KINH A SOA MẠT BỒ TÁT
Hán dịch: Tam Tạng
Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Nước Nguyệt Chi - Ðời Tây Tấn
- Việt dịch: Tuệ
Khai cư sĩ - Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
--- o0o ---
Quyển thứ ba.
Ðức Phật bảo ngài A Soa Mạt rằng :
- Ông hôm nay có thể bao bọc tất cả chúng
sinh ư ?
Ngài A Soa Mạt thưa rằng :
- Thừa thánh chỉ của đức Phật con đủ sức
đảm nhiệm !
Ngài Bồ tát A Soa Mạt vừa vào tam muội thì
tức thời tất cả các thân hữu sắc, hương, hoa, tràng phan, bảo cái bằng lụa
ngũ sắc cúng dường đều vào trong rốn mà thân ngài như cũ chẳng tăng chẳng
giảm. Có một vị Bồ tát hiệu là Ðại Tịnh hỏi ngài A Soa Mạt rằng :
- Ngài đã vào tam muội tên là gì vậy ? Sự
hiển hiện biến hóa mới có thể nhận hết tất cả sắc thân, hương, hoa, phan,
cái mà thân ngài chẳng tăng chẳng giảm.
Ngài A Soa Mạt đáp rằng :
- Ðịnh ấy hiệu là Phổ Thọ Sắc Thân.
Ngài Ðại Tịnh hỏi :
- Tam muội đó chỉ thọ những cái này thôi
hay lại có thọ những thứ khác nữa ư ?
Ngài A Soa Mạt đáp :
- Ba ngàn đại thiên đất nước đều vào hết
trong thân mà chỗ sở tại chẳng còn nhìn thấy. Sở dĩ vì sao ? Vì do uy thần
nên không có gì tăng tổn cả !
Các chúng hội, chư thiên, nhân dân, Bồ tát,
Thanh văn... đều có ý nghĩ giống như kẻ khát lâu mong tưởng được uống vậy.
Họ muốn thấy sự hiển hóa thần biến của Ðại Sĩ. Ðức Phật biết lòng của mọi
người nên nói với ngài A Soa Mạt vì tất cả mọi người mà hiện tam muội đó.
Ngài A Soa Mạt liền phụng thánh chỉ. Ngay tức thời các đức Phật, Bồ tát
của mười phương đến hội và chúng tăng đều tự thấy thân mình ngồi ở rốn của
ngài A Soa Mạt. Rốn ngài A Soa Mạt hiện có đất nước tên là Phổ Trang
Nghiêm. Các Bồ tát ăn mặc như mọi Bồ tát của nước Phổ Trang Nghiêm. Họ
cũng lại đều hiện ở trong rốn ấy với sự hiển hiện khắp cùng trang nghiêm
lồng lộng. Hiện uy biến như vậy rồi thì chúng hội đều ngồi trở lại như cũ.
Ngài Ðại Tịnh Bồ tát báo cho ngài A Soa Mạt rằng :
- Uy đức thánh ân tam muội siêu việt thù
thắng rực rỡ đến vậy !
Ngài A Soa Mạt nói rằng :
- Lời nói đó chẳng đủ để diễn tả đâu ! Sở
dĩ vì sao ? Vì ba ngàn đại thiên trời đất núi gò thọ hết vào sắc thân là
việc nhỏ nhoi vậy. Thọ nhận số cõi nhiều như cát sông mà chẳng lấy làm dồn
nén huống gì là những thứ khác nữa vậy ?
Khi nói phẩm Nhẫn Nhục, diễn ra thần túc
thì bảy mươi vạn vạn người thiện nhân hòa phát lòng đại đạo. Một vạn hai
ngàn Bồ tát đều được pháp nhẫn Vô Sở Tùng Sinh.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài A Soa Mạt rằng :
- Tôi nguyện ưa nghe tinh tấn chẳng thể tận
của Bồ tát nữa !
Ngài A Soa Mạt nói rằng :
- Bồ tát có tám Tinh Tấn Vô Tận. Những gì
là tám ? Một là trang bị giáp đồng Hoằng Thệ Ðại Ðức. Ðó là tinh tấn mà
chẳng thể tận. Hai là tập hợp tinh tấn mà không gì thoái chuyển. Ba là
siêng học, nuôi lớn tất cả công đức. Bốn là thường muốn nuôi dưỡng phổ cập
chúng sinh. Năm là tạo lập vô số nguồn phước khánh. Sáu là lòng vì trăm họ
cầu các độ vô cực. Bảy là hiểu rõ trí tuệ mà không cùng cực. Tám là muốn
được đủ hết tất cả Phật pháp, vì vậy mà không tận. Ðó là tám tinh tấn mà
chẳng thể tận - Ngài A Soa Mạt nói - Sở dĩ gọi là trang bị giáp đồng Hoằng
Thệ là vì chẳng do sinh tử mà lấy làm lao khổ. Sở dĩ vì sao ? Vì chẳng
tính kể số kiếp sẽ thành Phật đạo, cũng chẳng suy nghĩ đến ngần ấy kiếp tu
hành nghiệp Bồ tát. Sở dĩ gọi là Hoằng Thệ là vì chẳng giới hạn vô lượng
kiếp dài xa. Bồ tát còn là gốc của tất cả. Thói tục lại bắt đầu tính, một
ngày đến mười lăm ngày, hoặc ba mươi ngày hợp làm một tháng, mười hai
tháng làm một năm... như vậy chuyển dần tiến đến mười vạn năm, hoặc trăm
ngàn vạn năm phát ý cầu đạo. Qua hết số đó bằng ngần ấy năm mới thấy một
đức Phật. Số năm sánh bằng cát những dòng sông như vậy mới bắt đầu phát ý
bình đẳng tất cả mọi người, từng người đều phát tâm, từng người đều bao
dung. Những Bồ tát nhiều như cát sông cũng như vậy. Vô ương số chẳng thể
kể tất cả người đều phát ý mà sự biết của ý chỉ theo kịp một việc, còn sự
chưa biết của ý thì chẳng thể xưng kể, giống như cúng dường Phật nhiều như
cát sông... Nhiên hậu mới đủ Thí độ vô cực. Giới, Nhẫn, Tinh Tấn, Nhất
tâm, Trí tuệ, ba mươi bảy phẩm trợ đạo cũng lại như vậy. Bồ tát nghe điều
này mà tâm chẳng giải đãi, chẳng bỏ giáp đồng Hoằng Thệ Ðại Ðức, người
nhiều như cát sông đều phát ý đạo. Tập hợp hết đức này mới có thể đầy đủ
một tướng của bậc Ðại Nhân. Tất cả như vậy đều dụng công như trước thì mới
hoàn bị hết các tướng của bậc Ðại nhân. Ðại nhân ấy là Bồ tát vậy. Bồ tát
nghe những điều này chẳng lấy làm lao nhọc. Sở dĩ vì sao ? Vì chưa từng
chối bỏ giáp đồng Hoằng Thệ. Ðó là Bồ tát mặc giáp đồng Hoằng Thệ mà chẳng
thể tận vậy.
Sao gọi là tăng trưởng Tinh Tấn mà chẳng
thể tận ? Như có Bồ tát siêng muốn nghe pháp mà chẳng kể xa gần, chẳng kể
nước lửa hung dữ. Sở dĩ vì sao ? Vì không giải đãi, mỏi mệt. Bồ tát tăng
trưởng tập hợp công đức chẳng chịu thoái lui, hợp hội khuyến trợ mọi công
đức. Vì sao hợp hội ? Vì muốn để khai hóa chúng sinh, khiến cho họ được độ
thoát, khiến cho họ được vào Nê hoàn mà vào Nê hoàn chẳng do sự giải đãi
kiêu mạn. Muốn vào Nê hoàn thì phải có lòng kiên cố, không thể quay trở
lại, thường cầu công đức, phước lộc chẳng biết chán nản mệt mỏi, luôn luôn
trụ ở Ðại ai (Ðại bi) nên gọi hợp tập. Bồ tát thậm chí bước đi, ngồi dậy
chẳng quên tâm đạo, như trong khoảnh khắc một niệm, nghĩ đến lời pháp giáo
của Phật, hộ trì đến tất cả mà chẳng lấy làm phiền nhiễu nên gọi là hợp
tập mà chẳng thể tận. Sao gọi là trưởng dưỡng tất cả tinh tấn mà chẳng thể
tận ? Chí nguyện đã lập công đức thường còn ở các thông tuệ. Do vậy nên
gọi là chẳng thể tận, giống như mọi con rồng đều mưa xuống trở lại biển cả
mà chẳng thể phân biệt biết số giọt nhiều hay ít, cứ cho chúng là vô tận.
Những người thông tuệ như vậy công đức cũng rất chẳng thể tận. Sao gọi là
tạo lập vô số công đức ? Việc làm dụng tâm vì tất cả nên thường mang ý
bình đẳng, việc tạo lập công đức phúc lộc chẳng lìa khỏi thông tuệ, việc
tu phúc nguyện muốn khiến cho chúng sinh đều chung nhờ ân huệ... do vậy
nên gọi là tạo lập vô số công đức. Sao gọi là lòng cầu các Ðộ vô cực ?
Chúng sinh bốn đại đều chẳng thể tận, chẳng thể tính thì vào những số này.
Một lời dạy bảo hết các loài chúng sinh của ba ngàn đại thiên thế giới.
Hình tượng so sánh như vậy chẳng thể chuyển tải nói lên, a tăng kỳ con
người đều khai hóa họ vô hạn như vậy, rồi gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp
vạn lần, gấp ức lần, gấp trăm ức vạn lần chẳng thể kể ra thí dụ được thì
số người được giáo hóa độ thoát vẫn là còn ít vậy. Nghe thế này mà chẳng
khủng, cũng chẳng úy cụ là ứng hợp với tinh tấn. Ðó gọi là tạo lập vô số
công đức mà chẳng thể tận. Sao gọi là hiểu rõ trí tuệ mà không cùng cực ?
Công đức Bồ tát chẳng thể tận. Như vậy kể hết những chúng sinh của tất cả
Phổ Trí vốn đã tạo tác công đức mới bì kịp đạo tích (dấu đạo). Bậc
vãng lai, bậc Bất Hoàn, bậc Vô Trước Duyên giác đều tập hợp đức này lại
mới thành được công đức một sợi lông của đức Phật. Sự hợp tập kể ra đó,
từng sợi lông từng sợi lông đều thành mọi công đức lồng lộng của những lỗ
chân lông trên thân thể thì mới có thể thành tướng lưỡng mi gian của đức
Phật. Như phước của tướng mi gian ấy gấp ngàn lần thì mới thành tướng đảnh
của đức Phật. Sở dĩ vì sao ? Vì trên trời dưới đất không ai có thể đủ sức
nhìn thấy đảnh của đức Phật. Do đó cho nên nói rằng, đức chẳng thể tận,
tuệ không cùng cực. Lại nữa, sao gọi là tuệ không cùng cực ? Giả sử chúng
sinh của ba ngàn đại thiên thế giới đều dốc lòng tin Phật. Tin Phật như
vậy mà niềm tin ấy gấp lên trăm lần thì mới cùng đồng đẳng với người phụng
tín. Giả sử người phụng tín đồng đẳng đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới
thì trí của những người ấy gấp thêm trăm lần cũng chẳng bì kịp người bát
đẳng (?). Như người bát đẳng đầy ba ngàn đại thiên thế giới, trí của những
người ấy nhân lên trăm lần chẳng bằng đạo tích (dấu đạo). Nếu trong ba
ngàn đại thiên thế giới tràn đầy người mà đều tìm nghiệp đạo tích như vãng
lai, bất hoàn và cùng vô trước thì trí của những bậc ấy nhân lên một trăm
lần chẳng bằng trí của một Duyên giác. Nếu trong ba ngàn đại thiên thế
giới đầy Duyên giác còn chẳng bằng trí của một Phát Ý Bồ tát. Giả sử ba
ngàn đại thiên thế giới mà trong đó đầy ắp những Bồ tát mới phát ý thì trí
của họ nhân lên một trăm lần, chẳng bằng A duy việt trí. Giả sử chúng sinh
của ba ngàn đại thiên thế giới đều thành Bất thoái chuyển thì trí của họ
nhân lên một trăm lần còn chẳng bằng trí của một Bồ tát Nhất Sinh Bổ Xứ.
Giả sử chúng sinh của ba ngàn đại thiên thế giới là Nhất sinh bổ xứ thì
trí của họ nhân lên một trăm lần chẳng bằng xứ xứ tuệ của một đức Như Lai
hợp với các lực, vô sở úy nhập vào du yếu tuệ của Phật pháp. Sở dĩ vì sao
? Vì tuệ Nhất thiết trí ấy đều vào Phật ý. Bồ tát nghe những điều này
chẳng khủng, chẳng cụ, chẳng úy, chẳng nạn thì đó gọi là tu tập vô cùng
tuệ mà chẳng thể tận. Vì sao tu tập vô cùng tuệ mà chẳng thể tận ? Vì vào
tâm của tất cả chúng sinh vậy. Giả sử tâm niệm của chúng sinh quá khứ mà
sự phát ý đạo của họ không giới hạn. Một người giải tỏ hiểu thông hết tâm
niệm của những chúng sinh quá khứ này, bình đẳng đối với chúng sinh giống
như một người. Hình tượng so sánh như vậy nhiều chẳng thể kể xiết. Bọn
chúng sinh đều bị sự che chắn của dâm nộ si. Lại có một người vào trong
dâm, nộ, si, hoặc, loạn mà bị mọi trần kiến làm rối loạn mê man. Bồ tát
phát ý luôn luôn dùng đạo tuệ đều biết chúng sinh dâm nộ si loạn. Ðó gọi
là trí thánh hoằng tuệ minh. Nếu các chúng sinh đều phát ý nhân duyên
thiện ác thì nhân duyên đã khởi lên là phải diệt đi. Như vậy người tuệ tuy
ở trong ấy mà lòng chẳng lấy làm phiền nhiễu, đều có thể thông đạt giống
như hư không. Hư không ấy thì không đâu chẳng trống rỗng. Bậc Thánh tuệ
thì lòng của họ hiểu sáng chúng sinh ba đời, không đâu chẳng thông đạt.
Vậy nên gọi là Tuệ mà không cùng cực cũng chẳng thể tận. Sao gọi là tất cả
Phật pháp cũng chẳng thể tận ? - Ðủ hết tất cả sáu độ vô cực cầu các Phật
pháp. Như có Bồ tát từ lúc bắt đầu phát ý đã tu phương tiện, nhiên hậu mới
đạt đến ngồi dưới cây Phật. Công đức phát tâm chẳng thể kể xiết, đầy đủ
khắp cả đều là thành tựu Phật pháp nên gọi là Bồ tát hợp tập các Phật pháp
mà chẳng thể tận.
Lại có Bồ tát hợp tập Tinh Tấn cũng chẳng
thể tận. Sự lập đức của thân chẳng lấy làm khó. Miệng nói công đức phúc
lộc cũng chẳng lấy làm mệt. Ý chỉ siêng tu hành. Tinh tấn ba việc thân
miệng ý là đứng đầu. Sao gọi là ý tinh tấn? Ý ấy rộng lớn (thái nhiên).
Sao gọi là rộng lớn ? Dụng ý cầu Phật đạo. Dụng ý cầu Phật đạo là thế nào
? Tâm ấy rộng lớn vắng lặng vô vi. Phát khởi điều này gọi là gì ? Phát
khởi ý này thì gọi là phát tâm đạo đó. Ðây là Ðại ai của Bồ tát vậy. Sao
gọi là Bồ tát địa ? Tin ưa vô ngã thì gọi là Nhẫn. Tại sao phải phát khởi
điều này ? Phát khởi điều ấy thì có thể tổng nhiếp hết tất cả chúng sinh.
Sao gọi là xử ? Do được đầy đủ hết các pháp, chẳng lấy sinh tử làm cần lao
vậy. Người phát khởi điều này chẳng chấp trước ba cõi. Người phát khởi
điều này thì sở hữu của thân không có gì yêu tiếc. Lại, xử ấy là cái có
thể thí cho mà chẳng tuyên dương mình đã có đức hạnh ấy. Cái gọi là xử là
chẳng dùng cấm giới mà tự khen ngợi, ý còn tự đại. Lại, xử ấy là nhẫn nhịn
mọi khổ não, chẳng dùng cái nghiệp này mà ôm lòng kiêu mạn. Cái gọi là xử
ấy đã thu hoạch công đức ngày càng tăng thêm lồng lộng không lường. Cái
gọi là xử ấy chính là chí độ thoát, chẳng lìa bố thí, điều phục tâm, chế
ngự ý. Cái gọi là xử ấy là học vấn không chán, đúng như pháp, tu tập dạy
bảo. Cái gọi là xử ấy là theo đúng ý nghĩa đã nghe mà phụng hành chẳng
đổi, không có ý khác. Cái gọi là xử là học tập tư duy pháp chẳng thể
giảng, phương tiện quyền mưu chẳng lấy làm khó, tập ban tuyên pháp mà
không hy vọng đáp đền, tập tành đọc tụng, nghĩ xét, hiểu rõ điều qui thú
của ý nghĩa ấy, chẳng vì lao nhọc, chán nản mà lười biếng phế bỏ, trăm họ
học tu mà không mong tưởng đáp đền. Bốn việc đó chính là điều tu hành của
Bồ tát. Sở dĩ vì sao ? Vì Bồ tát ấy có thể phát khởi từ bi hỷ hộ này. Lại,
xử ấy là sự chiêm nghiệm xem xét mà ý mang đại ai cùng khắp. Lại, xử ấy là
vin vào cớ này mà đầy đủ năm thông, tu tập không sinh tử. Lại, xử ấy là
được bốn ý chỉ, đạt đến thuận lý, chẳng đương đầu với suy mà chẳng nghĩ
đến. Lại, xử ấy là biết bốn ý đoạn, chẳng phế bỏ công đức, cũng chẳng ức
chế người không phước khánh. Sở dĩ vì sao ? Vì tu hạnh trung gian. Lại, xử
ấy là thần túc đã tu tập đúng như lời pháp giáo của đức Phật, không có
điều hy vọng. Lại, xử ấy là học tập đức lành, các căn chẳng loạn, phi pháp
nhiều vô hạn đều có thể phân biệt. Lại, xử ấy là mười thứ lực, không có gì
có thể thắng tấm lòng mang thánh trí. Lại, xử ấy là muốn cầu giác ngộ của
Phật, những hạnh hưng tạo vào mọi pháp nghĩa mà chẳng tự đại, thành tựu
bảy giác ý. Lại, xử ấy là cầu đạo đức riêng, chẳng nghĩ những người đến, ở
và đi, cũng không điều tưởng nghĩ. Lại, xử ấy là hâm mộ tìm cầu cung kính
tịch tịnh, chí ấy mà không rối loạn. Lại, xử ấy là muốn được chánh quán,
sáng suốt xem xét các pháp cầu tìm sự tồn tại ấy. Lại, xử ấy là từng đã
nghe rộng thì có thể tu tập, thường đúng như pháp trụ, ham tu đức hạnh của
thân. Lại, xử ấy là cầu đến pháp thân mà ném bỏ mọi thói tục, chấp trước
vọng tưởng và tin đạt vô hình. Lại, xử ấy là gọi âm thanh đó thường muốn
trang nghiêm, tùy thời phát ra thông suốt đến mười phương. Lại, xử ấy là
ưa đúng như đạo hạnh, người thoát hay chẳng thoát đều khiến cho đến với
yên vui vĩnh viễn. Lại, xử ấy là chẳng hợp với sai quấy, khuyến hóa bốn
ma. Sao gọi là bốn ma ? Một là ma thân, hai là ma tội trần, ba là ma chết,
bốn là ma trời. Lại, xử ấy là lìa các ác, tu tập mọi gốc đức, các dơ bẩn
lặng yên mà chẳng dấy loạn. Lại, xử ấy là thấy khắp đạo tuệ, xét mọi duyên
khởi. Lại, xử ấy là thấy những sở nhập, sở tác thế tục, tiêu dứt nhân
duyên phương tiện mà tế độ họ. Lại, xử ấy là đều nhìn thấy đạo pháp mà tùy
lúc giáo hóa. Ðó là tinh tấn mà chẳng thể tận. Nếu có người có thể đủ tất
cả xử thì nhất định không có các nạn, các sở tác đều hóa giải hết. Chẳng
dùng vọng tưởng trụ ở tuệ sở hành, cũng chẳng chuyển động, tất cả hành
động đều chẳng lìa khỏi tuệ. Sao gọi là hành động Bồ tát chẳng lìa khỏi
tuệ ? Công đức đã làm đều nhân vào pháp đó, thường vì tất cả hưng khởi Vô
Cực Từ. Vô Cực Từ là chẳng tận thế tục, nhân vào tuệ của Phật đạo mà chẳng
theo vô vi. Ðó là Tinh Tấn vô tận của Bồ tát.
Khi tuyên nói về Tinh Tấn chẳng thể tận thì
chín mươi sáu vạn vạn chư thiên, người đời đều phát ý đạo Vô thượng Chánh
Chơn, ba vạn hai ngàn thiên tử đều được pháp nhẫn Vô Sở Tùng Sinh.
Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi ngài Bồ tát A Soa
Mạt rằng :
- Há lại có nghĩa Thí độ vô cực chẳng thể
tận ư ?
Ngài A Soa Mạt đáp rằng :
- Do mười sáu việc mà chẳng thể tận ! Thanh
văn, Duyên giác đã chẳng thể bì kịp. Sao gọi là mười sáu ? Một là việc bố
thí chẳng mang dị tâm mà đều đầy đủ pháp thí của Như Lai. Hai là đã bố thí
thì chẳng dấy khởi ý niệm này : Ta nhờ việc này nên sẽ được phước báo. Ba
là đã bố thí thì thương khắp tất cả, chẳng mang dị tâm. Bốn là đã bố thí
thì chẳng nghĩ mong được tam muội chánh thọ. Sở dĩ vì sao ? Vì chẳng thích
sinh lên cõi trời Tịnh Cư mà thường ưa nhân gian. Năm là đã bố thí thì đều
có thể biết được tâm hạnh của chúng sinh. Sáu là đã bố thí thì ý ấy thanh
tịnh nhu hòa. Sở dĩ vì sao ? Vì muốn khiến cho tâm ấy tùy theo sự tính
toán của mình, cũng khiến cho thân ấy theo ý nghĩ của tâm. Bảy là đã
bố thí thì theo đúng ý của người nhận. Sở dĩ vì sao ? Vì đức ấy qua khỏi
trời Sắc và Vô Sắc. Tám là đã bố thí thì cho tịch mịch và điềm đạm. Sở dĩ
vậy là vì vượt lên trên các Thanh văn, Duyên giác. Chín là đã bố thí thì
lòng chẳng hối hận. Sở dĩ vì sao ? Vì muốn khiến cho thông suốt đến thành
tựu. Mười là đã bố thí thì uy thần lồng lộng không thể chế ngự đoạn tuyệt.
Mười một là đem trí tuệ thí bình đẳng khắp chúng sinh, kiến lập, độ thoát
tất cả. Mười hai là bố thí ấy là bố thí cho người tùy theo ý ưa thích mà
lòng ban cho cứu giúp luôn yên ổn chân chính. Sở dĩ vì sao ? Vì có thể chế
ngự được ý. Mười ba là sự thí cho ấy chẳng đoạn tuyệt Tam Bảo. Sở dĩ vì
sao ? Vì chẳng xả bỏ giống Như Lai Chí Chơn. Mười bốn là Bố thí thường
sáng suốt, chẳng hoài bão do dự mà chẳng mê hoặc. Mười lăm là việc thí cho
là thuận theo đúng như lời pháp giáo. Sở dĩ vì sao ? Vì việc làm theo
nghĩa. Mười sáu là việc thí cho không đâu chẳng biết, có sự hưng tạo thì
ưa theo gốc trí tuệ. Sở dĩ vì sao ? Vì muốn cho trí ấy không có cùng cực
rất to rộng vậy. Ðó là mười sáu sự nghiệp Thí độ vô cực mà chẳng thể tận
của Bồ tát.
Sao gọi là tâm thiền Tịch tịnh vậy ? Sao
gọi là thần thông Tuệ đầy đủ vậy ? Sao gọi việc thấy các sắc của tuệ là
chẳng thông ? Nhìn thấy các sắc tận, ý ấy chẳng tùy theo cái thấy thì đây
gọi là Thông. Sở dĩ vì sao ? Vì thấy thế mà chẳng giữa đường tu hành thủ
chứng. Việc thính văn (nghe) ấy đều ở tại chẳng thông. Các âm thanh có
nghe đều không đạt được thì đây gọi là thông. Có thể biết hết tâm hạnh của
chúng sinh thì đó là chẳng thông. Lòng trừ diệt trí này, chẳng đem hết
lòng mà tạo chứng vậy. Sở dĩ vì sao ? Vì chẳng chọn lấy La hán thì đây gọi
là Thông. Có thể tự biết vốn nhân từ đâu đến thì đó là chẳng Thông. Chắng
đối với ba đời mà có ngăn ngại thì đây gọi là Thông. Châu biến các đất
nước thì đó là chẳng Thông. Tuy châu biến các nước mà hiểu
ra không sở hữu, không có tư tưởng
về đất nước thì đây gọi là Thông. Tin hướng về các pháp thì đó là chẳng
Thông. Thấy được gốc, ngọn của tất cả các pháp thì đây gọi là Thông. Tất
cả sở tác có ý vọng tưởng thì đó là chẳng Thông. Hiểu rõ chúng sinh mà
không hy vọng điều gì thì đây gọi là Thông. Ưa muốn vãng sinh hoặc qua các
trời Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên vương thì đó là chẳng Thông. Bồ tát
đều biết việc tu Thánh Tuệ của tất cả Thanh văn, Duyên giác, có thể nắm
lấy chung hết thì đây gọi là Thông, là nguyên thủ (đứng đầu) của mọi
người. Ðã gọi là nguyên thủ thì ở tại bậc tối thượng của các pháp. Nhân đó
gọi là Thông Tuệ công đức mà chẳng thể tận - Ngài A Soa Mạt Bồ tát lại nói
với ngài Xá Lợi Phất - Nhân các ý loạn, Bồ tát lấy cớ tu tập tự điều phục
tâm thì đó là Thiền. Trí tuệ ấy xả bỏ hết mọi ác thì đó gọi là Thiền Ðịnh.
Lại, Bồ tát tu tập, trụ ở định ý thì tâm không biến đổi. Sở dĩ vì sao ? Vì
rằng tu chánh trụ. Tu chánh trụ nên tập sáu độ vô cực. Các pháp chân chánh
nên tập các pháp. Vì chân chánh nên học tập
hạnh Bồ tát, lòng bình đẳng với
chúng sinh. Ðã bình đẳng với chúng sinh rồi liền bình đẳng với các pháp.
Ðã bình đẳng các pháp thì biết tâm Bồ tát. Ðã biết tâm Bồ tát thì có thể
giải thông suốt chí tháo của chúng sinh. Biết tâm chúng sinh rồi thì biết
các pháp. Ðó gọi là tập bình đẳng rộng lớn với tất cả loài chúng sinh,
bình đẳng với các pháp mà không thân sơ. Bình đẳng trụ ở các pháp thì đó
gọi là Ðịnh ý, là Chánh thọ vậy. Không, vô tướng, vô nguyện. Gọi là bình
đẳng với sinh tử. Bình đẳng sinh tử thì liền bình đẳng các pháp. Người ấy
đã bình đẳng, thản nhiên không thiên lệch. Tâm đã bình đẳng khắp thì bình
đẳng với tâm chúng sinh. Bình đẳng với tâm chúng sinh rồi thì mới gọi là
bình đẳng nên gọi là Phổ Ðẳng. Sở hành của tâm ấy bình đẳng như hư không,
như đất nước lửa gió, không có yêu ghét. Tâm ấy bình đẳng thì không lo
không mừng. Thân ấy đã trụ ở cõi Phật Bất Tuần thì định như tam muội,
chẳng dùng dua nịnh như trụ ở bản tế mà chẳng tự đại, cũng chẳng hèn hạ.
Ðã chẳng si, chẳng ác, cũng chẳng nhiều lời, chỉ muốn hiểu rõ nguồn gốc
của pháp, đúng lúc chẳng đúng lúc thường tùy nghi theo thời, chẳng theo dơ
bẩn của tất cả thế tục, vượt qua tám việc thế gian : lợi, suy, hủy, dự
(danh dự), khổ, vui, có danh xưng, mất danh xưng, bỏ các hữu vi, chẳng ưa
rối rắm ồn ào... tùy theo những pháp đó thì chẳng lìa tam muội. Sở dĩ vì
sao ? Vì đều thấy sự tạo lập hạnh của thiên hạ tùy theo hành động ấy nối
tiếp tại tam muội không thể biết được. Ðó gọi là phương tiện thiện quyền
của Bồ tát thâm nhập vào trí tuệ tịch độ vô cực. Nếu muốn tam muội nắm giữ
chế ngự tâm ấy thì nhờ Vô cực ai mà tùy theo nhân duyên. Sở dĩ vì sao ? Vì
do chúng sinh vậy. Ý nghĩa ấy gọi là phương tiện thiện quyền, nghiệp của
tam muội tịch nhiên điềm đạm. Ðây là Thánh tuệ. Theo đúng như sự kiến lập
của tam muội mà y ngưỡng Phật tuệ thì đó gọi là thiện quyền. Nếu đối với
các pháp mà mãi mãi không có sự cầu xin thì đó gọi là Trí tuệ. Tôn phụng
nắm giữ định ý, lại dùng công đức giáo hóa ủng hộ các pháp thì đó gọi là
thiện quyền. Tâm ấy thản nhiên chẳng hoại pháp thân thì đó gọi là trí tuệ.
Dùng tam muội định trụ ở niệm vẻ đẹp các tướng của thân Phật thì đó gọi là
thiện quyền. Ơn rộng đến trăm họ, nghĩ về pháp thân của Phật thì đó gọi là
trí tuệ. Ở trong tam muội niệm âm thanh của chư Phật giống như âm thanh
Phạm thì đó gọi là thiện quyền. Nghĩ biết các pháp không có ngôn từ thì đó
gọi là trí tuệ. Trụ ở tam muội, lòng như Kim cương thì đó gọi là thiện
quyền. Tuy được thiền định mà chẳng quên bầy lũ chúng sinh thế tục thì đó
gọi là trí tuệ. Nếu ở tam muội nghĩ đủ bổn nguyện, nuôi lớn tất cả thì đó
là nơi nơi tùy lúc thiện quyền. Lại, ở trong thiền tư giải thấu chúng sinh
đều không ngô ngã thì đó gọi là trí tuệ. Du hành trong tam muội mà chẳng
xả các pháp thì đó gọi là thiện quyền.
Hiểu các pháp không gốc ngọn cũng
không căn nguyên thì đó gọi là trí tuệ. Tu ở tam muội mà nghĩ các cõi Phật
đều là thanh tịnh thì đó gọi là thiện quyền. Hiểu thông các cõi Phật đều
không sở hữu thì đó gọi là trí tuệ. Trụ tại tam muội tư duy có cây Phật tu
trang nghiêm thì đó gọi là thiện quyền. Thân lìa khỏi mọi dục mà không uế
trược thì đó gọi là trí tuệ. Lại, ở tại tam muội nghĩ chuyển pháp luân thì
đó là thiện quyền. Tuân hành thiền định chuyển “không có cái chuyển” thì
đó gọi là trí tuệ. Trụ ở tam muội muốn thấy Bồ tát dùng tướng trang nghiêm
thì đó gọi là thiện quyền. Dùng pháp cứu tế mọi khổ mà không có phiền não
thì đó là thiền của Như Lai. Như Lai thiền thì liễu ngộ tất cả pháp, vĩnh
viễn chẳng tham dục, chẳng tưởng trần lao, biết các tình lạc, trừ mọi pháp
tưởng thì gọi là Thiền tư. Ðó là địa tuệ sở sinh của Bồ tát. Bậc Khai Sĩ
đại sĩ do sự nhất tâm (định) cùng với pháp chẳng “đồng trần” nên mới gọi
là Thiền chẳng thể tận. Chẳng để cho tất cả chúng ma được tiện nghi thì vì
Chánh Giác tạo các pháp khí. Sở dĩ vì sao ? Vì không gì chẳng dung chứa.
Khi vị Chánh Sĩ nói Tịch đô vô cực chẳng
thể tận này thì bốn vạn Bồ tát được Nhật Minh tam muội. Sao gọi là Nhật
Minh tam muội ? Ðịnh này giống như lúc mặt trời mọc, lửa đèn, ánh đuốc,
ánh sáng tinh tú bị che tối không sáng được. Bồ tát đã chứng được tam muội
này thì tất cả các Thánh đều bị che phủ. Sở dĩ vì sao ? Vì ánh sáng của
tuệ ấy lồng lộng rộng lớn. Ánh sáng trí tuệ của Thanh văn, Duyên giác đều
bị che trùm. Do vậy nên gọi là Nhật Minh tam muội. Bồ tát đã trụ ở Tịch độ
vô cực đều có thể chứng thành các tam muội định. Những điều thô thiển đã
nêu lên đều là sơ sài. Tóm lại, xin diễn nói tên các tam muội. Có tam muội
tên là Chiếu Minh, có định tên là Nguyệt Quang, có định tên là Trang
nghiêm, có định tên là Nghiêm Diệu, có định tên là Tu Nghiêm, có định tên
là Vô Cục Huy Mãnh Phục, có định tên là Kỳ Minh Tiêu Minh (tối) , có định
tên là Như Chư Pháp Giáo, có định tên là Thành Quang Minh, có định tên là
Vô Sở Ưu, có định tên là Lập Kiên Cố, có định tên là Ðẳng Như Thái Sơn, có
định tên là Pháp Minh, có định tên là Pháp Ngự, có định tên là Pháp Quân
(vua) , có định tên là Pháp Tuệ Thuận Giáo, có định tên là Cảm Pháp Bảo,
có định tên là Pháp Thành Tổng Trì Ngự, có định tên là Tri Nhân Ý Hạnh, có
định tên là Tràng Anh Khí Chúng Phiền Hà, có định tên là Lực Chế Tứ Ma, có
định tên là Ðã Thành Mười Lực, có định tên là Ðoạn Chư Quái Ngại, có định
tên là Tạo Ðăng Quang, có định tên là Trụ Bền Như Ðất, có định tên là Như
Tu Di, có định tên là Do (giống như) An Minh, có định tên là Trí Hạnh
Quang Diệu (ánh sáng) , có định tên là Trí Bất Khả Kế Tùy Cụ Giáo, có định
tên là Tâm Giáo Nhu Nhuyến, có định tên là Vô Sở Cầu Thoát, có định tên là
Như Thủy Nhật Nguyệt Quang, có định tên là Giống Như Thân Phật, có định
tên là Ðẳng Chư Vô Ngã, có định tên là Ðiều Tượng Tùy Giáo, có định tên là
Kiến Ðắc Chư Phật, có định tên là Pháp Ý Vô Ngại, có định tên là Vô Thoái
Bất Chuyển, có định tên là Chúng Ðộc Tiêu Tịnh Như Nguyệt, có định tên là
Nhập Không Tịch, có định tên là Hiểu Chúng Tưởng, có định tên là Vô
Nguyện, có định tên là Trụ Nhất Tâm, có định tên là Như Kim Cương, có định
tên là Vô Cực Quang Mạc Năng Ðương, có định tên là Tự Tại Tịnh, có định
tên là Nội Chư Lao Phiền Tận, có định tên là Quảng Ðại Như Không, có định
tên là Nhập Nhất Thiết Nghiệp, có định tên là Tâm Tư Ðắc Tuệ, có định tên
là Tuệ Duyệt Nhân Vô Tận, có định tên là Thành Thánh Tuệ, có định tên là
Tổng Vô Sở Vong, có định tên là Minh (tối) Phổ Kiến Minh (sáng) Giai Ða
Lạc, có định tên là Từ Hạnh, có định tên là Tâm Bản Tịnh Ðại Ai, có định
tên là Nhập Chư Hộ, có định tên là Tâm Ðẳng Nhập Vô Sở Ngại Thoát, có định
tên là Pháp Pháp Trụ, có định tên là Trí Minh Ðạt, có định tên là Giải
Sướng, có định tên là Bất Khả Sổ, có định tên là Sung Bão
Chúng, có định tên là Vô Bất Liễu, có định tên là Thoát Tuệ Tùy Hóa Chúng,
có định tên là Kim Cương Liên Hoa, có định tên là Liễu Vô Thường, có định
tên là Tôn Trí Tuệ, có định tên là Dũng Phục, có định tên là Chư Phật
Niệm, có định tên là Tùy Giáo Minh Thoát, có định tên là Nghiêm Phật Thổ,
có định tên là Khai Tịch (mở) Tịnh Chư Quốc, có định tên là Nhập Chúng
Sinh Tâm Hỷ, có định tên là Chánh Chân Trực, có định tên là Dĩ Bồ Tát Ðạo
Lục Ðộ Vô Cực Nghiêm, có định tên là Giác Giải Kết, có định tên là Giác Ý
Hoa, có định tên là Thí Thoát Nhược Thiên Dược, có định tên là Quang Vô
Bất Châu, có định tên là Minh Vô Trụ Phật, có định tên là Thậm Thâm Diệu,
có định tên là Tích Bảo Như Hải, có định tên là Như Sơn Phương Diện, có
định tên là Thần Túc Thậm Quảng Vô Bất Tổng, có định tên là Kiến Vô Số
Phật, có định tên là Tổng Chư Học, có định tên là Như Ðàn Chỉ Khoảnh Vô
Bất Tri, có định tên là Trí Bất Khả Hạn Kế Như Ðại Hải.v.v... Hàng vạn vạn
ức những định như vậy. Bồ tát nhờ trụ ở Tịch độ vô cực mà hoàn bị khắp
những định ấy.
Ngài A Soa Mạt Bồ tát lại nói với ngài Xá
Lợi Phất rằng :
- Sao gọi là Trí độ vô cực mà chẳng thể tận
Theo đúng như chỉ thú tuệ nghe được mà kiến lập hạnh nên gọi là chẳng thể
tận. Ứng như hạnh ấy thì có tám mươi việc. Những gì là tám mươi ?
Thuận điều nghe - Tìm đúng như ý - Theo
như lời dạy tu tập - Theo lệnh bạn lành - Chẳng tự đại - Việc làm chẳng
quên - Thường cung kính - Theo nghiệp kinh điển - Ðúng như lời mà theo -
Luôn tu tập trí - Lòng siêng thọ - Chẳng mất tiết tháo - Chẳng quên niệm -
Ý chẳng loạn - Dấy lòng báu - Hiển bày chí dược (thuốc) - Trừ các bệnh -
Chính là ý khí (đồ chứa ý) - Ưa nhẫn nhục - Tư duy ưa chân thật (chân lý)
- Vào tuệ ý - Học không chán - Bố thí không mưu cầu gì - Bố thí không thân
sơ - Ðiều nghe suy nghĩ thấu đáo - Hoan hỷ khải thọ - Lòng vui thân nhẹ -
Ý ấy thanh tịnh nhu hòa - Mà không phiền hà - Việc học theo đúng như gốc -
Thường ưa nói pháp - Nghe muốn hướng về đạo - Pháp tự giữ gìn - Ưa nghe
chân chánh - Chẳng ở tại cái học khác.
Chỉ thọ nhã trí độ vô cực - Theo đến với
kinh Bồ tát Phương Ðẳng - Chỉ mộ nghe kinh quyền phương tiện - Lại ưa nghe
tập tứ đẳng tâm - Lại xem xét giải rõ không thần thông (?) - Theo đúng như
ý ban đầu không nghĩ khác - Lòng cốt chăm đến đế thiện phương tiện - Chỉ
muốn nghe đến pháp Vô sinh. Không tham quán, chỉ ưa Từ, rõ mười hai duyên,
thấu vô thường.
Biết đến khổ - Suốt thông vô ngã - Muốn
biết Tịch - Phân biệt không - Giải vô tướng - Thể vô nguyện - Hiểu sinh tử
- Rõ công đức - Ðạt chúng sinh - Biết không quên - Nghiêm âm ấy - Như
thành quách - Ðiều nghe siêng nắm giữ - Ưa nghe cái quí báu của kinh - Ở
tại cõi tục biết tục - Mở mang ở trong ý - Lấy làm bạn
bè - Muốn nghe hàng phục (?) - Các
sự nghiệp.
Chí thường nghĩ may mắn - Vào khắp các pháp
- Ưa đoạn dứt nghèo thiếu gọi là nghèo thiếu - Gọi là trí chẳng đủ - Niệm
giải tuân thông - Hiểu giải Thánh tuệ - Mừng thọ Chánh đạo - Hiểu kẻ vô
trí - Ðều giáo hóa khiến cho biết - Rõ luôn gặp khổ - Cấp cho kẻ chẳng đủ
- Biệt ly tất cả - Không nghiệp công đức - Hiểu sáng gốc ấy - Mọi ác chẳng
làm - Thông suốt nghĩa của thân - Ðạt lợi chúng sinh - Giải hạnh yên ổn -
Ưa chẳng ôm hận - Muốn riêng chí tôn - Sự việc vô cực - Nghĩ các pháp Phật
- Ðã nhận được đạt đến.
Ðó gọi là đúng như tuệ đã nghe liền kiến
lập hạnh.
Ngài A Soa Mạt Bồ tát nói với ngài Xá Lợi
Phất rằng :
- Bồ tát có ba mươi hai việc tùy lúc sở
nhập. Những gì là ba mươi hai ? Theo âm hưởng nhập (vào) (1) Muốn vào đến
quán (2) Nhập tâm sở hạnh (3) Nhập thân cầu thoát (4) Mà tế độ chúng sinh
(5) Nhậpï bất đoạn vô thường (6) Nhập vô sở trước (7) Nhập tùy nhân duyên
để có thể làm việc (8) Chỗ vào không người (9) Vào đến vô thọ (sống lâu)
(10) Vào đến vô mạng (11) Vào chỗ sở trụ của quá khứ, vị lai và hiện nay
(12) Vào nghiệp công đức (13) Vào “không” chẳng giải đãi (14) Vào đến vô
tướng (15) Mà vào vô nguyện chẳng phế bỏ cần tu, chẳng dùng “không” thủ
chứng vô tướng vô nguyện, hộ trì rồi chẳng đọa (16) Muốn vào tam muội mà
tu chánh thọ đều hướng về thành tựu tam muội chánh thọ. Do vậy nên chẳng
sinh lên trời Vô Sắc. Sở dĩ vì sao ? Vì
ủng
hộ sự đạt đến (17) Lại vào căn nguyên của các thông trí tuệ. Tuy vậy chẳng
vào con đường Tận Diệt (18) Lại vào vô sinh cứu tế các chỗ sinh (19) Lại
vào bản tế để tư duy nghĩa ấy (20) Muốn vào vô tế mà chẳng thủ chứng. Sở
dĩ vì sao ? Vì có sự nuôi hộ vậy. Cái gọi là không hộ tức là Thanh văn
(21) Muốn vào chúng sinh lý giải không ngô ngã, chẳng bỏ Ðại Ai (22) Vào
tất cả nạn sinh tử đáng sợ (23) Ðã có thể đi vào thì tuy có sinh tử mà
không bị sinh (24) Lại vào các trần lao mà mọi người đã chán (25) Vào với
kẻ chán dục cũng chẳng đọa lạc. Sở dĩ vì sao ? Vì chẳng ở trong đó thủ
chứng (26) Lại vào với nhóm chẳng nghĩ đến dục, vào mà chẳng bỏ pháp (27)
Vào với những người phạm pháp mà chẳng làm điều sai quấy (28) Vào quyền
phương tiện. Sở dĩ vì sao ? Vì do nhân ý chúng sinh rơi vào tham ái dục mà
muốn khai hóa (29 - Nguyên bản của kinh này ở các tạng đều khuyết mất việc
thứ 30). Ðã vào giáo thọ thì ứng bệnh mà cho thuốc (31) Việc hóa độ của Bồ
tát đều được chỗ ấy (32). Ðó là ba mươi hai việc mà sự dẫn đường đúng như
sự việc. Sở dĩ vì sao ? Vì chẳng mất tiết tháo vậy. Giống như muốn vào
thành thì theo cửa mà vào, muốn thông suốt mọi duyên thì phải dùng mắt
quan sát. Người hiểu thấu duyên nghiệp thì chẳng tranh tụng. Muốn cho
không tranh tụng thì chớ như tự thủ (giữ). Muốn biết không nói là khoái
tột cùng thì chẳng bằng chớ nói. Sở dĩ vì sao ? Vì chẳng ưa nói là tự hộ
trì thân miệng. Chẳng muốn dừng lại thì chớ ở tại đó. Chẳng muốn động thì
thận trọng chớ được chuyển. Không hy vọng thì cũng không có gì tưởng nghĩ.
Vậy nên gọi là bình đẳng. Muốn chẳng mê sắc thì phải trụ vững vàng chân
chính. Ðã trụ vững vàng thì ấy mới là đạt đến. Chẳng ưa khiến cho biến
đổi, luôn tự cẩn thận. Nếu hâm mộ tịch tịnh, nuôi dưỡng mình thì chớ được
xưng dương mình. Chẳng muốn hạ thấp thì chớ tự kiêu căng cao ngạo. Chẳng
cao, chẳng thấp đầy đủ chánh pháp. Tổn hao chẳng mừng thì không có thể
trách phạt. Nên ưa yên ổn tiện nghi thì việc làm không mất ! Không gì mất
thì không có nghi ngờ. Không có nghi thì hiểu thấu vô bản nên tiện nghi
không mất gì, bình đẳng với ba đời mà không sai khác. Ba đời bình đẳng thì
không có sự tăng, tổn. Chẳng trụ ở sắc, thọ (thống), tưởng, hành, thức
cũng không đặc thù. Mắt thấy biết sắc thì không sở trụ. Tai nghe biết
tiếng, mũi ngửi biết hương, lưỡi nếm biết vị, thân chạm biết mềm, ý nhận
biết pháp đều không sở trụ. Từ bản tịnh làm
như pháp, làm như tuệ, làm như chân
lý (thẩm đế), làm như không ngô ngã. Thấy các pháp làm vô ngã thì gọi là
Tuệ. Hiểu thấu các sở hữu đều không sở hữu, cũng đều vô bản thì đó gọi là
Tuệ. Chẳng đem thân thêu dệt mà mang lòng tự đại thì đó gọi là Tuệ. Biết
đối với Bồ tát tu tập tuệ chánh chơn, thông đạt tất cả chúng sinh, vì tất
cả chúng sinh nên lòng thường chẳng bỏ, chẳng lìa các pháp. Ðó mới gọi là
Bồ tát tập tuệ.
KINH A SOA MẠT BỒ TÁT
- Quyển thứ ba - hết.
--- o0o ---
Quyển
1
|
Quyển
2
|
Quyển
3 |
Quyển
4
Quyển
5
|
Quyển
6
|
Quyển
7
--- o0o ---
Vi tính: Thọ Huệ
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật:
4-2003