Quyển
Thứ Hai
PHẨM
'TÍN GIẢI' THỨ TƯ
-
Lúc bấy giờ,
các Ngài Tuệ-Mệnh Tu-Bồ-Đề, Đại Ca-Chiên-Diên, Đại Ca-Diếp,
Đại Mục-Kiền-Liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng
có. Đức Thế-Tôn dự ghi cho Ngài Xá-Lợi-Phất sẽ thành
vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, sanh lòng hy hữu hớn hở
vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục trịch
bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chấp tay cúi
mình cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch cùng Phật
rằng : "Chúng con ở đầu trong hàng Tăng, tuổi đều già lụn,
tự cho đã được Niết-bàn không kham nhiệm gì nữa, chẳng
còn thẳng cầu thêm đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác."
Đức
Thế-Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi
nơi toà thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp : Không,
vô tướng, vô tác, đối với các pháp du hý thần thông, tịnh
cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-Tát, lòng chúng
con không ưa thích.
Vì sao? Đức
Thế-Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi được chứng Niết-bàn,
lại nay đây chúng con tuổi đã già nua ở nơi đạo vô-thượng
chánh-đẳng chánh-giác của Phật dạy Bồ-Tát không hề sanh
một niệm ưa thích.Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thọ
ký cho Thanh-văn sẽ được vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác,
lòng rất vui mừng được pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm
nay bỗng nhiên được pháp hy hữu, tự rất mừng may được
lợi lành lớn, vô lượng trân báu chẳng tìm cầu mà tự
được.
-
Thế-Tôn! chúng
con hôm nay xin nói thí dụ để chỉ rõ nghĩa đó.
Thí như
có người tuổi thơ bé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước
khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó
tuổi đã lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, dong ruổi bốn
phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình
cờ về bổn quốc.
Người cha
từ trước đến nay, tìm con không được bèn ở lại tại
một thành trong nước đó. Nhà ông giàu lớn của báu vô lượng,
các kho đụn, vàng, bạc, lưu ly, san-hô, hổ-phách, pha lê,
châu ngọc v.v... thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá,
lại dân rất đông, voi, ngựa, xe cộ bò dê nhiều vô số.
Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương
buôn bán cũng rất đông nhiều.
Bấy giờ,
gã nghèo kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng, lần
hồi đến nơi thành của người cha ở.
Người cha
hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn
chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy
nghĩ già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho
đụn tràn đầy, không có con cái, một mai mà chết mất thì
của cải tản thất không người giao phó. Cho nên ân cần
nhớ luôn đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp được con ủy
phó của cải, thản nhiên khoái lạc không còn sầu lo.
-
Thưa Thế-Tôn!
Bấy giờ gã cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ
đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi
giường sư tử, ghế báu đỡ chân, các hàng Bà-la-môn, Sát-đế-lợi,
Cư-sĩ đều cung kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuổi
ngọc chân châu giá trị nghìn vạn để trang nghiêm, kẻ lại
dân tôi tớ tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên.
Màn báu che trên, những phan đẹp thòng xuống, nước thơm
rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày,
phát ra, thâu vào, lấy, cho v.v... có các sự nghiêm sức dường
ấy, uy đức rất tôn trọng.
Gã cùng
tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh lòng lo sợ, hối
hận về việc đến nhà này, nó thầm nghĩ rằng : "Ông này
chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải là chỗ
của ta làm thuê mướn được tiền vật.
Chẳng bằng
ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức dễ được đồ
mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ
sẽ bức ngặt ép sai ta làm". Gã nghĩ như thế rồi, liền
chạy mau đi thẳng.
-
Khi đó, ông
Trưởng-giả ngồi nơi tòa sư tử thấy con bèn nhớ biết,
lòng rất vui mừng mà tự nghĩ rằng: 'Của cải kho tàng của
ta nay đã có người giao phó rồi, ta thường nghĩ nhớ đứa
con này làm sao gặp được, nay bỗng nó tự đến rất vừa
chỗ muốn của ta, ta dầu tuổi già có vẫn tham tiếc'. Ông
liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại.
Lúc ấy,
kẻ sứ giả chạy mau qua bắt, gã cùng tử kinh ngạc lớn
tiếng kêu oan : "Tôi không hề xúc phạm, cớ sao lại bị bắt?"
Kẻ sứ giả bắt đó càng gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó
gã cùng tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc
định phải chết, lại càng sợ sệt mê ngất ngã xuống đất.
Người cha
xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ giả rằng : "Không cần
người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới
trên mặt cho nó tỉnh lại đừng nói chi với nó".
Vì sao? Cha
biết con mình chí ý hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm
khiếp sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện
chẳng nói với người khác biết là con mình. Kẻ sứ giả
nói với cùng tư û: "Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ý".
Gã cùng tử
vui mừng được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng
dậy, qua đến xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc.
-
Bấy giờ ông
Trưởng-giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước phương
tiện, mật sai hai người, hình sắc tiều tụy không có oai
đức: 'Hai người nên qua xóm kia từ từ nói với gã cùng
tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gã cùng tử
nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi
muốn sai làm gì? Thì nên nói với nó rằng: 'Thuê người hốt
phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung nhau làm.' Khi
đó hai người sứ liền tìm gã cùng tử, rồi thuật đủ
việc như trên.
-
Bấy
giờ gã cùng tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân.
Người cha thấy con, thương xót và quái lạ. Lại một ngày khác
ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tụy, phân đất bụi
bặm dơ dáy không sạch. Ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn
màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất
lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ,
bảo những người làm rằng: 'Các ngươi phải siêng làm việc
chớ nên lười nghỉ!' Dùng phương tiện đó được đến gần người
con.
Lúc
sau lại bảo con rằng : "Gã nam tử này! Ngươi thường làm ở
đây đừng lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi;
những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối,
dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu
cần ta cấp cho, nên phải an lòng, ta như cha của ngươi chớ có
sầu lo".
Vì
sao? Vì ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường
trong lúc làm việc không lòng dối khi trễ nải giận hờn nói
lời thán oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó như
các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con đẻ của
ta. Tức thời Trưởng-giả lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là
"con".
Khi
đó gã cùng tử, dầu mừng việc tình cờ đó song vẫn còn tự
cho mình là khách, là người làm công hèn, vì cớ đó mà trong hai
mươi năm thường sai hốt phân, sau đó lòng gã mới lần thể tin
ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gã ở cũng vẫn nguyên chỗ cũ.
-
Thế-Tôn! Bấy
giờ Trưởng-giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ
chết mới bảo cùng tử rằng : "Ta nay rất nhiều vàng bạc,
trân, báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng
xài dùng ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế, ngươi
nên thể theo ý ta.
Vì sao?
Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ
để sót mất" .Khi ấy cùng tử liền nhận lời bảo lãnh
biết các của vật, vàng, bạc, trân, báu và các kho tàng,
mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ
của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa
bỏ được.
-
Lại trải qua
ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông thái trọn nên
chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông
gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc-vương, quan
đại-thần, dòng sát-lợi, hàng cư-sĩ, khi đã nhóm xong, ông
liền tự tuyên rằng : "Các ngài nên rõ, người này là con
ta, của ta sanh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn
đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy,
còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm kiếm,
bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật
là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của
con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây
coi biết."
Thế-Tôn!
Khi đó gả cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng
được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng : "Ta vốn không
có lòng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến".
-
Thế-Tôn ! Ông
phú Trưởng-giả đó là đức Như-Lai, còn chúng con đều giống
như con của Phật. Đức Như-Lai thường nói chúng con là con.
Thưa Thế-Tôn!
Chúng con vì ba món khổ (16) nên ở trong sanh tử chịu
các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp
tiểu thừa. Ngày nay đức Thế-Tôn khiến chúng con suy nghĩ
dọn trừ những phân dơ các pháp hý luận (17). Chúng
con ở trong đó siêng gắng tinh tấn được đến Niết-bàn,
cái giá một ngày. Đã được đây rồi lòng rất vui mừng
tự cho là đủ, mà tự nói rằng: Ở trong pháp của Phật;
do siêng năng tinh tấn nên chỗ được rộng nhiều.
Nhưng đức
Thế-Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ,
ham nơi pháp tiểu thừa, chúng con bèn bị Phật buông bỏ chẳng
vì phân biệt rằng: Các ông sẽ có phần bảo tàng tri kiến
của Như-Lai.
Đức Thế-Tôn
dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như-Lai. Chúng
con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày, cho là nhiều
rồi, đối với pháp Đại-thừa này không có chí cầu. Chúng
con lại nhân trí huệ của Phật, vì các vị Bồ-Tát mà chỉ
bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn
nơi pháp đó.
Vì sao? Đức
Phật biết chúng con ưa nơi pháp tiểu thừa, nên dùng sức
phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không
tự biết thật là Phật tử. Ngày nay chúng con mới biết đức
Thế-Tôn ở nơi trí huệ của Phật không có lẫn tiếc.
Vì sao? Chúng
con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp
tiểu thừa, nếu chúng con có tâm ham Đại-thừa, thời Phật
vì chúng con mà nói pháp Đại-thừa. Ở trong kinh này chỉ
nói pháp nhứt thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-Tát
chê trách Thanh-văn ham pháp tiểu thừa.
Nhưng đức
Phật thực dùng Đại-thừa để giáo hóa, vì thế nên chúng
con nói vốn không có lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng
Pháp-vương tự nhiên đến, như chỗ nên được của Phật
tử đều đã được có.
Bấy giờ
ngài Ma-ha Ca-Diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
-
Chúng con ngày
hôm nay
Nghe âm
giáo của Phật
Lòng hớn
hở mừng rỡ
Được pháp
chưa từng có.
Phật nói
hàng Thanh-văn
Sẽ được
thành quả Phật
Đống châu
báu vô thượng
Chẳng cầu
tự nhiên được.
Ví như gã
đồng tử
Thơ bé không
hiểu biết
Bỏ cha trốn
chạy đi
Đến cõi
nước xa khác
Nổi trôi
khắp nước ngoài
Hơn năm mươi
năm dài
Cha gã lòng
buồn nhớ
Kiếm tìm
khắp bốn phương
Kiếm tìm
đó đã mỏi
Liền ở
lại một thành
Xây dựng
nên nhà cửa
Năm món dục
tự vui.
Nhà ông giàu
có lớn
Nhiều những
kho vàng, bạc
Xa-cừ, ngọc
mã-não
Trân châu,
ngọc lưu ly
Voi ngựa
cùng trâu dê
Kiệu, cán
đủ xe cộ
Ruộng đất
và tôi tớ
Nhân dân
rất đông nhiều
Xuất nhập
thâu lời lãi
Bèn khắp
đến nước khác
Khách thương
người buôn bán
Không xứ
nào không có,
Nghìn muôn
ức chúng hội
Vây quanh
cung kính ông,
Thường được
bậc vua chúa
Mến yêu
nhớ tưởng đến,
Các quan,
hạng hào tộc
Đều cũng
đồng tôn trọng
Vì có các
sự duyên
Người tới
lui rất đông,
Giàu mạnh
như thế đó
Có thế lực
rất lớn
Mà tuổi
đã già nua
Lại càng
buồn nhớ con
Ngày đêm
luống suy nghĩ
Giờ chết
toan sắp đến
Con thơ dại
bỏ ta
Hơn năm mươi
năm tròn,
Các của
vật kho tàng
Sẽ phải
làm thế nào?
-
Bấy giờ gã
cùng tử
Đi tìm
cầu ăn mặc
Ấp này đến
ấp khác
Nước này
sang nước nọ,
Hoặc có
khi được của
Hoặc có
khi không được,
Đói thiếu
hình gầy gò
Thân thể
sanh ghẻ lác.
Lần lựa
đi trải qua
Đến thành
cha gã ở
Xoay vần
làm thuê mướn
Bèn đến
trước nhà cha.
Lúc ấy ông
Trưởng-giả
Đang ở trong
nhà ông
Giăng màn
châu báu lớn
Ngồi tòa
sư-tử cao
Hàng quyến
thuộc vây quanh
Đông người
đứng hầu hạ,
Hoặc có
người tính toán
Vàng, bạc,
cùng vật báu
Của cải
ra hoặc vào
Biên chép
ghi giấy tờ.
Gã cùng tử
thấy cha
Quá mạnh
giàu tôn nghiêm
Cho là vị
quốc-vương
Hoặc là
đồng bậc vua,
Kinh sợ tự
trách thầm
Tại sao lại
đến đây?
Lại thầm
tự nghĩ rằng:
Nếu ta đứng
đây lâu
Hoặc sẽ
bị bức ngặt
Ép buộc
sai khiến làm.
Suy nghĩ thế
đó rồi
Rảo chạy
mà đi thẳng
Hỏi thăm
xóm nghèo nàn
Muốn qua
làm thuê mướn.
-
Lúc bấy giờ
Trưởng-giả
Ngồi
trên tòa sư-tử
Xa trông thấy
con mình
Thầm lặng
mà ghi nhớ,
Ông liền
bảo kẻ sứ
Đuổi theo
bắt đem về.
Gã cùng tử
sợ kêu
Mê ngất
ngã trên đất
Người này
theo bắt tôi
Chắc sẽ
bị giết chết
Cần gì đồ
ăn mặc
Khiến tôi
đến thế này!
Trưởng-giả
biết con mình
Ngu dại lòng
hẹp hèn
Chẳng chịu
tin lời ta
Chẳng tin
ta là cha
Ông liền
dùng phương tiện
Lại sai hai
người khác
Mắt chột,
thân lùn xấu
Hạng không
có oai đức!
Các người
nên bảo nó
Rằng ta sẽ
thuê nó
Hốt dọn
các phân nhơ
Trả giá
bội cho nó.
Gã cùng tử
nghe rồi
Vui mừng
theo sứ về
Vì dọn các
phân nhơ
Sạch sẽ
các phòng nhà
Trưởng-giả
trong cửa sổ
Thường ngó
thấy con mình
Nghĩ con mình
ngu dại
Ưa thích
làm việc hèn.
Lúc đó ông
Trưởng-giả
Mặc y phục
cũ rách
Tay cầm đồ
hốt phân
Qua đến
chỗ con làm
Phương tiện
lần gần gũi
Bảo rằng:
rán siêng làm!
Đã thêm
giá cho ngươi
Và cho dầu
thoa chân
Đồ ăn uống
đầy đủ
Thêm đệm
chiếu đầy ấm
Cặn kẽ
nói thế này:
Ngươi nên
siêng làm việc!
Rồi lại
dịu dàng bảo
Như con thật
của ta.
-
Ông Trưởng-giả
có trí
Lần lần
cho ra vào
Trải qua
hai mươi năm
Coi sóc việc
trong nhà,
Chỉ cho biết
vàng, bạc,
Ngọc trân
châu, pha-lê
Các vật
ra hoặc vào
Đều khiến
gã biết rõ.
Gã vẫn ở
ngoài cửa
Nương náu
nơi am tranh
Tự nghĩ
phận nghèo nàn
Ta không có
vật đó.
Cha biết
lòng con mình
Lần lần
đã rộng lớn
Muốn giao
tài vật cho
Liền nhóm
cả thân tộc
Quốc vương
các đại thần
Hàng sát-lợi,
cư-sĩ
Rồi ở trong
chúng này
Tuyên nói
chính con ta
Bỏ ta đi
nước khác
Trải hơn
năm mươi năm,
Từ gặp
con đến nay
Đã hai mươi
năm rồi
Ngày trước
ở thành kia
Mà mất đứa
con này
Ta đi tìm
khắp nơi
Bèn đến
ngụ nơi đây
Phàm của
cải ta có
Nhà cửa
cùng nhân dân
Thảy đều
phó cho nó
Mặc tình
nó tiêu dùng.
Người con
nhớ xưa nghèo
Chí ý rất
kém hèn
Nay ở nơi
cha mình
Được quá
nhiều châu báu
Và cùng với
nhà cửa
Gồm tất
cả tài vật,
Lòng rất
đỗi vui mừng
Được điều
chưa từng có.
-
Đức Phật
cũng như thế
Biết
con ưa tiểu thừa
Nên chưa
từng nói rằng
Các ngươi
sẽ thành Phật
Mà chỉ nói
chúng con
Được có
đức vô lậu
Trọn nên
quả tiểu thừa
Hàng Thanh-văn
đệ tử
Đức Phật
bảo chúng con
Nói đạo
pháp tối thượng
Người tu
tập pháp này
Sẽ được
thành Phật quả
Chúng con
vâng lời Phật
Vì các Bồ-Tát
lớn
Dùng các
món nhân duyên
Cùng các
món thí dụ
Bao nhiêu
lời lẽ hay
Để nói
đạo vô thượng.
Các hàng
Phật tử thảy
Từ nơi con
nghe pháp
Ngày đêm
thường suy gẫm
Tinh tấn
siêng tu tập.
Bấy giờ
các đức Phật
Liền thọ
ký cho kia:
Các ông ở
đời sau
Sẽ được
thành Phật đạo.
Pháp mầu
rất bí tàng
Của tất
cả các Phật
Chỉ để
vì Bồ-Tát
Mà dạy việc
thật đó,
Nhưng chẳng
vì chúng con
Nói pháp
chân yếu này
Như gã cùng
tử kia
Được gần
bên người cha
Dầu lãnh
biết các vật
Nhưng lòng
chẳng mong cầu,
Chúng con
dầu diễn nói
Tạng pháp
báu của Phật
Tự mình
không chí nguyện
Cũng lại
như thế đó.
-
Chúng con diệt
bề trong (18)
Tự cho
là đã đủ
Chỉ xong
được việc này
Lại không
biết việc khác.
Chúng con
dầu có nghe
Pháp tịnh
cõi nước Phật
Cùng giáo
hóa chúng sanh
Đều không
lòng ưa vui.
Như thế
là vì sao?
Vì tất cả
các pháp
Thảy đều
là không lặng
Không sanh
cũng không diệt
Không lớn
cũng không nhỏ
Vô lậu và
vô vi,
Suy nghĩ thế
đó rồi
Chẳng sanh
lòng ưa muốn.
Chúng con
đã từ lâu
Đối với
trí huệ Phật
Không tham
không ưa thích
Không lại
có chí nguyện,
Mà đối
với pháp mình
Cho đó là
rốt ráo.
Chúng con
từ lâu nay
Chuyên tu
tập pháp không
Được thoát
khỏi hoạn nạn
Khổ não
của ba cõi
Trụ trong
thân rốt sau
Hữu dư y
Niết-bàn (19)
Đức Phật
dạy bảo ra
Chứng được
đạo chẳng luống
Thời là
đã có thể
Báo được
ơn của Phật.
Chúng con
dầu lại vì
Các hàng
Phật tử thảy
Tuyên nói
pháp Bồ-Tát
Để cầu
chứng Phật đạo
Mà mình đối
pháp đó
Trọn không
lòng ham muốn
Đấng Đạo-Sư
buông bỏ
Vì xem biết
lòng con
Ban đầu
không khuyên gắng
Nói những
lợi có thực
Như ông Trưởng-giả
giàu
Biết con
chí kém hèn
Bèn dùng
sức phương tiện
Để hoà
phục tâm con
Vậy sau mới
giao phó
Tất cả
tài vật báu
Đức Phật
cũng thế đó
Hiện ra việc
ít có
Biết con
ưa tiểu thừa
Bèn dùng
sức phương tiện
Điều phục
tâm của con
Rồi mới
dạy trí lớn.
Chúng con
ngày hôm nay
Được pháp
chưa từng có
Chẳng phải
chỗ trước mong
Mà nay tự
nhiên được
Như gã cùng
tử kia
Được vô
lượng của báu
-
Thế-Tôn! Chúng
con nay
Được
đạo và chứng quả
Ở nơi pháp
vô lậu
Được tuệ
nhãn thanh tịnh
Chúng con
từ lâu nay
Gìn tịnh
giới Phật chế
Mới ở ngày
hôm nay
Được hưởng
quả báo đó,
Trong pháp
của Pháp-vương
Lâu tu-hành
phạm hạnh
Ngày nay được
vô lậu
Quả báo
lớn vô thượng
Chúng con
ngày hôm nay
Mới thật
là Thanh-văn
Đem tiếng
đạo của Phật
Cho tất cả
đều nghe
Chúng con
ngày hôm nay
Thật là
A-la-hán
Ở nơi các
thế gian
Trời, người
và ma, phạm,
Khắp ở
trong chúng đó
Đáng lãnh
của cúng dường
Ơn lớn của
Thế-Tôn
Đem việc
ít có này
Thương xót
dạy bảo cho
Làm lợi
ích chúng con
Trải vô
lượng ức kiếp
Ai có thể
đền được.
Tay lẫn chân
cung cấp
Đầu đảnh
lễ cung kính
Tất cả
đều cúng dường
Đều không
thể đền được.
Hoặc dùng
đầu đội Phật
Hai vai cùng
cõng vác
Trong kiếp
số hằng sa
Tận tâm
mà cung kính,
Lại đem
dưng đồ ngon
Y phục báu
vô lượng
Và các thứ
đồ nằm
Cùng các
món thuốc thang
Gỗ ngưu-đầu
chiên-đàn
Và các vật
trân báu
Để dựng
xây tháp miếu
Y báu lót
trên đất
Như các việc
trên đây
Đem dùng
cúng dường Phật
Trải kiếp
số hằng sa
Cũng không
đền đáp được.
Các Phật
thật ít có
Đấng vô
lượng vô biên
Đến bất-khả
tư-nghì
Đủ sức
thần thông lớn,
Bậc vô lậu
vô vi
Là vua của
các Pháp
Hay vì kẻ
hạ liệt
Nhẫn việc
cao thượng đó,
Hiện lấy
tướng phàm phu
Tùy cơ nghi
dạy nói
Các Phật
ở nơi pháp
Được sức
rất tự tại
Biết các
hàng chúng sanh
Có những
điều ưa muốn
Và chí lực
của nó
Theo sức
nó kham nhiệm
Dùng vô lượng
thí dụ
Mà vì chúng
nói pháp
Tùy theo các
chúng sanh
Trồng căn
lành đời trước
Lại biết
đã thành thục
Hay là chưa
thành thục
Suy lường
những điều đó
Phân biệt
biết rõ rồi
Ở nơi đạo
nhất thừa
Tùy cơ nghi
nói ba.
KINH
DIỆU- PHÁP LIÊN-HOA
QUYỂN
THỨ HAI
---o0o---
Bậc thượng
căn lãnh ngộ, hàng trung hạ nổi nghi, mở quyền bày thật
hội ba thời. Pháp mầu tuyệt sự nói suy, của báu không riêng
tư, toàn giao phó cho con nhà.
NAM-MÔ PHÁP-HOA
HỘI-THƯỢNG PHẬT BỔ-TÁT. (3 lần)
Đức Như-Lai
dụ nói ba cõi làm nhà, ngoài cửa ba cõi bày ba thứ xe, các
con đua giành ồn ào, Trưởng-giả mừng khoe, thọ ký quả
Phật không sai.
NAM-MÔ VỊ-LAI
HOA-QUANG PHẬT. (3 lần)
---o0o---
THÍCH NGHĨA
(1 ) LẬU
TẬN: Nhiễm tâm phiền-não đã hết sạch, đồng nghĩa với:
'Vô Lậu'.
(2 ) Thân
Phật sắc vàng tử-kim đủ 32 tướng tốt.
(3 ) Trí
của Phật có 10 lực dụng:
1.Thị-xứ
phi-xứ trí-lực
2. Nghiệp
trí-lực
3.Thiền-định
trí-lực
4.Căn-tính
trí-lực
5.Nguyện-dục
trí-lực
6. Giới
trí-lực
7.Đạo-chí-xử
trí-lực
8.Túc-mạng
trí-lực
9.Thiên-nhãn
trí-lực
10.Lậu-tận
trí-lực
(4 ) BẤT
CỘNG: Bồ-Tát cùng Thanh-văn Duyên-giác đều không có, riêng
Phật là có 18 pháp này.
(5) BỔ-TÁT:
'Bồ-Đề': Giác; 'tát đỏa': Hữu-tình; nói tắt là Bồ-Tát,
tức là bậc đã tự hay giác ngộ và có thể cứu độ giác
ngộ loài hữu tình.
(6 ) Tức
là Bà-la-môn.
(7 ) Tên
của Ma-vương ở đầu cõi dục.
(8 ) NGŨ
UẨN: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
Cũng gọi là ngũ ấm.
(9 ) NGŨ
DỤC: 1. Tài (sắc), sắc, danh, thực (sự ăn), thùy (ngủ nghỉ).
2. Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(10) Bốn
đức vô-sở-úy của Phật:
1. Nhất-thiết-trí
vô-úy
2. Lậu-tận
vô-úy
3. Thuyết-đạo
vô-úy
4. Thuyết-khổ-tận-đạo
vô-úy
(11) NĂM CĂN:
Tín căn, tinh-tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
NĂM LỰC:
tín lực, tinh tấn lực, niệmlực, định lực, tuệ lực.
BẨY GIÁC
CHI: Trạch pháp, niệm, tinh tấn, hỷ, khinh an, định,xả.
TÁM CHÁNH
ĐẠO: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh định.
(12) Súy:
Cú tai mèo; Hiêu, Điêu, THỨU: Loài chim dữ, tiếng xấu. THƯỚC:
Chim khách.
CƯU: Tu-hú.
CÁP: Bồ câu. NGOAN-XÀ: Rắn độc. PHÚC-YẾT: Bò-cạp.
NGÔ ÂCÔNG:
Rít. DO-DIÊN: Trùng, rận ở trong áo tơi. DỨU -LY: Chồn, cáo.
HỀ-THỬ:
Giống chuột. KHƯƠNG-LƯƠNG: Bọ hung.
(13) Thiên-nhãn-minh,
Túc-mạng-minh, Lậu-tận-minh.
(14) Thiên-nhãn-thông,
thần-túc-thông, thiên-nhĩ-thông, tha-tâm-thông, túc-mạng-thông,
lậu-tận-thông.
(15) TIN:
lòng tin. GIẢI: Hiểu rõ.
(16) Khổ
khổ, hoại khổ, hành khổ.
(17) Hý-LUẬN:
Lời luận nói suông không sự thật, đồng nghĩa với hư vọng.
(18) Diệt
lòng phiền-não: 1. Kiến sở đoạn 2. Tư sở đoạn.
(19) NIẾT-BÀN:
Tịch tịnh; VIÊN TỊCH: nghĩa là vắng bặt. Còn vọng động
phiền não là còn tạo nghiệp thọ báo sanh-tử. Dứt hẳn
vọng động phiền não khỏi báo sanh tử yên lặng nhàn vui
nên gọi Niết-bàn.
HỮU-DƯ
Y: Thân người hiện còn thừa lại rốt sau cả.
---o0o---
SỰ TÍCH
TẢ KINH THOÁT KHỒ
Nhà Đường,
niên hiệu Long-Sóc năm thứ ba, xứ Trường-An, mẹ vợ ông
Lưu-Công-Tín chết.
Không bao
lâu cô họ Trần, vợ ông Tín, cũng bỗng chết, thần-hồn
đi đến một ngục đá, thấy mẹ mình ở trong cửa đá thọ
nhiều sự khổ.
Khóc bảo
con gái rằng : "Mau vì mẹ tả một bộ kinh Pháp-Hoa ngõ hầu
thoát khỏi tội này". Nói vừa xong cửa đá liền khép lại.
Cô họ Trần
sống lại, thuật chuyện gặp mẹ với chồng. Ông Tín nhờ
ông Triệu-Sư-Tử tả kinh, ông Triệu bèn đem một bộ kinh
Pháp-Hoa hiện đã thành tả rất tốt giao cho ông Tín sửa
sang, mà bộ kinh đó vốn là của một người họ Phạm ra
tiền mướn tả, mà ông Tín thâ chưa biết cũng tin là ông
Triệu tả cho mình.
Không bao
lâu, cô họ Trần lại nằm chiêm bao thấy mẹ đòi kinh, cô
nói rằng đã tả xong rồi. Mẹ liền khóc rằng : "Mẹ chính
vì bộ kinh đó mà càng bị khổ thêm. Bộ kinh đó vốn là
nhà của họ Phạm tu phước, sao lại cướp làm công của
mình?" Sau khi thức dậy, cô Trần và ông Tín đi hỏi thăm
lại, thời quả thực họ Phạm ra hai trăm tả kinh mà chính
là bộ trên đó.
Vợ chồng
liền thuê người tả một bộ khác để cúng dường hồi
hướng công đức cho mẹ.
Than ôi !
Công đức tả kinh hay ấn tống lớn biết là dường nào?
Tội nặng bị khổ ở địa ngục nhờ người tả một bộ
kinh Pháp-Hoa mà còn có đủ phước để thoát khổ huống nữa
là mình tự ra công tiền ư!