--- o0o ---
Mục lục
| 1
|
2 |
3
|
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11
|
12
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính :
Kim Lý
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-06-2002