PHÁP MÔN TU CHỨNG
LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH
THÍCH HUỆ HƯNG
Phỏng dịch
---o0o---
LỜI MỞ ĐẦU
Thật là huyền diệu
Thật là cao tuyệt
Một pháp môn tu
chứng hoàn toàn–giải thoát rốt ráo–Đức Phật đã dạy trong kinh Lăng Nghiêm.
Không phân biệt căn cơ mau chậm, không phân biệt tuổi tác và hoàn cảnh,
mọi người, mọi giới và mọi lúc đều có thể áp dụng hạ thủ công phu một cách
liên tục.
Toàn bộ yếu chỉ của
kinh đều cô đọng ở những trang trong tập này–đủ yếu tố làm kim chỉ nam cho
hành giả trên đường tiến đến quả Giác.
Phương pháp tu tuy
cao siêu nhưng giản dị, tuy đơn thuần nhưng uyên áo, quả thật là pháp báu
vô giá. Xưa kia ngài Bát Lật Mật Đế xẻ thịt dấu kinh nơi thân, từ Ấn Độ
đem đến truyền bá ở Trung Hoa, sau này Sa môn Huyền Diệu tại Đài Bắc soạn
lại tóm tắt yếu chỉ khai ngộ và thật hành trong một tập nhỏ. Nay tôi phỏng
dịch để tiện lợi cho những người có duyên tìm hiểu và tu chứng theo pháp
Lăng Nghiêm Đại Định.
Ghi tại Tu Viện Huệ
Quang, ngày mãn hạ.
Năm
Kỷ Mùi 1979
THÍCH HUỆ HƯNG
___
PHÁP MÔN
TU CHỨNG VIÊN THÔNG
LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH
PHẦN I
KHAI THỊ THEO TÔNG CHỈ
KINH LĂNG NGHIÊM
Giáo lý của Phật
trong 49 năm giảng dạy, tuy có phân ra: quyền thiệt đốn tiệm, không ngoài
mục đích chỉ rõ chỗ dụng THỨC và không dụng THỨC. Vì mê mờ, chúng
ta thường lầm chấp thân hoặc tâm từ đó–Niết Bàn đã ở ngoài
tầm tay, lục đạo trở thành gia tộc của ta. Kinh Viên Giác đã nói: “Nhầm
lẫn nhận năm uẩn, bốn đại, cho là thân mình, căn cứ vào sự phân biệt ngoại
cảnh cho là tâm mình...” đó cũng vì dùng tâm thức hiện khởi.
Muốn tu theo pháp
LĂNG NGHIỆM ĐẠI ĐỊNH chúng ta tuyệt đối không dùng đến TÂM THỨC. Vì
dùng tâm thức phân biệt để tu đạt đến chơn tâm thường trụ là
việc không thể có, hoài công như người nấu cát mong thành cơm.
Thức xuất hiện dưới
nhiều hình thức, nên ta dễ nhầm lẫn nó là tâm hoặc định,
thật ra không phải chơn tâm, cũng không phải định thể, trái lại còn làm
chướng ngại thêm cho tánh định sẵn có của chơn tâm. Với sự trá hình lầm
lẫn đó, hàng phàm phu, tiểu thừa, ngoại đạo, quyền giáo đều bối rối, lẩn
quẩn, không nhận định đâu là chơn, đâu là vọng, như người lạc vào mê hồn
trận, càng đi càng cách xa. Vì vậy, Kinh Lăng Nghiêm, Phật phải bảy lần
phá bỏ vọng thức bị nhận lầm là tâm, và mười phen chỉ rõ cái tánh thấy
biết của con người–không phải là cái thấy biết ở giác quan.
Với thiện tâm tu
niệm cao độ, chúng ta cố gắng xã bỏ tâm thức tán loạn vọng động, để tạo
cái tâm an định, tịch tĩnh, như vậy chúng ta vẫn còn vấp phải một lầm lẫn–tránh
vỏ dưa gặp vỏ dừa–buông cái này để bắt cái nọ vẫn kẹt vào tánh chấp thủ,
không thể tiến xa hơn được để đạt một chơn tâm bổn định cho chúng ta. Y cứ
vào kinh Lăng Nghiêm hầu đạt lời Phật, còn bị coi là một sai lầm, huống
nữa một tâm thức tịch tĩnh an định không phá bỏ ư?
Phần nhiều người tu
hành quan niệm đạt đến trạng thái tĩnh lặng, dứt niệm gọi là đã đắc định,
nhưng thật ra vẫn chưa thoát khỏi khuôn khổ của tâm thức. Lúc đạt được như
vậy, ngỡ rằng định lực dễ dàng, từ đó, ý niệm dễ duôi, buông lung, đạt
được như vậy, thật tiếc, vẫn chưa phải là cứu cánh. Đó chỉ là giai đoạn sơ
khởi chuẩn bị lâu dài cho con đường tu tập của ta.
Với tinh thần tín mộ
Kinh LĂNG NGHIÊM, trong chúng ta, cần phải xã bỏ tâm thức dưới mọi hình
thái mới hy vọng đạt được tánh định sẵn có của tự tâm. Khi đã lìa
bỏ được tâm thức vọng niệm đó, ta mới nhận rõ được thể tánh thấy nghe,
hiểu biết thường tại trong các giác quan của mình. Nếu ta hiểu được tánh
sẵn có đó, cố gắng giữ gìn mãi, sẽ thành đại định chân thật. Đó là
tự tánh chơn định khác với lối định của phàm phu, ngoại đạo, quyền giáo,
tiểu thừa, căn cứ vào tâm thức thứ sáu làm nhân để tu định.
Vả lại, nếu trong
chúng ta mãi căn cứ vào tâm sanh diệt vọng động đó để tu định, thì định đó
sẽ tùy thuộc tâm sanh diệt của ta có nhập, trụ và xuất.
Lúc nhập thì có
định, khi xuất thì không có định, cảnh tịnh thì thuận, cảnh động thì trái
nghịch, như vậy định đó vẫn không thoát khỏi luân hồi sanh diệt.
Đó là nguyên nhân
cố gắng cưỡng ép tâm thức sanh diệt để cho yên định, sự thật chưa tỏ ngộ
được chơn tâm bất động sẵn có, đã nhận lầm giả tưởng là chơn thật.
Có nhiều kinh luận
vạch rõ thể tướng của chơn tâm, nhưng vẫn chưa chỉ thẳng trong thân hiện
tại của chúng sanh nó thuộc phần nào, nằm ở đâu! Vì thế phần lớn chúng
sanh tu hành xã bỏ được cái tâm phân biệt thô lậu, nhưng còn cố suy tư,
nghiên tầm những nghĩa lý thâm diệu, để cầu ngộ nhập chơn tâm, song cuối
cùng vẫn lọt vào lối cũ của phạm vi ý thức vi tế hơn, vẫn luân lưu trong
cảnh giới nhỏ hẹp cạn cợt. Kinh LĂNG NGHIÊM, Đức Thế Tôn co duỗi cánh tay,
nắm mở bàn tay, phóng quang hai bên tả hữu, để gạn hỏi ANAN về tính chất
động và tịnh. Do đó, ANAN hiểu được nơi thân mình cái diệu
tánh sẵn có–luôn luôn bất động, không liên hệ đến thân cảnh vọng động lao
xao. Trong chiều hướng lìa ngôn ngữ để chỉ bày thực tại, ngón tay phóng
quang của Đức Thế Tôn đẩy ANAN rời xa ý niệm tư duy để lãnh hội tánh bất
động của mình sẵn có, vì thế, đầu ANAN có lay động theo sự phóng quang của
Đức Phật, nhưng tánh thấy vẫn không hề lay động, thay đổi. Biết được điều
đó, thân ta dầu trải qua vô số kiếp trong nẻo luân hồi, nổi trôi trong
hằng sa thế giới, nay đây mai đó, cái tánh thấy vẫn thường hằng như hư
không, chẳng bao giờ suy giảm, dao động. Hiểu được như vậy, trong các động
tác hàng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta vẫn an trụ trong tự tánh
chơn định của mình. Thêm một lần nữa, vì lòng từ đối với chúng sanh lầm
lạc. Phật vạch rõ tánh nghe thường hằng của ta luôn luôn tồn tại, không
gián đoạn theo âm thinh ngoại cảnh, ngài lại đánh chuông để khai ngộ, ANAN
nhận là nghe chuông ngân khi còn phát tiếng, và hết nghe khi chuông im
lặng. Phật bảo rằng: với ý thức sai lầm chúng ta có nghe và không nghe
theo thinh trần, thật sự, tánh nghe–hay nói cách khác, bản chất của cái
nghe vẫn bất diệt.–Dưới hình thức khác của sự mê vọng–Phật lại chỉ rõ vọng
tưởng do ý thức phân biệt sai lầm như người đang ngủ nghe tiếng chày giã
gạo, cứ ngỡ tiếng trống hoặc âm động của một vật phát khởi. Tại sao với âm
động đó, khi thức, nhận định khác với lúc ngủ? Sự lầm lẫn đó là do ý thức
phân biệt có khác nhau, nhưng tánh nghe vẫn không thay đổi, thức cũng như
ngủ, vẫn lặng lẽ thường còn. Căn tánh là chơn thể của vạn vật, vạn vật là
giả tướng của căn tánh. Cái chơn tâm sâu kín nhiệm mầu, vẫn tàng ẩn dưới
dạng tánh thấy nghe thường nhật. Ngày nay, người học đạo ỷ lại vào tánh (thiên
chơn) của mình, không cầu đến chỗ cứu cánh. Nghe luận đến căn tánh hiện
khởi, lại chấp thủ lấy bản thể thường tịch, lìa bỏ sự tu chứng. Mới an trụ
vào bực sơ giải nhơn không (có tri kiến vô ngã) đã tự mãn, không ngờ rằng
vi tế nghiệp (vi tế phiền não) vẫn chưa tiêu, làm sao thoát khỏi cảnh giới
tình trần; Tâm sinh diệt chưa dứt, làm sao vượt khỏi muôn trùng khổ não
trong ba cõi để đạt chứng viên thông, như người canh giữ kho vàng mà vẫn
chịu nghèo nàn khổ lụy.
Có người hỏi:
– Phần đầu của kinh
bảo phải phá bỏ, xa lìa cái thức hư vọng, phần sau của kinh lại bảo thức
là chơn, cũng gọi là tạng tánh nghĩa ấy thế nào?.
Đáp:
– Thức, tuy là tạng
tâm, nhưng nó là căn bản của sanh tử, nếu không phá bỏ, chúng ta sẽ lầm
lẫn, dùng nó để tu tập như người nấu cát mong thành cơm. Thức tuy là vọng
động nhưng là hiện tượng của tâm (duy tâm sở hiện), nếu không dung nhập
với tạng tánh thì ngoài tâm còn có pháp hay sao? Vì bản chất của thức là
vọng tưởng nên phải dung nhập vào tâm để tránh sự trở ngại tu tập. Chung
qui vẫn không ngoài lời Phật dạy, tất cả trở thành diệu chỉ.
Trong kinh nói về
bốn khoa, bảy đại, ba Như Lai tạng, mười pháp giới
tâm, tất cả đều là thể lượng cùng cực của căn tánh. Người tu viên
thông phải hiểu rõ trong chỗ phản văn đã thâu gọn vạn hữu cùng tột nhất
chơn. Cả đến vấn đề khai thị tạng tánh sẵn có, chỉ là phương tiện cho
những người tu viên thông làm chỗ ngộ nhập. Vì vậy, chư Tổ trực chỉ chơn
tâm, phần nhiều không dùng văn tự: bằng những động tác đánh, hét hoặc kết
hợp với pháp khí thích ứng với trình độ người đương cơ sẽ đưa thẳng họ đến
nơi chứng đắc quả là diệu thủ. Nếu có dùng ngôn từ, cũng chỉ là phương
tiện đánh trúng mạch ngộ trong tự thân của kẻ cầu đạo mà vẫn không làm cho
họ trụ chấp ngôn ngữ. Trên pháp tọa, Đức Phật cầm nhánh hoa đưa lên giữa
đại chúng, Ca Diếp đã đáp lại bằng nụ cười thâm thúy lãnh hội. Đó là một
trong những động tác khai thị của thiền giới.
Vì căn cơ bất đồng,
thiền tông phải lìa ngôn ngữ, bên giáo phải dụng từ văn. Thiền gia muốn
hành giả hốt nhiên đại ngộ, không qua phương tiện ngôn ngữ, bên giáo tạo
cho hành giả nương vào văn tự, ngôn ngữ, để tỏ nhập chơn tâm.
Nay dùng nhĩ căn để
tu, áp dụng phương pháp phản văn (nghe trở lại tự tánh) tri giải (sự
hiểu biết, suy luận) phải chấm dứt, không nên bận tâm vào bất cứ điều gì,
phải giữ trạng thái thanh thản an nhiên. Lúc dụng công như vậy, mọi hiện
cảnh, trạng thái trước mắt cũng như trong tâm, không nên quan tâm lưu ý.
Chúng ta chỉ chuyên chú trong vô biên pháp giới ở tánh nghe mà thôi. Nhờ
chú tâm ở tánh nghe, nên ngoại cảnh động tịnh không thể chi phối ta được.
Và tâm thức cũng vậy, không liên quan đến tánh nghe, nên khi nhớ hay quên
vẫn không thay đổi nó được.
Tâm thức và tánh
thấy nghe v.v... như tấm kiếng và ảnh rọi vào. Khi thức khởi hiện gọi là
nhớ, như ảnh hiện vào tấm kiếng: khi thức diệt, gọi là quên như ảnh mất đi,
gương kiếng vẫn không bị tác động chi phối hay ngăn ngại. Cũng như vậy,
tánh thấy nghe không hề gia giảm bởi tâm thức. Điều này bên tông gia gọi
là thời tiết hợp thành một khối.
Vì thế lối tu pháp
“Tự tánh bổn định” này khác hẳn với lối tu chỉ quán thông thường. Thường
thường, chỉ quán là do công phu luyện tập lâu ngày thuần thục mới kết hợp
được tâm và cảnh nhất như, không lấy ngay tự tánh sẵn có làm định. Trái
lại, Kinh LĂNG NGHIÊM dùng định viên mãn của tự tâm sẵn có làm THỦ LĂNG
NGHIÊM, không khởi tâm đối cảnh để chỉ quán sanh định.
Người hành pháp nắm
được thể tánh chiếu diệu đó, liền khởi công tu luyện gọi là vi mật quán
chiếu–không cần lấy tư duy tu tập làm quán. Chúng ta nên nhớ rằng cái
định này vốn tự tánh sẵn có, thường hằng, không ngoài tự tánh bất động,
còn gồm thâu cả muôn pháp vạn sự vốn xưa nay bất động cùng làm một thể
chơn định. Nếu không gồm cả vạn hữu đó, mà chỉ ở nhất tâm bất động, đều
không phải cái định viên dung.
Kinh LĂNG NGHIÊM còn
dạy:
Dù diệt hết điều
thấy nghe hay biết, vẫn giữ cái u nhàn tịch tịnh bên trong thì vẫn còn
bóng dáng của pháp trần phân biệt. Đó là trạng thái của phàm phu, ngoại
đạo, tiểu thừa và quyền giáo chấp trụ cho là pháp tánh–thật ra chỉ là bóng
dọi của pháp trần,–không phải vật thể. Không biết rằng các pháp vốn không,
bỏ bên ngoài nương vào bên trong chẳng khác nào cảnh ngoài vẫn còn hiện
trong gương. Chỉ là trạng thái tương tợ bất động, kỳ thật trong ức niệm
vẫn tồn tại chủng thức ngoại vật; cái hình bóng pháp trần bất động tịch
tịnh đó vẫn không thể diệt được. Các hàng phàm phu, ngoại đạo, quyền giáo,
tiểu thừa đều lấy ý thức tư duy làm quán, ý thức yên định làm chỉ, lìa ý
thức ấy ra không có cái thể định huệ nào khác, vì vậy, căn bản vốn là phân
biệt thì không thể nào dứt khoát hư vọng.
Vả lại, cảnh là pháp
trần, tâm sanh phân biệt, cảnh và tâm không thể rời nhau, mà tự cho là
thanh tịnh, kỳ thật toàn là hư vọng loạn động và hư chuyển. Nếu định có
xuất có nhập, đều thuộc vi tế phân biệt, chỉ nương vào vi tế phân biệt đó
để duy trì cảnh tịch tịnh kia, một khi không phân biệt nữa, cảnh tịch định
liền mất, gọi là xuất định. Tu LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH không thể như vậy.
Trên đây là phần
phá thức hiển tâm để chỉ rõ cái định.–Thuộc phần tông chỉ đã xong.
PHẦN II
VÀO
ĐƯỜNG TU CHỨNG
CÔNG PHU TẤN TU
Hạ thủ
công phu đầu tiên là chuyên nghe trở lại tự tánh. Nghe trở lại tự
tánh không phải là lối nghe thông thường bằng nhĩ căn, hiểu biết bằng nhĩ
thức, mà chỉ là tánh nghe trong nhĩ căn, tức là cái lý thể vô phân biệt.
Với tánh nghe này, dù có hay không có âm thanh vẫn được sáng tỏ rõ ràng,
không sai sót, giống như tánh thấy vậy. Như tấm kiếng dù có hình hay không
hình, kiếng vẫn sáng tỏ.
Hễ lìa
xa ức niệm, tánh thể thoáng đạt thênh thang như hư không vẫn thường hằng
phổ biến, vì vậy tánh nghe nếu không sanh khởi vọng niệm, sẽ chiếu khắp
pháp giới, đó là đạo tràng nhất thừa tịch diệt vậy.
Nếu
hành giả chưa lãnh hội hoàn toàn một cách rõ ràng thì khi tĩnh tọa cũng có
thể nhận rõ đích xác. Khi tĩnh tọa được một niệm không sanh, có thể tánh
nghe này được thấy rõ rỗng rang, trong sáng, chiếu diệu, chiếu khắp, không
gì ngăn ngại, nghe suốt mọi tiếng tăm. Cho đến lúc bên ngoài không tiếng
động tánh nghe này càng rộng khắp không giới hạn (vô biên tế).
Đây chỉ
căn cứ vào cái quán xét tiếng tăm, nêu rõ cái thể tánh nghe, không lấy
cảnh động tịnh bên ngoài làm tánh nghe... Khi đạt được tánh nghe này mới
biết nó sẵn có tự bao giờ, không do tu mới thành, chúng ta bị ám thị ngoại
cảnh do loạn tâm nên không biết.
Vậy làm
thế nào để nhập vào cảnh giới ấy?–Không cách nào khác hơn là phải tự nghe
trở vào bên trong tự tánh của mình. Tuyệt đối một niệm không móng khởi,
hồi quang phản chiếu vào tự tánh. Khiến diệu cảnh thường hiện hữu, vắng
lặng, trong sáng, không được gián đoạn. Thiền gọi là công phu miên mật.
Chú tâm
thường xuyên vào tự tánh gọi là nhập lưu, vọng ngoại theo tiếng gọi là
xuất lưu. Dùng cách nhập lưu trở về tự tánh gọi là hiệp giác (hợp với tánh
giác), lìa bỏ mọi âm thinh ngoại cảnh (thinh trần) gọi là bội trần (phủi
bỏ trần cảnh). Một khi hành giả không chú tâm vào tiếng tăm bên ngoài, chỉ
hướng vào trong tánh nghe an trụ lặng lẽ, thời những phân biệt thô thiển
không còn nữa, tánh nghe sẽ hiện rõ như mặt nguyệt mùa thu, trong suốt.
Nếu thoáng chốc lưu tâm đến âm động bên ngoài, tánh nghe sẽ mờ mịt, không
còn sáng suốt nữa. Vì vậy không bao giờ quan tâm đến động tịnh, (động tịnh
đều không) mới thành tự tánh bổn định.
Một khi
hạ thủ công phu phải ít nói, ít động, càng tịnh càng tốt. Trường hợp bất
đắc dĩ phải nói năng, tánh nghe đang hạ thủ công phu vẫn không gia giảm.
Trước khi hạ thủ công phu, hành giả phải nghiên cứu thật tường tận nghĩa
lý trong kinh, để được thông suốt, khi bắt tay thực hiện, lúc bấy giờ
không còn vướng bận tri giải: Thiền tông gọi là đơn đao trực nhập.
Nhập lưu
là hiệp giác chiếu lý, cũng là phép quán nhiệm màu giản tiện. Vọng sở là
bội trần dứt vọng cũng là phép chỉ nhiệm màu giản tiện. Thật hành lâu dài
chắc chắn thành tựu. Thể dụng viên dung kín nhiệm đều do tâm địa phát ra.
Đó gọi là phát minh bổn tánh, chơn như diệu giác sáng suốt.
Tuy
hành giả hạ thủ công phu phản văn tự tánh, không chuyên tĩnh tọa, nhưng
bậc sơ khởi cũng phải cố gắng dụng công tọa định thuần thục. Tuyệt đối bỏ
quên ngoại cảnh, thậm chí những việc thiện lăng xăng đều không làm huống
là các điều thế sự. Nếu ai hỏi đến đạo lý, phải nương tựa vào phép phản
văn đó, trả lời đơn giản, không nên nói nhiều, những lúc lễ Phật, ăn mặc,
nói năng, lưu động trong bốn oai nghi phải phát khởi làm cho tánh nghe
được rõ ràng. Trong lúc đó, tánh nghe là toàn thể pháp giới vậy.
Hỏi:
– Dứt trần động, nay
lại dứt trần tịnh, Thinh trần (động) trái với tánh nghe nên dứt dễ dàng.
Nay trần tịnh cùng lặng lẽ như tánh nghe, thuận hợp với nhau làm sao dứt
bỏ?
Đáp:
– Nếu
tánh nghe được hiển lộ, tịnh trần kia dứt không khó. Vì tánh nghe là tâm,
tịnh trần là cảnh, tâm là linh tri bất muội, còn cảnh thì vô tri, tăm tối,
cảnh là cảnh, tâm là tâm rất dễ phân biệt. Nếu hành giả chưa thấy tự tâm,
tập nhiếp niệm thành định, lần lần đi sâu vào định tâm, từ sức định đó cảm
biết rộng lớn vô cùng, nhưng nó cũng là cảnh giới tịnh trần. Đến khi định
lực kia hết rồi tịnh trần (cảnh giới tịch tĩnh) cũng không còn. Ngộ được
tự tâm, thấy rõ tánh nghe xưa nay tịnh lặng vô biên, không do nhiếp niệm
mà thành, không nương ngoại cảnh mà có, như vậy tánh nghe và tịnh trần
không liên hệ gì với nhau. Công phu phản văn càng thâm thúy, tánh nghe
càng tỏ, thì động và tịnh trần càng xa lìa.
Tu đến
đây là cùng tột của sự vong trần, về công năng ngôi vị, ngang hàng sơ quả
của nhị thừa. Kinh KIM CANG nói: Gọi là nhập lưu mà thật ra không có chỗ
vào, vì không vào, sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là Tu-Đà-Hoàn.
Đây là khi lìa được thinh trần thì 6 trần kia đều chấm dứt.
Phần
trên là giải thoát hai trần động tịnh, nay cởi bỏ đến nhĩ căn. Trước đây
khởi phương tiện lìa tiếng động tịnh (vong trần) nên lập có hai thứ:
năng văn và sở văn (cái nghe và cái bị nghe) tức là căn và trần. Khi
cái tướng của tiền trần chấm dứt, không có đối tượng thì căn cũng không
còn, cả năng và sở đều chấm dứt.
Căn
diệt nhưng tánh vẫn còn; căn trần đều dứt năng sở đều vong, không còn tự
tha, chỉ một pháp tánh gọi là nhơn không, địa vị đồng thời với A LA
HÁN, quả thứ tư của tiểu thừa; Kiến hoặc và tư hoặc đều chấm dứt (cái thấy
hiểu sai lầm và nghiệp tập đều chấm dứt). Khi thoát khỏi cả căn và trần,
tịch cảnh (tâm tịnh) hiện ra, đó là cảnh sở giác (cảnh được ngộ). Cái trí
chiếu soi cảnh sở giác gọi là năng giác (trí ngộ, trí chứng).
– Giác
và sở giác đều không là gì?
– Trí
năng giác và cảnh sở giác đều rỗng lặng, không còn tương đãi đối lập nhau.
Đến đây ra khỏi giác quán, lìa được pháp chấp, đoạn dứt phân biệt phiền
não nhỏ nhiệm.
Bây giờ
tiếp đến thoát ly trí trùng không (hai cái không). Tức là trí diệt
hết cả cái trí và cảnh không đã nói ở trên. Bởi vì cái trí
trùng không vừa khởi lên chưa đầy đủ nên cái trí và cảnh không đó trở
thành cảnh sở không, và cái trí trùng không thành trí năng không, cả hai
vẫn tồn tại. Vì vậy, chẳng những trí cảnh sở không kia phải dứt, mà cái
trí trùng không cũng phải diệt luôn. Khi duyên ảnh chướng ngại vi tế
đó chấm dứt, thành tựu được pháp giải thoát (pháp không), tánh thể chơn
quang hiển lộ, trần sa hoặc sạch hết.
Trên đây
giải rõ tướng câu không bất sanh. Đồng thời cũng nói sáu gút: ĐỘNG–TỊNH–CĂN–GIÁC–KHÔNG–DIỆT
đều do tâm sanh diệt:
1)
Giải rõ ĐỘNG diệt TỊNH sanh
2)
Giải rõ TRẦN diệt CĂN sanh
3)
Giải rõ CĂN diệt GIÁC sanh
4)
Giải rõ GIÁC diệt KHÔNG sanh
5)
Giải rõ KHÔNG diệt DIỆT sanh
Nếu chấp trước vào
tướng diệt cuối cùng, sẽ bị tướng diệt che đậy, trụ luôn vào
cảnh câu không (hai lớp không), đó là rơi sâu vào chỗ chướng mê vi tế cho
nên khi tiến đạt đến chỗ cao sâu, phải thận trọng thoát khỏi tâm vướng mắc
trụ chấp đó (nói theo chư Tổ: Ở trên đầu sào trăm thước, bước thêm một
bước). Tổ sư gọi đó là chỗ vướng sau cùng. Song việc đó không đòi hỏi công
phu lao nhọc, chỉ cần tâm không trụ, không trước là được (vô công dụng đạo);
chỉ một thời gian ngắn tánh lý tỏ lộ, liền được thoát ly diệt tướng. Khi
lý thể hiện tiền, thì sơn hà đại địa chuyển hóa thành tri giác vô thượng,
thần thông diệu dụng từ đó phát sanh. Những điều trên nói về việc tu hành
dụng công theo thứ tự từ thấp đến cao đã hoàn tất.
PHẦN
III
MỞ CĂN TRỪ GÚT
Các căn
bị gút buộc do tâm tánh cuồng vọng mê chấp pháp trần, từ tế đến thô theo
chiều thuận kết thành. Các căn được mở trừ do từ lao nhọc mê chấp pháp
trần ngược giòng tâm tánh cuồng loạn, từ thô đến tế theo chiều nghịch giải
trừ. Vì cậy, căn này trước tiên cởi mở, liền được nhơn không. Bởi ban sơ
dứt ĐỘNG trần (nhập lưu vong sở = vào vòng thánh dứt thanh trần) trừ được
gút thứ sáu, kế tiếp dứt TỊNH trần (động tịnh bất sanh) là trừ gút
thứ năm, tương đương quả vị TU-ĐÀ-HOÀN, đoạn được phân biệt ngã chấp
tức là phần kiến hoặc.
Tiếp
theo dứt hết căn nghe, trừ gút thứ tư (văn sở văn tận). Đến đây tương
đương với ba quả sau, đoạn được câu sanh ngã chấp tức là tư hoặc.
Đã được nhơn không thì không còn chấp nhơn nữa, nên gọi là những việc lao
nhọc mê chấp pháp trần cùng tất cả sự sanh tử đều chấm dứt. Từ đó đạt được
tánh không tròn sáng, thành tựu pháp giải thoát, liền xã được trí ái
(giác và sở giác đều không) đoạn được phân biệt pháp chấp, trừ được
gút thứ ba. Kế đó xã lý ái (không và sở không đều diệt) tức
đoạn được câu sanh pháp chấp, trừ được gút thứ hai. Nếu KHÔNG được
NHƠN, chưa KHÔNG được PHÁP thì chỉ được phần ít của không, chưa
phải là viên minh. Cho nên đến quả vị pháp giải thoát mới được viên minh.
Trừ được pháp chấp, tri kiến vọng phát Niết Bàn xuất thế đều diệt.
– Do
giải thoát pháp, không còn sanh khởi tướng câu không.
– Do chứng nhơn
không, thời hai thứ phân biệt ngã kiến và câu sanh ngã kiến không còn.
– Do
chứng pháp không, thời hai món phân biệt pháp chấp và câu sanh pháp chấp
cũng dứt.
Mặc dầu
chứng nhị không (ngã-pháp không) mà vẫn còn tướng nhị không. Tiến
lên không cả nhị không thì gọi là câu không bất sanh. Sanh
diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền (dứt hết sanh diệt, tướng tịch diệt hiện
ra) trừ được gút thứ nhất. Bấy giờ tâm tánh cuồng loạn dứt hết, sơn hà đại
địa hiển hiện vô thượng tri giác.
Mở căn
trừ gút đến đây gọi là Bồ Tát từ diệu nhân tam-ma-địa (chánh định) được
diệu quả vô sanh nhẫn. Trong kết quả này, Bồ Tát không còn thấy có pháp
nào sanh, pháp nào diệt, nên gọi là vô sanh nhẫn, chứng đến quả địa
phát tâm trụ (sở trụ của (phát) viên giáo). (Thập trụ còn gọi là thập
địa. Ngộ nhập lý Bát Nhã gọi là trụ. An trụ tánh Bát Nhã sanh khởi các
công đức gọi là địa).
PHẦN IV
ĐIỀU KIỆN
TIÊN QUYẾT
Các kinh
vì lòng từ để nhiếp hóa chúng sanh nêu giới sát làm đầu. Riêng kinh LĂNG
NGHIÊM, nêu giới dâm đầu tiên, vì chơn tu phải lấy sự ly dục làm gốc.
Vì khí
chất của tâm dục thô trược làm ô nhiễm tánh thể diệu minh, tánh dục cuồng
mê dễ làm mất năng lực chánh định, đọa lạc sanh tử che mất tự tánh chơn
thường, vì vậy giới dâm phải đứng đầu.
Tôn chỉ
kinh này là đại định, mà dâm ái là điều tai hại lớn cho môn định, nên khởi
đầu kinh lấy nguyên nhân ông ANAN, em Phật, bị sa vào tay dâm nữ để khai
thị–y cứ vào hảo tướng trang nghiêm đầy công đức của Phật–ANAN đã phát tâm
tu hành, quên căn bản tánh dục tự tâm chưa diệt sạch, nên đã bị ma nữ cám
dỗ, liền bị sa ngã. Phật bảo ANAN:–Thế nào là nhiếp tâm? Ta gọi là giới.
Trong luật những tội có phân ra nặng nhẹ, mà tội dâm, sát, đạo, vọng là
nặng nhất.
Nói về
giới dâm, nếu chúng sanh trong sáu nẻo tâm không khởi dâm, thì sanh tử sẽ
chấm dứt. Chẳng những thân không phạm dâm, tâm cũng không móng niệm. Chúng
sanh vì từ nơi dâm mới có tánh mạng, nên bị ràng buộc mãi trong vòng sanh
tử. Nay tu nhĩ căn tam muội viên thông, bổn ý ra khởi trần lao.
Nếu tâm
dâm không diệt thì hai món kiến hoặc và tư hoặc khó hết làm sao ra khỏi
trần lao sanh tử! Dẫu có nhiều trí tuệ biện tài thông suốt, thiền định
hiện ra cảnh giới tốt đẹp, mà tâm dâm không dứt, lúc thiện định niệm dâm
không xã, suy tư lăng xăng, cảnh dục theo đó sẽ hiện ra. Tâm niệm ở trong
cảnh dục, mà cảnh dục chẳng khác cảnh ma, chắc chắn sẽ lạc vào đường ma.
Tùy theo phúc báu dày mỏng, có ba loại ma: Thượng, Trung, Hạ. Nếu không
làm Ma Vương thì làm ma dân hoặc ma nữ. Những người có chí xuất trần quyết
phải đoạn trừ thân dâm và tâm dâm. Thân dâm do từ tâm, tâm dâm do từ niệm
rong ruổi sanh ra. Một niệm không sanh thì thân tâm đều dứt. Nhưng tánh
dứt trừ vẫn còn thì cái ái dục, đối tượng của cái dứt trừ đó vẫn chưa tiêu.
Vì vậy cả ái dục và tánh dứt ái dục đều tiêu trừ như bệnh và thuốc đều
sạch mới gọi là người hết bịnh, hầu mong đạt đến đạo quả Bồ Đề.
PHẦN V
QUẢ VỊ THÁNH ĐẠO
Công
hạnh đầu tiên vào thánh đạo là phải khô kiệt nguồn ái dục, tâm tánh rỗng
rang, sáng suốt mới chứng được tánh diệu viên. Khi chơn tánh tròn sáng,
tập khí vi tế sẽ hiển lộ, từ đó mới chuyển hóa tiêu tán tập khí, chỉ còn
thuần trí mà thôi.
Từ địa
vị Càng Huệ cho đến Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng 41 tâm
điều thanh tịnh. Song hàng Thập Tín là tợ tu, chỉ viên mãn tín tâm. Hàng
Tam Hiển cũng tợ tu, kỳ thực chỉ đến cùng cực giải tâm, đều chẳng phải
chơn tu. (Bực ngộ chơn tánh tiến tu theo tự tánh mới gọi là chơn tu). Từ
tín tâm viên mãn đến giải tâm cùng cực, mới sắp sửa vào đường chơn tu.
Nếu
chẳng trụ tâm, không thể thành đức, chẳng chứa đức không thể tự-lợi, chẳng
tự lợi không thể lợi tha. Cho nên đức đã thành, thần thông đã đủ, đại
nguyện đã tròn, khởi 4 món gia hạnh sâu màu, đào thải tất cả tình chấp,
trung đạo không lập, tâm Phật đều vong, bây giờ mới lên hàng Thập Địa. Tất
cả Phật Pháp đều y theo tâm địa đó phát sanh.
Hỏi:
– Từ sơ
trụ đến đẳng giác của viên giáo đều một phần đoạn vô minh, một phần chứng
chơn lý, tại sao tu đến đây còn dùng bốn món gia hạnh mới vào được hàng
Địa?
Đáp:
– Nếu
nói về sự đốn ngộ, thì nhơn trùm biển quả (nguyên nhân bao trùm hằng sa
quả báo), quả suốt nguồn nhơn, khi vừa phát tâm liền thành chánh giác,
không phân biệt cấp bực thứ lớp.
Nếu
luận về tu chứng, bực Thập Địa gọi là chơn tu, thì thấy rõ các bực trước
Thập Địa đều là tợ tu. Quả vị Phật là chơn chứng, thì Thập Địa là tợ chứng.
Vậy sơ tâm là cứu cánh tâm, lý đốn ngộ tuy đồng nhau, nhưng qua ngôi vị
cạn sâu, thứ lớp không thể lộn xộn, viên dung và giai bậc không thể trở
ngại nhau. Vả lại từ Càng Huệ đến Thập Địa đều là chỗ sở dụng của Bồ Tát
để thẳng tới biển quả. Trải qua 54 vị đến bực đẳng giác chấm dứt sanh
tướng vô minh, mới được viên mãn quang minh, chứng nhập diệu giác thì nhơn
mới tròn, quả mới mãn, thành tựu đạo quả Vô Thượng Chánh Chơn.
PHẦN VI
CẢNH GIỚI BẢY
THÚ
Bảy thú
đều lấy tình (cảm), (ý) tưởng làm nhân. Nếu không đắm theo tình, ba đường
không có, nếu không đắm theo tưởng, thiên đàng bỏ không. Tình tưởng đều
không thì ở nhân gian vẫn là cõi tịnh độ. Vì thế, tâm tạo tác, tâm phá
hoại được tất cả. Trời, người, súc sanh, địa ngục đều do tâm sanh ra. Nếu
biết ngoài tâm không có pháp thì lấy gì làm đối tượng để tình và tưởng say
đắm? Vì thế Y báo, Chánh báo, A-tỳ Địa ngục đều không ngoài Tâm, Bậc cực
thánh, pháp thân chư Phật không lìa một niệm của kẻ cực phàm. Từ cõi trời,
Tứ Vương đến cõi trời Phi Tưởng, do tu Thập Thiện, Bát Định, mà vua và dân
trời hưởng quả báo ở dục giới và cõi Tứ Thiền, hết phước vẫn trở lại luân
hồi. Các vị Vua Trời hoặc các vị Bồ Tát, nương ở ngôi vị đó, để tấn tu nên
không sa vào vòng luân hồi nữa.
Hỏi:
– Các
cõi trên không tạo ác sao cũng có vị bị đọa thẳng vào tam đồ?
Đáp:
– Trong
tạng thức huân tập nhiều chủng tử thiện ác, tốt xấu, hưởng hết quả tốt sẽ
đến quả xấu, tùy theo chủng tử nào đủ nhân duyên khởi sanh trước sẽ đầu
dẫn đi trước. Vì vậy mà Phật khuyên chúng ta, chuyên tâm niệm Phật, cầu
sang Tây Phương theo đường tắc là thế.
Hai mươi
tám tầng trời trong ba cõi đều do không hiểu bản tâm diệu giác sáng suốt
sẵn có của mình, nên từ mê, chứa chấp thêm mê, khởi sanh ra ba đường luân
hồi mãi. Liễu đạt được tự tâm diệu giác thì ba cõi đều không, bảy thú tiêu
diệt, liền hóa thành Tri Giác Vô Thượng.
PHẦN VII
PHÁP TRỪ MA CẢNH
Hành giả
lưu ý, khi dụng công phản văn, trong cảnh định phát sanh hiện tượng của
ma, cần phân biệt rõ cảnh ma, cảnh ấy mình không biết, bỗng hiện ra hợp
với tâm mình, nên khó phân biệt tà hay chánh. Nếu hành giả tà niệm chưa
dứt sạch, ma nương vào chỗ hở đó lôi cuốn ta vào tà kiến. Trong kinh nói 5
ấm, mỗi ấm có 10 thứ ma, 10 món ma trong sắc ấm chính từ kẻ sơ tâm hiện ra,
không phải ngoại ma, 10 món ma trong thọ ấm tuy triệu tập ngoại ma, vẫn
còn âm thầm hiệp với thân chưa hiện ra hình. Hoặc là thiên ma, hoặc mắc
quỷ thần, hoặc bị lừa mị dối gạt v.v... là 10 món ma trong tưởng ấm. Hoặc
nhận mình là thánh, hoặc nhận ma là thánh, đều do ma mê hoặc. Trong hành
ấm cũng phát ra 10 món tâm ma. Trong thức ấm phát ra 10 món kiến ma đều
không phải ngoại cảnh, do tà kiến khởi sanh. Hành giả lấy làm tự mãn khi
chứng đạt một phần nhỏ nên phát sanh ra như vậy. Hành giả gặp cảnh ma hiện
ra, chớ nên sợ sệt, Ma tuy có sức mạnh giận dữ cũng là vật trần lao, đâu
bằng hành giả trong tánh diệu giác rỗng lặng chu biến 10 phương. Nếu ma
muốn làm hại hành giả, như gió thổi ánh sáng, như dao chặt nước, không thể
nào được. Ví như kẻ cướp đến quấy phá, hành giả vẫn an nhiên tự tại, không
khiếp sợ, dao động, mừng giận, thương ghét. Phải phát tâm quán soi lý tánh
thì ma kia không làm hại được. Hành giả thắng ma, không phải do sức mạnh
mà do định lực mạnh, âm khí tiêu tan, quang minh chiếu rọi, không có chỗ
cho ma trú ẩn, nên hành giả không thể bị ma nhiễu loạn. Điều này chỉ có
bực giác ngộ mới khỏi lầm.
PHẦN VIII
TỔNG KẾT
PHÁP
MÔN TIỆN LỢI
Pháp tu
nhĩ căn viên thông rất tiện lợi, giản dị. Lúc hạ thủ phản văn, liền lìa
mọi ý niệm phân biệt, không bận nhiều việc, mượn âm thanh hiểu rõ cái nghe,
không lấy cảnh bị nghe động tịnh làm cái nghe. Đây là do cái tánh nghe
để nghe rõ tiếng tăm mà không phải do tiếng tăm tạo thành cái nghe.
Phải
hiểu rằng cái nghe này là một niệm không sanh. Tánh nghe lìa tướng nghe và
bị nghe, thường nghe thấu suốt mười phương, bao hàm muôn pháp. Tánh nghe
này đều có tiếng phát hay không có tiếng phát, vẫn rõ ràng như tánh thấy.
Hành giả chưa liễu ngộ hoàn toàn, khi tĩnh tọa cũng có thể nhận rõ điều đó.
Khi tĩnh tọa, nhất niệm bất sanh, sẽ biết được tánh nghe rỗng lặng khắp
nơi, tiếng tăm xa gần đều hiện rõ trong tánh nghe một cách trọn vẹn.
Lúc yên
tĩnh tính nghe chu biến vô cùng, do đó mới biết diệu tánh vốn sẵn có, vì
loạn tâm nên tạm bị ngăn che.
Kết lại,
hành giả dụng công ra tay tu tập phải hoàn toàn và thường xuyên chú tâm
vào cái nghe, nghe lại cái tánh nghe bên trong của mình, không để bị gián
đoạn, bị chi phối bởi ngoại cảnh, lâu ngày sẽ đạt đại định.
Lúc ấy,
dù có dùng tâm thức khởi diệt cũng không biến đổi được tánh nghe (vì tánh
nghe không liên hệ gì đến tâm thức). Mới hiểu rằng tánh nghe trong sáng
rỗng lặng chu biến cùng khắp vậy.
Tu Viện HUỆ
QUANG
THÍCH HUỆ
HƯNG phỏng dịch
GHI CHÚ
4 KHOA: Năm ấm, sáu nhập, mười hai sứ, 18 giới
7 ĐẠI: Địa Đại, Thủy Đại, Hỏa Đại, Phong Đại, Không Đại,
Kiến Đại, Thức Đại.
Trong
Kinh tóm thủ bốn khoa và bảy đại về Như Lai Tạng để phát khởi chơn ngộ.
3 NHƯ LAI TẠNG:
1) Không Như Lai
Tạng: Tạng thể vô tướng
2) Bất không Như Lai
Tạng: Tạng thể đầy đủ các pháp sinh khởi và tiếp tục.
3) Không Bất không
Như Lai Tạng: Tạng thể viên dung phi tức phi ly.
10 PHÁP GIỚI TÂM:
Tâm gồm
chứa đầy đủ chủng tử 10 pháp giới:
1)
Phật; 2) Bồ Tát; 3) Duyên Gíc; 4) Thanh Văn; 5) Thiên; 6) Nhơn;
7) Atula; 8) Súc
sanh; 9) Ngạ quỷ; 10) Địa Ngục.
TỨ GIA HẠNH
1) Noãn;
2) Đảnh; 3) Nhẫn; 4) Thế Đệ Nhứt.
Tiếp
theo 10 vị Hồi Hướng là 4 vị Gia Hạnh.
Pháp
giới bình đẳng, tính đức được viên thành chỗ giác ngộ như Phật, tức lấy
cái Phật Giác làm tâm mình. Diệt trừ các pháp nhỏ nhiệm, cũng như khi dùi
cho ra lửa để đốt cái cây, vừa mới có hơi ấm, thì gọi là Noãn Địa.
Lấy cái
tâm mình làm chỗ nương đứng của Phật, như lên chót vót núi cao, thân đã
vào hư không mà bên dưới còn chút nương tựa làm ngăn ngại, thì gọi là Đảnh
Địa.
Tâm và
Phật đồng nhau, Tâm và Phật đều không thể phân biệt, không phải quên,
không phải nhớ, khéo được Trung Đạo, gọi là Nhẫn Địa.
Mê, Ngộ
bình đẳng, gọi là Trung Đạo và cả cái Trung Đạo không còn nữa, gọi là Thế
Đệ Nhứt Địa.
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính :
Mỹ Hồ