Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

   Tiếng Anh 

qd.jpg (8936 bytes)

Kinh Điển Phật Giáo


......... .


KINH ĐẠI BỬU TÍCH

Hán dịch: Cao Tề, Pháp Sư Na Liên Đề Gia Xá.

Việt dịch:  Thích Trí Tịnh

--- o0o --- 

XIII

PHÁP HỘI

BỒ TÁT KIẾN THIÊT

 

PHẨM

ÐÂU SUẤT ÐÀ THIÊN THỌ KÝ

THỨ MƯỜI SÁU

 

Bấy giờ có tám ức Ðâu Suất Ðà Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La nhẫn đến Dạ Ma Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở và nghĩ rằng : Nơi những pháp nào mà đức Thế Tôn thọ ký cho Vô thượng Bồ đề ? Là sắc thọ ký, thọ tưởng hành thức được thọ ký Vô thượng Bồ đề ?  Chư Thiên ấy lại nghĩ rằng : Chẳng phải thọ ký cho sắc, cũng phải thọ ký Vô thượng Bồ đề cho thọ tưởng hành thức. Tại sao ? Vì sắc đã chẳng sanh, Bồ đề cũng chẳng sanh, Thế nào sắc vô sanh mà ngộ được Bồ đề vô sanh, như vậy thọ tưởng hành và thức vô hành làm sao ngộ được Bồ đề vô sanh .Sắc đã chẳng diệt Bồ đề cũng chẳng diệt, thế nào sắc bất diệt lại ngộ được

Bồ đề bất diệt, như vậy thọ tưởng hành và thức bất diệt làm sao ngộ được Bồ đề bất diệt.

Sắc vô phân biệt, Bồ đề cũng vô phân biệt, thế nào sắc vô phân biệt lại ngộ được Bồ đề vô phân biệt, như vậy thọ tưởng hành và thức vô phân biệt làm sao ngộ được Bồ đề vô phân biệt.
Sắc đã vô nhị, Bồ đề cũng vô nhị, thế nào sắc vô nhị lại ngộ được bồ đề vô nhị, như vậy thọ tưởng hành và thức vô nhị làm sao ngộ được Bồ đề vô nhị.

Sắc đã vô tác, Bồ đề cũng vô tác, thế nào sắc vô tác lại ngộ được Bồ đề vô tác, như vậy thọ tưởng hành và thức vô tác làm sao ngộ được Bồ đề vô tác.
Sắc đã bất khả đắc, Bồ đề cũng bất khả đắc, thế nào sắc bất khả đắc lại ngộ được Bồ đề bất khả đắc, như vậy thọ tưởng hành và thức bất khả đắc làm sao ngộ được Bồ đề bất khả đắc.

Ở trong các pháp bất khả đắc ấy, gì là Phật, gì là Bồ đề, gì là Bồ Tát, gì là thọ ký. Sắc ấm không, thọ tưởng hành thức cũng đều không. Tại sao ? Vì tự tánh không vậy. Thế thì Phật không, Bồ đề không, Bồ Tát không, thọ ký không. Tại sao ? Vì tự thể không vậy. Trong tất cả pháp tánh không như vậy, nói rằng Phật ấy là danh là dụng là thế đế, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thuyết. Nói rằng sắc thọ tưởng hành thức cũng chỉ là danh là dụng là thế đế là ngôn thuyết là thi thiết. Người trí ở nơi đây chẳng nên tham trước.
Ví như có người chiêm bao hưởng thọ ngũ dục lạc, lúc thức chẳng thấy sự vui ấy, vì nhớ lại chẳng được vui ngũ dục nên sanh khổ não.

Người an trụ nơi Bồ Tát thừa mà thủ trước, vì chẳng ngộ Bồ đề chẳng chứng Bồ đề nên chẳng được pháp vị ấy. Vì chẳng được pháp vị nên lòng sanh khổ não. Tại sao ? Vì các pháp như vậy đều như cảnh mộng chẳng thiệt có. Pháp ấy nghĩa sai biệt , hang phàm phu hiểu biết đều sai khác. Tất cả các pháp phải biết như vầy : Pháp nào là Phật, pháp nào là Bồ Tát, pháp nào là Bồ đề ? Các Phật pháp ấy đều bất khả đắc. Phàm phu bất khả đắc, pháp phàm phu cũng bất khả đắc. Thanh Văn bất khả đắc, pháp Thanh Văn cũng bất khả đắc. Bích Chi Phật bất khả đắc, pháp Bích Chi Phật cũng bất khả đắc. Bồ Tát bất khả đắc, pháp Bồ Tát cũng bất khả đắc. Chư Phật bất khả đắc, pháp chư Phật cũng bất khả đắc, Bồ đề bất khả đắc, Niết bàn cũng bất khả đắc. Trong các pháp như vậy, chúng tôi hiểu rõ không hoài nghi.

 Ðâu Suất Ðà Thiên ở trong pháp ấy không nghi ngờ rồi đối với Phật càng kính tin, thích dâng cúng dường. Họ cúng dường hơn trời Dạ Ma, đảnh lễ chưn Phật, nhiễu Phật ba vòng rồi đứng qua một phía nói kệ tán than đức Phật :

“ Nhừng người an trụ Phật công đức

Như Lai vì họ dạy pháp hành

Họ được ba thứ giải thoát môn

Tu hành trong cảnh giới vô đẳng

Không sắc không thọ tưởng hành thức

Không người hay thọ cũng không tâm

Ðây là cảnh giới trí vô ngại

Thiên Nhơn Sư thích lìa dục ấm

Bực trí huệ đại trượng phu ấy

Chẳng lấy tưởng phát tâm Bồ đề

Lìa Ấm rồi được thắng thiện căn

Nơi Phật công đức không nghi lự

Chí nguyện Vô thượng đại Bồ đề

Nhưng với Bồ đề lìa thủ trước

Vì vậy nội tâm không lo mừng

Gọi là Phật tử tu thánh đạo

Ðồng Phật thấy pháp đều bình đẳng

Thế nên vô pháp vô sở úy

Người trí ở chỗ thế gian nầy

Cầu Phật công đức khởi tu hành

Giản trạch sắc tướng vô sở trước

Vứt bỏ tấ cả tâm có tướng

Nơi ba cõi kia chăảng mong muốn

Quan sát các cõi thảy đều không

Biết được ngũ ấm đều chẳng sanh

Như Lai thọ ký đến Bồ đề

Bồ đề tâm ấy cũng vô sanh

Người nói lời nầy không ngu hoặc

Như Lai công đức và sanh tử

Các Phật pháp ấy đều vô sanh

Người biết như vậy là trí huệ

Ðây là chơn thiệt con Như Lai

Nếu biết được các ấm bất diệt

Giới nhập và cùng pháp Như Lai

Phật cùng Bồ đề và thọ ký

Các pháp như vạ-y đều bất diệt

Nếu vì Bồ đề mà tu hành

Phải biết người ấy cũng bất diệt

Vì biết thế gian là bất diệt

Nên cầu Bồ đề chẳng là khó

Năm ấm giới nhập và Bồ đề

Bồ Tát cùng Phật đều vô tác

Biết rõ như vậy là Phật tử

Hay trì chánh pháp của Như Lai

Ấm giới các nhập đều vô giác

Bồ đề cùng Phật và Bồ Tát

Và cùng thọ ký đều vô giác

Người biết như vậy là Phật tử

Ngũ ấm giới nhập tánh không tịch

Phật cùng Bồ đề và thọ ký

Thiệt con của Phật người tu hành

Tất cả cũng đều tự tánh không

Ấm giới các nhập đều hư vọng

Lưỡng Túc Thế Tôn và Bồ đề

Bồ Tát thọ ký cũng hư vọng

Biết rõ như vậy là Phật tử

Chẳng phải y chỉ chẳng y chỉ

Cũng phải pháp có pháp không

Chẳng phải hữu vi và vô vi

Biết rõ như vậy là Phật tử

Thế Tôn thấy thế gian như vậy

Chúng tôi biết tâm Phật như vậy

Nên liền cúng dường lên Như Lai

Cũng cúng tất cả chúng hiền thánh

Chúng tôi khen Phật mà được phước

Chỉ Phật Thế Tôn biết rõ được

Ðem công phước đức nầy thí quần sanh

Nguyện đều thành Phật đủ tướng tốt ».

Ðức Thế Tôn biết trời Ðâu Suất Ðà tán thán và thâm tâm tin ưa rồi liền hiện tướng mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật :

« Vô Thượng Sĩ được đại thế lực

Do đại bi tâm hiện mỉm cười

Nguyện Phật nói rõ duyên cớ cười

Cho chúng được nghe đều mừng rỡ

Vì thấy Như Lai hiện tướng cười

Nên đại chúng nầy đều hoài nghi

Chúng tôi ân cần khắp chiêm ngưỡng

Thảy đều nhứt tâm muốn được nghe

Dường như thế gian có người bịnh

Chỉ tưởng y sư và lương dược

Ðại chúng như vậy đối với Phật

Mong muốn được nghe Phật thọ ký

Chúng ấy đều có trí huệ sâu

Chí cầu Bồ đề vô sở trước

Tất cả cung kính đồng chime ngưỡng

Chỉ mong Như Lai nói ký biệt

Thế Tôn nơi đây khởi đại bi

Dùng Phật trí lực dứt lưới nghi

Thế nên đại chúng đều mừng rỡ

Thảy đều nguyện cầu Phật công đức

Nay đúng là lúc Phật thọ ký

Ngưỡng mong dứt trừ các nghi hoặc

Phật đã từ lâu lìa oán dịch

Nguyện dứt ngoại đạo các tà luận ”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã thắng  :

“ Nay ông thỉnh hỏi nơi Như Lai

Nhơn duyên mỉm cười thật đúng lúc

Vì lợi thế gian nên thưa hỏi

Lòng vì lợi ích các chúng sanh

Biết các chúng trời lòng ưa thích

Nên Phật hiện tướng sáng mỉm cười

Chúng trời biết Phật pháp thắng diệu

Nên họ dâng cúng lên Như Lai

Họ đều như thiệt thấy thế gian

Tùy thuận thánh giáo được chứng pháp

Ðã đến ba thứ giải thoát môn

Chẳng phải thế gian mà biết được

Quá khứ đã cúng vô lượng Phật

Cũng đã hỏi Phật nghĩa sâu ấy

Nơi Phật quá khứ đã tu không

Nên ngày hôm nay hiển không nghĩa

Do thiện căn ấy nay tại đây

Họ được gặp gỡ Thích Ca Tôn

Dùng lý không khen đấng Vô Thượng

Làm lợi tất cả các thế gian

Thế gian như đây đều vô sanh

Chư Phật Bồ đề và thọ ký

Bao nhiêu người tu hành Bồ đề

Chúng ấy tất cả đều vô sanh

Chúng sanh đều đồng có pháp nầy

Biết như vậy rồi được Bồ đề

Quá khứ đã được tâm Bồ đề

Họ ở nghĩa nầy được biết rõ

Thế gian như vậy cũng chẳng diệt

Chúng trời Ðâu Suất khéo thông đạt

Trí sáng chiếu rõ đều không nghi

Nên chúng trời ấy đều làm Phật

Quyết định chắc được chỗ vô y

Nơi pháp chẳng lấy lìa phân biệt

Tất cả thế gian đều vô tác

Nghĩa nầy chúng trời hay biết rõ

Tất cả pháp thể lìa tự tánh

Chúng trời lòng sạch không nghi hoặc

Bồ đề và cùng tâm Bồ đề

Tất cả đều không tự tánh không

Chư Thiên Ðâu Suất huệ kiên cố

Thảy đều an trụ vô sở y

Nên được Bồ đề chẳng là khó

Chắc sẽ mau thành trí Vô Thượng

Ở kiếp tinh tú đời vị lai

Sẽ độ thoát được vô biên chúng

Tất cả trời ấy đều thành Phật

Ðồng cùng danh hiệu Trạch Pháp Vương

như Lai đối với chúng trời nầy

Biết họ thích ưa nên thọ ký

Tất cả đại chúng nghe Phật nói

Thảy đều hớn hở vừa lòng dạ ”.


 

Phẩm

Hóa Lạc Thiên thọ ký

Thứ mười bảy

 

Bấy giờ có Hóa Lạc Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc bảy ức chúng trời Hóa Lạc thấy A Tu La nhẫn đến trời Ðâu Suất Ðà cúng dường Phật được thọ ký, họ đều mừng vui hớn hở, họ đều vừa lòng được an trụ thiệt tế, ở trong chơn như không có nghi hoặc. Họ đồng đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, đầu mặt lạy chưn Phật, chắp tay cung kính khác miệng đồng lời mà bạch Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Như chúng tôi hiểu nghĩa của Phật nói thì tất cả các pháp là chơn thiệt tế, là vô biên tế, là vô ngại tế, là vô trụ tế, là vô tận tế, là bất nhị tế, là phi tế.

Bạch đức Thế Tôn ! Nói rằng thiệt tế là vì chẳng điên đảo vậy, vô biên tế là vì không hạn lượng vậy, vô ngại tế là vì lìa đối trị vậy, vô trụ tế là vì không tự tánh vậy, vô tận tế là vì vô sanh vậy, bất nhị tế là vì một vị vậy, phi tế là vì chẳng phải có vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Thiệt tế ấy khắp tất cả chổ, không có một pháp nào mà chẳng phải là thiệt tế.

Bạch đức Thế Tôn ! Nói là Bồ đề cũng là thiệt tế. Những gì là Bồ đề ? Tất cả pháp là Bồ đề vì lìa tự tánh vậy. Nhẫn đến năm nghiệp vô gián cũng là Bồ đề. Tại sao ? Vì Bồ đề không tự tánh, năm nghiệp vô gián cũng không tự tánh, nên nghiệp vô gián cũng là Bồ đề.

Bạch đức Thế Tôn ! Nói Bồ đề ấy như tánh vô dư Niết bàn, cũng như tánh nghiệp vô gián. Tại sao ? Tất cả pháp tức là tánh vô dư Niết bàn , cũng là tánh nghiệp vô gián, thế nên vô dư Niết bàn giới tức là Bồ đề.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh an trụ sanh tử có thể cầu Niết bàn ở trong thiệt tế, không có người an trụ sanh tử cầu Niết bàn. Tại sao ? Vì thiệt tế không hai vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi ở nơi đây hiểu rõ không hoài nghi. Nếu ai ở nơi pháp nầy không hoài nghi, phải biết người ấy đã ở nơi Phật quá khứ được thọ ký Vô thượng Bồ đề ».

Ðức Thế Tôn nghe Hóa Lạc Thiên Vương và bảy ức chúng trời Hóa Lạc nói thọ ký, vì muốn đại chúng vui mừng nên hiện tướng mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật :

« Ðấng thương thế gian hiện mỉm cười

Mà chẳng nói nhơn duyên cười ấy

Thiên Nhơn Ðạo Sư chẳng không nhơn

Hiện tướng mỉm cười phóng tia sáng

Ðã thấy tướng cười của Thế Tôn

Khiến các đại chúng đều hoài nghi

Ngưỡng mong nói duyên cớ mỉm cười

Dứt trừ tất cả những lưới nghi

Chúng ấy nếu được Như Lai nói

Nghe rồi đều sanh lòng hi hữu

Làm sạch chơn lộ cho chúng hội

Làm nhơn duyên xu hướng Bồ đề

Nếu có chúng sanh còn hoài nghi

Vì nghi nên khó được Bồ đề

Ngưỡng mong đại trí dứt nghi hoặc

Tinh cần mau chứng đạo vô thượng

Bạch đức Thế Tôn đại chúng nầy

Chí cầu Bồ đề lìa những ác

Ðược nghe chư Thiên thọ ký rồi

Quyết định sẽ thành đại Pháp Vương

Nguyện đức Thế Tôn vì xót thương

Dứt trừ tất cả lòng nghi hoặc

Thọ ký Bồ đề cho chư Thiên

Khiến chư đại chúng đều mừng rỡ”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

“Vì thương thế gian nên hiện cười

Mã Thắng nay ông hỏi nơi Phật

Phật đều thọ ký chư Thiên ấy

Các ông đều phải lắng lòng nghe

Bảy ức chúng trời Hóa Lạc nầy

Hay tự thọ ký được thành Phật

Trong chúng đã làm sư tử rống

Hay phá ngoại đạo các tà kiến

Thí như hư không mưa đá khối

Chắc nát mặt đất không còn nghi

Phật tử như vậy lìa nghi hoặc

Tự biết chắc sẽ thành Phật đạo

Dường như trời lặng đến đêm tối

Phải biết trăng mọc chắc chẳng lâu

Phật tử như vậy đủ công hạnh

Biết  chắc sẽ đủ mười trí lực

Lại như mặt nhựt lúc đứng bóng

Nhìn các sắc tượng đều sáng tỏ

Phật tử như vậy đủ công hạnh

Tự biết chắc được Nhứt thiết trí

Dụ như mặt nhựt đến lúc lặn

Mọi người đều biết mặt nhựt ẩn

Phật tử như vậy đều tự biết

Quyết định sẽ được trí tối thắng

Ví như các dòng đều chảy xuông

Người trí biết sẽ về biển cả

Phật tử như vậy đủ huệ sáng

Biết chắc sẽ được thượng Bồ đề

Như người ném đá lên hư không

Quyết chắc rớt xuống không nghi lự

Phật tử như vậy đều tự biết

Chẳng lâu sẽ được Thế Gian Giải

Người trí pháp nhĩ có thấy biết

Vì hiểu  rõ pháp chẳng nghi ngờ

Biết mình có phần Phật công đức

Quyết định gần nơi trí tự nhiên

Giả sử na do tha ma chúng

Hiện Phật bảo ngươi chẳng thành Phật

Chẳng ngăn trở được tâm ý họ

Vì đã tự hiểu pháp chơn như

Quyết định ở nơi Phật công đức

Ðều tự nói mình được thọ ký

Nơi sự thọ ký nầy của họ

Như Lai đều tùy hỉ tất cả

Chúng trời ấy tu hạnh Bồ Tát

Tự mình biết rõ chẳng do người

Chúng ấy tự nói thành Thiện Thệ

Như Lai ở đây đều tùy hỉ

Thế nên Mã Thắng nếu có người

Muốn được Bồ đề Vô thượng ấy

Ở nơi pháp nầy phải siêng cầu

Quyết được tối thắng chỗ an ổn

Tự thành chánh giác ngộ lý sâu

Tùy nghĩa như thiệt đều biết rõ

Thân cận cúng dường thiện trí thức

Họ chứng Bồ đề chẳng là khó

Nếu ai ngàn kiếp tu khổ hạnh

Da thịt gân xương không luyến tiếc

Nếu người hiểu rõ nghĩa lý nầy

Phước đây lớn rộng hơn phước trên

Quá khứ bao nhiêu các đức Phật

Vị lai tất cả đấng thương đời

Và cùng hiện tại các Thế Tôn

Ðều y pháp nầy thành Phật đạo

Hóa Lạc chư Thiên cúng Phật rồi

Thảy đều tự biết đệ nhứt nghĩa

Ðã cùng quá khứ chư Như Lai

Ngộ nghĩa lý nầy sẽ thành Phật

Chư Phật chỗ có thắng tam muội

Và cùng hiện tại định đang trụ

Trời ấy được vào cảnh giới Phật

Vì họ đời trược lâu tu tập

Bảy ức Hóa Lạc chúng trời ấy

Ở nơi tam muội không còn nghi

Phật pháp thanh tịnh đã  khéo học

Nay nơi Phật đạo hiện tu hành

Vì thế nơi lý sanh tin hiểu

Nên chánh cần cầu rời mé khổ

Phải thường thân cận bực đa văn

Quyết được Vô thượng đại Bồ đề

Nghe Phật tuyên nói diệu pháp rồi

Chư Thiên Hóa Lạc và chúng hội

Thảy đều vui mừng trừ lưới nghi

Chảy rót thẳng đến đại Niết bàn”.


 

Phẩm

Tha Hóa Tự Tại Thiên Thọ Ký

Thứ mười tám

 

Bấy giờ có Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại thấy A Tu La nhẫn đến chúng trời Hóa Lạc cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở được vừa lòng khác miệng đồng lời bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng trời Hóa Lạc nói thiệt tế, chúng tôi còn chẳng thấy thiệt huống là thấy tế. Tại sao? Bạch đức Thế Tôn! Nếu thấy thiệt mới được nói là thấy tế. Tại sao? Người ấy hành nơi hai chỗ. Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn, người ở nơi thừa như vậy, phải vì họ nói hai thứ pháp ấy. Hai pháp ấy chẳng phải chơn cảnh giới.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn ở nơi pháp bất nhị mà chẳng tin chẳng nhập, dầu người nầy có phát tâm trông được Bồ đề, phải biết người nầy đi sai đường. Tại sao? Vì nơi Bồ đề chẳng phải đường đi vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh cầu Bồ đề, người ấy chẳng thấy có một pháp được giác ngộ. Tại sao? Vì không có chút pháp gì có thể được giác ngộ Vô thượng Bồ đề vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Pháp ấy chẳng phải quá khứ , chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải hữu vi, chảng phải vô vi, chẳng  phải  có chẳng phải không, chẳng phải được hay, chẳng phải được biết, chẳng phải được xả, chẳng phải được tu, chẳng phải được chứng. Nói là Bồ đề ấy, pháp đó chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Pháp khác cũng chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Tại sao? Pháp đó chẳng tạp phiền não chẳng rời phiền não, pháp thể bất khả đắc, vì tánh tự ly vậy.

Pháp nầy chẳng cùng pháp đó làm đối trị, pháp đó cũng chẳng cùng pháp nầy làm đối trị. Tại sao? Vì tất cả các pháp đều lìa tướng vậy. Vì thế nên pháp đó chẳng phải được biết, được hay, được xả, được tu, được chứng.

Bạch đức Thế Tôn! Sắc sanh ấy lìa tướng sanh, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Sắc diệt ấy lìa tướng diệt, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Quá khứ ấy lìa tướng quá khứ, nó cũng chẵng phải biết được hay được xả được tu được chứng. Vị lai và hiện tại cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Hữu vi ấy lìa tướng hữu vi, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Vô vi ấy củng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nhu vậy, nhẩn đến được nhiếp nơi ấm, được nhiếp nơi quá khứ vị lai hiện tại, được nhiếp nơi hữu vi vô vi, tất cả các pháp ấy đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên tất cả pháp ấy chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn như vậy vì cầu Bồ đề phát tâm tu hành, họ đều gọi là người an trụ Bồ Tátt thừa”.

Tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại đều nói pháp của mình đã biết rồi, đồng nói kệ tán thán đức Phật:

“Thế Tôn khéo nói tận hữu biên

Vĩnh viễn chẳng thọ thân sáu đạo

Người đời vô trí sợ sanh tử

Phát tâm muốn qua bờ sanh tử

Thể các ấm  ấy bất khả đắc

Bởi tánh tướng ấm vốn tự không

Tất cả pháp không đều vô tướng

Vì thế các pháp lìa đối trị

Tự thể tức không chẳng có vật

Không có được biết và xả tu

Cũng là chẳng phải pháp được chứng

Như Lai nói hữu tức phi hữu

Tướng cầu Bồ đề bất khả đắc

Các pháp trợ đạo cũng bất đắc

Lấy tâm cầu Phật bất khả đắc

Tướng Bồ Tát tìm cũng chẳng được

Nắm chặc các tướng hạng ngu si

Bọn họ trông được ngộ Bồ đề

Cảnh giới điên đảo chấp lấy tướng

Chẳng phải đi đúng Bồ đề đạo

Nhập Phật cảnh giới lìa các tướng

Gọi là người trí hành đúng pháp

Lìa xa các tướng và vô tướng

Cũng lìa nơi không và bất không

Người nầy ngộ được đạo vô thượng

Chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo

Chẳng phải Thanh Văn mà biết được

Chẳng phải Duyên Giác có thể đến

Tâm được giải thoát tịnh vô cấu

Pháp ấy La Hán được tương ưng

Và cùng tất cả Bích Chi Phật

Chẳng phải cảnh của trí huệ họ

Câu ấy tâm có tướng chẳng biết

Người tu thiên không cũng chẳng hiểu

Nếu có ai hiểu không nói không

Cũng nói các pháp không tự tánh

Họ thọ Phật giáo không chê bai

Ðây gọi là khéo tu không tịch

Ngộ được đạo Bồ đề khó ngộ

Nơi đó Phật là chơn Ðạo sư

Khen Phật Lưỡng Túc Thế Tôn rồi

Liền được vô lượng các công đức

Hồi hướng cho tất cả quần sanh

Thành Phật giác ngộ người chưa ngộ”.

Ðức Phật biết Thiên Vương và tám muơi na do tha trời Tha Hóa Tự Tại sanh lòng sâu tin ưa rồi, vì muốn đại chúng thêm lớn thiện căn nên hiện mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật:

“Lưỡng Túc Thế Tôn hiện mỉm cười

Vì biết Tha Hóa tin sâu vậy

Phật chưa tuyên nói nhơn duyên cười

Ngưỡng mong Như Lai giải thích cho

Ðại Thánh hôm nay chẳng không nhơn

Mà hiện tướng mỉm cười hi hữu

Mong Phật nói rõ duyên cớ ấy

Dứt trừ nghi hoặc cho đại chúng

Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười

Nên nay chúng hội đều hoài nghi

Ðấng thương mến  tất cả thế gian

Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ

Chúng hội thảy đều trái sanh tử

Hiệp chưởng cung kính cầu Niết bàn

Với cớ Phật cười đều hoài nghi

Ðấng Vô Ngại Thuyết xin trừ dứt

Ðại chúng đều tin pháp của Phật

Tâm được hiểu ro’ lìa thủ trước

Ðều có tâm tin sâu tôn trọng

Lành thay Mâu Ni xin nói rõ

Dũng mãnh tinh tấn nơi Phật pháp

Lìa xa lưới nghi lên đường thánh

Tất cả chư Phật đi đường nầy

Vì thế  xin trừ nghi cho chúng”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:

“Ông vì lợi ích cho đại chúng

Nói kệ hỏi Phật thiệt phải thời

Ðầy đủ biện tài có xảo tiện

Mới hay hỏi được nghĩa mỉm cười

Do hỏi Như Lai tướng mỉm cười

Chắc sẽ lợi ích vô lượng chúng

Do tất cả các chúng hội

Ðều được an trụ thắng Bồ đề

Biết chúng Tha Hóa tin sâu rồi

Nên Phật mới hiện tướng cười sáng

Tất cả tùy thuận Như Lai giáo

Vì cầu Bồ đề tu diệu hạnh

Quan sát thế pháp lìa các tướng

Như thấy dương diệm chẳng chơn thiệt

Người ngu thấy diệm cho là nưuớc

Muốn cầu Bồ đề chớ đồng họ

Phàm phu thủ tướng tham cảnh vui

Vô trí thường sợ nơi vô tướng

Người ngu chấp tướng bỏ chánh lộ

Lìa tướng thì được diệu Bồ đề

Vọng tưởng tư lương pháp hư ngụy

Theo pháp phân biệt liền bị trói

Người trí thấy tướng thảy đều không

Ðược đà la ni thượng tịch diệt

Phàm phu chấp tướng trụ ác tâm

Họ đều vô trí đọa lục đạo

Luân hồi sanh tử bị nhiều khổ

Vì họ ngu si chấp tướng vậy

Chúng sanh trước tướng thấy các ấm

Phật và Bồ đề cùng Bồ Tát

Người trí lìa tướng thấy không rồi

Hay được Bồ đề đại Vô thượng

Những kẽ chấp tướng tăng phiền não

Hay quán vô tướng trừ kiết sử

Nói là kiết sử tức là tướng

Quán kiết vô tướng liền dứt trừ

Nếu người cầu đạo mà phân biệt

Phân biệt nơi đạo là chướng ngại

Người trí dầu là hành nơi dục

Dục ấy tức là vô tướng hành

Các pháp không thể bất khả đắc

Phân biệt các pháp nói là không

Nếu lìa phân biệt được vô tướng

Ðó là Bồ đề không còn khác

Nghe nơi Thiện Thệ nói lời ấy

Ðại chúng trừ nghi được vô úy

Ðảnh thọ lấy pháp Mâu Ni nói

Như người đầu đội hoa chiêm bặc

Chúng trời Tha Hóa được vô úy

Cúng dường nơi Phật rất hơn hết

Họ biết các pháp cảnh giới Phật

Sẽ làm thế gian đại Ðại Sư ».

 

Phẩm

Chư Phạm Thiên Thọ Ký

Thứ mười chín

Bấy giờ có chín ngàn vạn trời Phạm Chúng thấy A Tu La nhẫn đến trời Tha Hóa Tự Tại cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ ở nơi thiền thế đế lấy hỉ duyệt làm sự ăn ở trong Phật pháp cũng được trí huệ sáng, vì họ đã trồng thiện căn gần gũi cúng dường chư Phật tin sâu thanh tịnh. Ở nơi pháp thậm thâm họ được pháp nhẫn. Chư Phạm Chúng Thiên  ấy biết các pháp vô tác phi vô tác, phi sanh phi bất sanh, phi hữu phi bất hữu, phi khởi phi bất khởi, phi diệt phi bất diệt,  phi y phi bất y, phi thanh phi trược, phi tắng phi ái, phi hiền phi ngu, phi tri phi bất tri, phi kiến phi bất kiến, phi thọ phi bất thọ, phi trắc ẩn phi bất trắc ẩn, phi vô phi phi vô, phi vật phi phi vật, phi khả đắc phi bất khả đắc, phi khứ phi lai, phi thú phi bất thú, phi không phi bất không, phi tướng phi bất tướng, phi nguyện phi bất nguyện.

Chư Phạm  Thiên ấy đối với tất cả pháp lòng không chấp trước, cũng không chỗ trụ. Ở trong phi dụng họ chẳng ý tưởng phi dụng, ở trong phi bất dụng cũng chẳng ý tưởng phi bất dụng. Ở trong ngôn ngữ họ chẳng ý tưởng ngôn ngữ, ở trong phi ngôn ngữ cũng chẳng ý tưởng phi ngôn ngữ. Ở trong hữu tác họ không ý tưởng hữu tác, ở trong vô tác cũng không ý tưởng vô tác. Ở nơi phàm phu họ không ý tưởng phàm phu, ở trong phi phàm phu cũng không ý tưởng phi phàm phu. Ở nơi pháp phàm phu họ không ý tưỏng pháp phàm phu, ở nơi pháp phi phàm phu cũng không ý tưởng pháp phi phàm phu. Ở nơi Thanh Văn họ không ý tưởng Thanh Văn, ở nơi phi Thanh Văn cũng không ý tưởng phi Thanh Văn. Ở nơi pháp Thanh Văn họ không ý tưởng pháp Thanh Văn, ở nơi pháp phi Thanh Văn cũng không ý tưởng pháp phi Thanh Văn. Ở nơi Duyên Giác họ không ý tưởng Duyên Giác, ở nơi phi Duyên Giác cũng không ý tưởng phi Duyên Giác. Ở nơi pháp Duyên Giác họ không ý tưởng pháp Duyên Giác, ở nơi pháp phi Duyên Giác cũng không ý tưởng pháp phi Duyên Giác. Ở nơi Bồ Tát họ không ý tưởng Bồ Tát. Ở nơi phi Bồ Tát cũng không ý tưởng phi Bồ Tát. Ở nơi pháp Bồ Tát họ không ý tưởng pháp Bồ Tát, ở nơi pháp phi Bồ Tát họ không ý tưởng pháp phi Bồ Tát. Ở nơi Phật họ không ý tưởng Phật, ở nơi phi  Phật cũng không ý tưởng phi Phật. Ở nơi pháp Phật họ không ý tưởng pháp Phật, ở nơi phi pháp Phật cũng không ý tưởng phi pháp Phật. Ở nơi Niết bàn, họ chẳng ý tưởng Niết bàn, ở nơi phi Niết bàn cũng không ý tưởng phi Niết bàn. Ở nơi pháp Niết bàn họ không ý tưởng pháp Niết bàn, ở nơi pháp phi Niết bàn cũng không ý tưởng pháp phi Niết bàn. Ở nơi sanh tử họ không ý tưởng sanh tử, ở nơi phi sanh tử cũng không ý tưởng phi sanh tử. Chư Phạm Chúng Thiên ấy đối với tất cả thảy đều lìa phân biệt, tâm định thanh tịnh . Họ đã được tâm thanh tịnh nên dùng pháp tịch diệt nói kệ tán thán đức Phật :

« Ðại Thánh trí tịch tĩnh rất sâu

Tu hành tịch diệt đến bỉ ngạn

Diễn nói tịch diệt  độ chúng sanh

Cũng tự thường hành pháp tịch diệt

Bồ dề tịch diệt khéo thanh tịnh

Pháp nầy là cảnh giới Như Lai

Mau được tịch diệt thắng cam lộ

Do đó nay được hết sanh tử

Hằng nói đạo tịch diệt vi diệu

Là chổ sở hành của người trí

Ðường bát chánh diệt phiền não trược

Cứu vớt tất cả các quần sanh

Khéo tu tịch diệt chúng Bồ đề

Là chổ sở hành của Phật trước

Pháp ấy hay đến thành an ổn

Chỗ chứng biết của Phật quá khứ

Là pháp tu học của Như Lai

Phật giáo hóa thế gian như vậy

Nếu người hay hành pháp hữu học

Chứng được vô học thắng Bồ đề

Nhứt tâm xu hướng đạo tịch diệt

Các căn tịch tĩnh lâu tu tập

Sẽ được làm Phật Thế Gian Giải

Sức na la diên độ quần sanh

Nếu biết pháp tịch diệt cam lộ

Hay hết tất cả tướng sanh tử

Ðây là chơn thiệt con Như Lai

Tịch diệt hay trừ khổ thế gian

Chúng ấy chưng bày cúng dường Phật

Thắng thượng hi hữu rất khác lạ

Nói pháp tịch hết phiền não

Nơi những vô tướng tối đệ nhứt

Thế gian tịch diệt lìa các tướng

Nghĩa là tịch diệt tức Niết bàn

Chúng sanh luân chuyễn thọ những khổ

Vì lìa tịch diệt thủ tướng vậy

Các pháp của Phật bất tư nghị

Tức là Bồ đề nhứt thiết trí

Qua khỏi sình lầy đến bờ kia

Nên Phật trọn hẳn không nghi lự

Nếu người lìa ấm được giải thoát

Nơi Phật đại thừa chẳng nguyện ưa

Muốn cầu Bồ đề nghĩ diệt độ

Nơi năm ấm ấy sanh bố úy

Tâm tịnh ly dục cầu Niết bàn

Chúng ấy chúng giản trạch như vậy

Nơi pháp thủ tướng cảnh phàm phu

Ðó là lời dạy của Như Lai

Nếu thủ tịch diệt tức bị trói

Do đó chẳng được Nhứt thiết trí

Nếu người ở nơi tướng năm ấm

Chẳng sanh lòng giữ cầm thủ trước

Họ hay lợi ích pháp Thích Ca

Ðây  gọi hạnh hỉ lạc vô tướng

Hay được chổ vô danh an ổn

Ðến được Bồ đề cảnh giới Phật

Hàng ma tranh luận diệt phiền nảo

Mau được thành tựu Nhứt thiết trí

Chúng tôi tán thán Vô Thượng Sĩ

Chỗ chứng tịch diệt các công đức

Chỉ Phật đại trí hay biết rõ

Hồi thí chúng sanh nguyện thành Phật”.

Lúc ấy chủ thế giới Ta Bà Ðại Phạm thiên Vương biết chư Phạm Thiên tán thán Phật rồi, đối trước Phật đứng thẳng dùng chơn thiệt công đức nói kệ khen ngợi đức Phật:

“Pháp Vương đã biết tất cả  pháp

Chẳng thiệt hư dối như không quyền

Cũng như thu vân và chớp nháng

Thế nên Ðại Thánh lìa thủ tâm

Cũng như trong mộng người quá đói

Ăn món cam lộ trăm vị ngon

Người mộng đói ăn đều chẳng thiệt

Như Lai thấy pháp cũng như vậy

Lại như trong mộng người quá khát

Ðược uống nước mát lạnh trong sạch

Mộng khát uốn nước đều  hư vọng

Phật thấy các pháp cũng như vậy

Không tác không thọ không chúng sanh

Không có tác nghiệp và được báo

Cũng không được người thọ quả báo

Thế Tôn nơi đây không nghi lự

Ví như lời hay được người mến

Nhưng ngôn ngữ ấy vô khả thủ

Cũng không người nói và người nghe

Ðại Thánh biết rõ đều chẳng thiệt

Như nghe tiếng hay đờn không hầu

Tiếng ấy cũng không tánh chơn thiệt

Thế Tôn thấy các ấm như vậy

Biết ấm không tánh bất khả đắc

Dường ngọc ma ni chất tự sạch

Cột nó trên áo  theo màu đổi

Các pháp tự thể vốn thanh tịnh

Hư vọng phân biệt thêm điên đảo

Ví như áo trắng sạch không dơ

Tùy thọ màu nhuộm nhiều biến đổi

Các pháp cũng đều tánh tự sạch

Tùy chỗ phân biệt mà ô nhiễm

Dường như có người nghe tiếng ốc

Tìm tiếng ốc ấy từ đâu đến

Tiếng ấy chẳng tự chẳng phải tha

Ðại Tiên thấy pháp cũng như vậy

Như người nghĩ tưởng món ăn ngon

Món ấy các duyên hiệp lại thành

Món ăn thảy đều không tự tánh

Như Lai thấy pháp đều như vậy

Vì như đất đá xây làm thành

Suy thể của thành không tự tánh

Các duyên như vậy thảy đều không

Pháp Vương thấy pháp cũng như vậy

Ví như có người đánh trống lớn

Dầu khiến người nghe lòng mừng rỡ

Tiếng trống các duyên thảy đều không

Ðại Thánh thấy các pháp cũng như vậy

Ví như có người lúc đánh trống

Tiếng trống chẳng từ mười phương đến

Tiếng dứt cũng chẳng đến mười phương

Thế Tôn thấy pháp đều như vậy

Người ấy như vậy đánh trống rồi

Trống ấy chẳng sanh lòng yêu ghét

Cũng chẳng phân biệt tánh các duyên

Phật thấy các pháp đều như vậy

Lại như người ấy đánh trống hay

Tiếng chẳng có ý khiến người mừng

Và các duyên kia cũng đều vậỳ

Ðạo Sư thấy pháp đều như vậy

Như lúc người đánh trống hay kia

Trống ấy chẳng sanh tưởng khổ vui

Cũng chẳng quan sát tánh các duyên

Như Lai thấy pháp đều như vậy

Dường như có người đánh trống hay

Tiếng chẳng tức duyên chẳng ly duyên

Và duyên nhạc kia cũng nhu vậy

Mâu Ni thấy pháp đều như vậy”.

Ðức Thế Tôn biết chư Phạm Thiên và Phạm Vương thâm tâm kính tín và dùng pháp tịch diệt tán thán đức Phật, lại muốn cho đại chúng sanh thiện căn nên  liền hiện tướng mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi Phật:

“Ðã thấy Như Lai miệng phóng ra

Ánh sáng mỉm cười rất thanh tịnh

Thế gian Trời Người các đại chúng

Tất cả đều sanh lòng hi hữu

Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười

Pháp hội đại chúng đều hoài nghi

Tất cả chiêm ngưỡng mặt Như Lai

Ân cần mong muốn được lắng nghe

Mong Phật khai thị có mỉm cười

Dứt trừ lòng nghi của đại chúng

Tối Thắng Mâu Ni chẳng không nhơn

Mà hiện tướng cười rất hi hữu

Chư Phật lúc hiện ánh sáng cười

Quyết để lợi ích các thế gian

Nay vì ai Phật hiện tướng cười

Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ

Ðại chúng được nghe chắc vui mừng

Vì đã được biết duyên cớ vậy

Nay đại chúng nầy đều chắp tay

Nhứt tâm chiêm ngưỡng ưa thích nghe

Thế nên xin Phật giải thích cho

Chắc sẽ trừ dứt những nghi hoặc

Ðạo Sư vì các chúng hội nầy

Xin thương tuyên nói cớ mỉm cười

Chúng hội được nghe chắc mừng rỡ

Vì đã rửa sạch lưới nghi ngờ

Lòng chúng chắc bền đều thanh tịnh

Chuyên niệm quí trọng đức Như Lai

Ðại chúng chiêm ngưỡng dung nhan Phật

Dường như nhìn thấy trăng mới mọc

Ðủ tám tiếng hay như Phạm Thiên

Nhứt tâm khát ngưỡng mong sớm nghe

Trời Người đại chúng nghe Phật nói

Chắc trừ được nghi trụ chánh pháp

Phạm âm diễn nói tương ưng nghĩa

Ðược nghe xuất thế pháp rất sâu

Phật trí thiện xảo hay vui đẹp

Nên khiến đại chúng thêm hớn hở

Chúng nầy lòng sạch lìa nghi ngờ

Ưa thích Như Lai Nhứt thiết trí

Người tinh tấn dũng mãnh hữu lực

Mới có chí cầu vô thượng đạo

Thế nên Ðạo Sư thương thế gian

Ngưỡng mong giải thích cho chúng mừng

Lành thay Thế Tôn lòng bình đẳng

Thương xót tất cả các chúng sanh

Khiến các đại chúng thêm thiện căn

An tâm bất động cầu Phật trí”.

 

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

 

“Thương xót tất cả các thế gian

Nên Phật thị hiện tướng cười sáng

Ông phải lắng nghe nhơn duyên ấy

Nghĩa đó rất sâu câu vi diệu

Các chúng hội đây nếu được nghe

Phát cần tinh tấn tu pháp lành

Sẽ làm lợi ích các chúng sanh

Nơi pháp của Phật khởi thắng hạnh

Các Phạm Thiên đây đều mừng rỡ

Ở trong pháp Phật đều không nghi

Na do tha kiếp lâu tu hành

Dường như số kiếp cát sông Hằng

Nơi các cảnh giới đều chẳng trước

Lòng như không gian không chướng ngại

Dầu thích thường tu Bồ Tát hạnh

Mà chẳng mau thủ chứng Bồ đề

Chúng ấy lại ở đời vị lai

Vô lượng ức kiếp số hằng sa

Chúng trời thanh tịnh không nhơ uế

Ðược thế lực lớn trụ thế gian

Sau đó sẽ thành Nhứt thiết trí

Làm đại Pháp Vương có oai lực

Ðầy đủ công đức hết sanh tử

Xem các thế gian đều không tịch

Phật ấy như trước lâu tu hành

Thọ mạng hạn lượng lâu cũng vậy

Lúc chư Phật ấy trụ thế gian

Hay cứu độ các chúng sanh khổ

Quốc độ Phật ấy không đâu bằng

Thế giới nghiêm tịnh rất thạnh vượng

Trong vô lượng na do tha kiếp

Như Lai diễn nói cũng chẳng hết

Cõi nước Phật ấy sự nghiêm tịnh

Vô lượng Phật nói cũng chẳng hết

Phật ấy đồng hiệu Ðại Trí Lực

Quốc độ thảy đồng tên Tối Thắng

Vì chúng diễn nói pháp bất động

Bất khả tư nghị vô sở y

Quốc độ Phật ấy các chúng sanh

Thảy đều tu hành các thiện căn

Không một chúng sanh còn đời sau

Trong vòng sanh tử lại sanh nữa

Ðương thời chúng ấy có một khổ

Nơi thế gian ấy bèn hiển hiện

Chỉ sợ các hành đều vô thường

Khiến các chúng sanh khởi nhàm lìa

Thuở đó chúng sanh trong cõi ấy

Lìa các tướng khổ già bịnh chết

Tất cả đều nương một giáo pháp

Ðồng chán vô thường tu thắng hạnh

Chúng sanh cõi đó đương lúc ấy

Tai chẳng còn nghe âm thanh khác

Chỉ nghe bất tịnh vô thường khổ

Vô ngã tịch diệt không vô tướng

Cam lộ Niết bàn và Bồ đề

An ổn thanh lương vô thượng lạc

Những tiếng thắng diệu như vậy thảy

Hằng thường luôn luôn mà được nghe

Lúc đó không còn âm vang khác

Hoặc cây hoặc vách hoặc đất trống

Hoặc là trên không và chùa miếu

Chỉ nghe những câu vi diệu ấy

Nghe rồi tất cả đều đắc đạo

Bèn ở nơi sanh tử được giải thoát

Ðều do thần lực của Như Lai

Ðủ tám công đức âm thanh diệu

Lúc đó không có tâm tạp độc

Những là tham dục và sân khuể

Cũng không ngu si phát tiếng ác

Lời thô bức não đến bên tai

Tất cả nhàm trái nơi sanh tử

Xu hướng Niết bàn đường thẳng lớn

Cõi ấy tất cả đều đúng không

Phật và chúng sanh đều diệt độ

Ðây là thần lực của Phật ấy

Phát chí nguyện rộng chẳng nghĩ bàn

Ðã ở quá khứ do tha kiếp

Vì cầu Bồ đề tu đạo hạnh

Bao nhiêu chúng sanh tại nước ấy

Tất cả sẽ đều được làm Phật

Chư Phạm Thiên nầy phát nguyện rộng

Ðều do quan sát câu tịch diệt

Ðều được chứng biết nghĩa thậm thâm

Hiễu rõ đường cát tường của Phật

Chỗ họ tu học đều thông đạt

Làm Ðạo Sư tại các thế gian

Họ quan sát được chúng sanh không

Chẳng sanh lòng giải đãi nhàm mỏi

Do đó nhập được các pháp tánh

Tu tập Bồ Tát thắng diệu hạnh”.

 

 

Phẩm

Quang Âm Thiên Thọ Ký

Thứ hai mươi

Bấy giờ có năm mươi tám ngàn vạn trời Quang Âm thấy A Tu La nhẫn đến chư Phạm Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay lễ Phật cung kính bạch đức Phật rằng: Bạch Ðức Thế Tôn! Có tam muội tên chiếu diệu tất cả pháp. Nếu đại Bồ Tát học tam muội nầy thì được quang minh trong tất cả pháp được chứng nhập pháp môn Bồ Tát tạng. Ðại Bồ Tát hiểu biết rõ rồi thì được vô biên biện tài, vô ngại biện tài, tương tục biện tài, nhiều thứ biện tài, mỹ diệu biện tài, chơn thiện biện tài, tương ưng biện tài, giải thoát biện tài, vi tế biện tài, bất cộng biện tài, thậm thâm biện tài, nhẫn đến được biện tài của Như Lai.

Bạch đức Thế Tôn! Những gì là chiếu diệu nhứt thiết pháp tam muội? Bồ Tát nhập pháp môn nầy niệm các giác quán biết tất cả pháp không giác lìa giác, pháp không giác ấy khắp tất cả chỗ, không một pháp nào là hay giác sát. Tại sao? Vì tánh tự lìa vậy. Nếu pháp không tánh thì làm sao hay giác được. Biết tất cả pháp không giác tri rồi nhập vào môn chữ A được biện tài trên. Bồ Tát ấy nhập môn chữ A rồi được vô biên biện tài, chữ A vô biên, chữ A chẳng phải phổ biến, chữ A vô tác, chữ A chẳng phải hữu vi, chữ A chẳng phải thành tựu, chữ A không phải sự, chữ A không sở y, chữ A không động chuyễn, chữ A chẳng phải lược, chữ A chẳng phải quảng, chữ A chẳng phải phân biệt, chữ A chẳng phải các sự thành, chữ A chẳng xuyên qua được, chữ A chẳng phải sắc, chữ A chẳng hiển thị được, chữ A chẳng xem được, chữ A không ai thấy được, chữ A chẳng suy nghĩ được, chữ A tánh bất định, chữ A chẳng phải bị biết, chữ A chẳng phải hay biết, chữ A chẳng lường được, chữ A chẳng tự hiển thị được, chữ A chẳng hiển thị được cái khác, chữ A chẳng phải tư nghị, chữ A chẳng đi, chữ A chẳng đến, chữ A chẳng phải gần, chữ A chẳng phải xa, chữ A chẳng phải ngôn thuyết, chữ A chẳng phải là pháp có thể nói được, chữ A chẳng phải danh, chữ A chẳng phải dụng, chữ A chẳng phải hiện tiền, chữ A chẳng phải che ngăn, chữ A chẳng phải di chuyễn, chữ A chẳng cải đổi được, chữ A chẳng phải sai biệt, chữ A không hai, chữ A chẳng phải sanh, chữ A chẳng phải hư vọng, chữ A chẳng phải chơn thiệt, chữ A bất khả thuyết, chữ A chẳng phải sanh diệt, chữ A chẳng phải thanh tịnh. Chữ A chẳng phải pháp bị tịnh, chữ A chẳng phải chấp trì, chữ A chẳng phải nhiếp lấy cái khác, chữ A chẳng phải vứt bỏ, chữ A chẳng phải vì pháp khác mà làm, chữ A chẳng làm pháp khác, chữ A chẳng sanh, chữ A chẳng diệt, chữ A chẳng hay sanh pháp khác, chữ A chẳng hay diệt pháp khác, chữ A chẳng phải sanh chẳng sanh, chữ A chẳng làm sanh nhơn cho pháp sanh cũng chẳng làm duyên bất sanh, chữ A chẳng phải y tựa, chữ A chẳng phải giả chẳng giả, chữ A chẳng phải từ chẳng từ , chữ A chẳng phải hứa chẳng hứa, chữ A chẳng phải khả đắc bất khả đắc, chữ A chẳng phải không bất không, chữ A chẳng phải phân biệt bất phân biệt, chữ A chẳng phải tướng bất tướng, chữ A chẳng phải nguyện bất nguyện.

Bạch đức Thế Tôn! Các pháp đều là tướng  như vậy đó là vô tướng. Các pháp đều đồng một thiệt đó là vô thiệt, đều đồng một lý thú đó là vô lý thú, đều đồng một nhập đó là vô nhập, đều đồng một giả đó là vô giả, đều đồng một dụng đó là vô dụng, đều đồng một thuyết đó là vô thuyết.

Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp vô khởi, vì bất khả đắc vậy. Các pháp chẳng phải có, vì không có vậy. Các pháp vô sanh, vì chẳng sanh vậy. Các pháp vô diệt , vì chẳng diệt vậy. Là pháp vô vi, vì không có tạo tác vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp đều đồng nhứt như, phải biết như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Những pháp bất sanh ấy, thế nào biết được sự dụng của pháp ấy.

Thí như có người tác động trong chiêm bao, phải biết các pháp cũng như vậy. Tại sao?

Vì sự tác động trong chiêm bao chẳng sanh chẳng khởi cũng chẳng phải có vậy. Chiêm bao dầu chẳng thiệt, mà chẳng phải không giả danh nói là có chiêm bao làm. Tất cả các pháp cũng đều như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Thí như tiếng vang chỉ có giả danh. Các pháp chỉ giả danh cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Dụ như người ảo chỉ là giả danh. Phải biết các pháp cũng chỉ là giả danh như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Thí như dương diệm chỉ là giả danh. Các pháp giả danh cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Như tượng trong gương chỉ có danh dụng. Phải biết các pháp cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Vì vui đẹp kẻ phàm ngu mà nói có sự chiêm bao, sự việc trong chiêm bao đều chẳng phải chơn thiệt, vang ảo diệm ảnh cũng đều như vậy, chỉ có giả danh đều không có sự thiệt .

Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi hiểu biết nghĩa ý những pháp được Như Lai tuyên nói.

Chúng trời Quang Âm nói kệ tán thán đức Phật:

“Thế Tôn khéo biết pháp nghĩa nầy

Và vô biên những thứ pháp khác

Như Lai có những hàng Phật tử

Ðược tiền của cha thường du hí

Người đời ít trí chẳng vào được

Vì luôn có tâm chấp ngã vậy

Mười phương tâm ngã chẵng thễ được

Ngã thễ bổn lai tánh tự không

Như dương diệm chẳng phải thiệt nước

Ngu si thấy nắng tưởng là nước

Ðều do vô trí sanh mê lầm

Hư vọng điên đảo chấp ngã nhơn

Họ mê lầm lời dạy của Phật

Nên họ chẳng hiểu nghĩa thú sâu

Phàm phu tâm thức như nắng nước

Chẳng thể biết được nghĩa các ấm

Lòng ưa sanh tử dính tên độc

Các căn bị dòng nước mạnh cuốn

Ðó đều cứu cánh không tự tánh

Vì si che lấp vọng thọ khổ

Họ đều mất trí lòng mê loạn

Ở trong các khổ sanh tưởng vui

Tâm thường điên đảo thuận ba độc

Các phiền não ấy rất đáng sợ

Tham dục sân khuể và ngu si

Các kiết sử nầy thường theo dõi

Ham thọ vui nên sanh khát ái

Ngu si chẳng biết nên thọ khổ

Vô trí tùy thuận các phiền não

Như người ngu cõng kẻ thù đi

Nghe pháp môn không của Phật dạy

Lại sợ pháp không mất giải thoát

Như người khiếp sợ tay cầm dao

Lẽ ra an ổn lại sanh sợ

Thế Tôn đại trí chỗ thuyết pháp

Ðó là môn chữ A vi diệu

Hay sanh trí huệ thắng chơn thiệt

Dường như đất bằng mọc cây lớn

Hàng phục ma oán vô lượng chúng

Hay ngộ Bồ đề diệu an ổn

Dùng thuyền bè lớn bát chánh kia

Nơi biển sanh tử độ quần sanh

Bao nhiêu Phật tử của Thế Tôn

Biết rõ giáo pháp của Như Lai

Chóng diệt phiền não các oán địch

Mau chứng Vô thượng đại Bồ đề

Ðã tự giải thoát lìa tâm độc

Thấy các kẻ độc cho thuốc trí

Ðược đến cứu cánh quả bỉ ngạn

Ðược chỗ vô vi  rất an vui

Tất cả các pháp thảy đều không

Những thế ngoại luận vọng phân biệt

Người sáng bỏ ác lên đường chánh

Ðều do bổn lai tu học lâu

Lòng không chấp trước tức giải thoát

Các pháp thể tánh tự như vậy

Người hay biết rõ được như vậy

Thành Phật đại lực na la diên

Không có trói buộc không ai trói

Các pháp tánh không đều cũng không

Chơn như tịch diệt và phi như

Chẳng phải cấu uế chẳng phải tịnh

Phiền não vô tướng cũng không đoạn

Bởi nó bổn lai tánh tự không

Biết pháp chơn thiệt được như vậy

Người ấy sẽ được Nhứt thiết trí

Tự chứng giải thoát lại độ người

Tất cả chẳng sanh cũng chẳng diệt

Thế gian Trời Người đều mê hoặc

Như cầm thú kia thấy nắng nước

Hư vọng phân biệt sanh thèm khát

Tưởng thấy nam nữ thọ khổ não

Do nhiều thứ nghiệp sanh các loài

Do tâm gây tạo mà sai khác

Chúng tôi hiểu Phật pháp như vậy

Là diệu cảnh giới của Như Lai

Thế nên Như Lai tâm điều phục

Các căn tịch tĩnh hay nhẫn nhục

Thế Tôn như pháp được cúng dường

Thanh tịnh vô cấu hết ô uế

Ðầy đủ công đức lìa tối tăm

Chỉ Phật hay làm mắt ba cõi

Nay tôi khen Phật chỗ được phước

Chỉ có đại Ðạo Sư xuất thế

Thế Tôn Lưỡng Túc khối công đức

Biết được quả báo chúng tôi được

Dùng thắng thiện căn vi diệu nầy

Hồi thí tất cả các quần sanh

Nguyện họ ở nơi đời vị lai

Ðều được thành tựu Nhứt thiết trí”.

Ðức Thế Tôn biết chúng trời Quang Âm thâm tâm tin ưa rồi, và biết họ tu hành biện tài đầy đủ, muốn khiến công đức thiện căn của đại chúng lại sẽ lần lần thắng tấn tăng trưởng, đức Phật liền hiện tướng mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Ðức Phật:

“Ðại bi Thiện Thệ chẳng không nhơn

Mà hiện tướng cười rất hi hữu

Vô Thượng Sĩ hay lợi ích đời

Chánh giác trí huệ siêu quần sanh

Lưỡng túc Thế Tôn khối công đức

Thương xót chúng sanh xin tuyên nói

Vì ai mà hiện  mỉm cười ấy

Phóng sáng thù thắng hiển thế gian

Tất cả chúng sanh nếu được nghe

Tâm ý quyết định sẽ rất mừng

Tu hành nghiệp lành chứng quả Phật

Ðược lìa sanh tử đến Niết bàn

Các chúng Trời Người thế gian nầy

Bị sanh tử khổ não bức bách

Xin độ quần sanh thoát biển khổ

Diễn nói bát chánh thuyền bè lớn

Chúng đây được nghe Ðại Tiên nói

Ðủ tám công đức đạo tối thắng

Nơi đây thế gian sanh mừng rỡ

Ưa tu nghiệp lành nguyện thành Phật

Dũng mãnh tinh tấn có sức lớn

Nội tâm thanh tịnh lìa lưới nghi

Sẽ truyền pháp của Như Lai nói

Là chơn Phật tử thọ thánh giáo

Chúng hội tại đây không nghĩ  khác

Một lòng chiêm ngưỡng đại Cù Ðàm

Xin Phật nói bày sự thợ ký

Cho chúng quyết đoán lòng nghi hoặc

Chắp tay cung kính chánh ý niệm

Thảy đều mong miốn được lắng nghe

Lành thay xin nói vị cam lồ

Những người khát pháp sẽ được uống

Tất cả đại chúng tại hội nầy

Lòng sạch ưa mến thắng công đức

Chiêm ngưỡng Phật nhan rất thù thắng

Dường như trẻ thơ nhìn mặt mẹ

Ðại huệ xin thọ ký chúng trời

Giải bày nhơn duyên Phật mỉm cười

Ðược nghe Như Lai thọ ký rồi

Thế gian sẽ được lợi ích lớn

Ai ở nơi Phật thêm căn lành

Và đã phát nguyện được đầy đủ

Ðược tạng công đức thắng vi diệu

Nay tôi muốn nghe họ thọ ký

Ðại chúng chắc sanh lòng mừng vui

Vì được nghe Phật nói thọ ký

Quyết định sẽ đủ sức niệm huệ

Và được tu hành tam muội định”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

“Lành thay việc hỏi của Mã Thắng

Biện tài ứng cơ nay đúng lúc

Ðây là thần thông của Như Lai

Do đó nay ông sanh trí huệ

Vì lợi ích đời nên thêm biện

Vì thế nay ông hay hỏi Phật

Nay Phật vì họ nói thọ ký

Lặng bặt các căn nhứt tâm nghe

Chúng trời Quang Âm huệ thù thắng

Quá khứ đã cúng vô lượng Phật

Thấy thế gian nầy không ai cứu

Phát tâm rộng lớn muốn làm Phật

Tu trị thiệt hạnh chơn vi diệu

Quyết định sẽ thành Nhứt thiết trí

Vì các chúng sanh cầu Phật đạo

Như mê lạc đường dạy đường chánh

Ðược nghe Thế Tôn dạy như vậy

Tiếng Phật tối thắng không ngang bằnng

Người trí huệ ưa Phật công đức

Quyết được cứu cánh đến bờ kia

Họ có trí lực biết căn lành

Quyết định sẽ được Phật Bồ đề

Mừng vui đã phát Bồ đề nguyện

Như mẹ sanh trai rất hài lòng

Chúng trời vì người cầu Bồ đề

Hiển thị đuường chánh chơn xuất thế

Trong bất khả thuyết do tha kiếp

Tu tập hạnh thắng diệu Bồ Tát

Giáo hóa chúng sanh hơn tinh tú

Ðã an trí nơi Phật Bồ đề

Ðời sau đầy đủ Thế Gian Giải

Tự nhiên thành tựu Nhứt thiết trí

Quốc độ của họ bất khả thuyết

Thế giới lớn rộng có trăm ức

Các quốc độ ấy rất nghiêm tịnh

Vô lượng nhiều thứ thắng trang nghiêm

Các chúng sanh trong cõi Phật ấy

Không ba ác ác đạo và tám nạn

Tất cả đều phát tâm Bồ đề

Thảy đều ở bực bất thối chuyễn

Trong quốc độ các Như Lai ấy

Cũng lại chẳng có pháp Tiểu thừa

Chúng sanh thảy đều cầu Phật đạo

Bèn được thẳng đến bực bất thối

Các chúng sanh trong quốc độ ấy

Tất cả thọ mạng đều bằng nhau

Tuổi đến mười ức hằng sa kiếp

Vì họ được gặp chư Phật vậy

Nếu dạy chúng sanh do tha cõi

Ðều được chứng nhập tiểu Niết bàn

Nếu lại có người dạỳ một người

Hoặc nam hay nữ vào Ðại thừa

Phước trước so sánh khối đức nầy

Toán số thí dụ chẳng bằng được

Vì thế người đã ở Ðại thừa

Phải nên chuyễ dạy cho người khác

Mã Thắng nên biết vì cớ ấy

Như Lai xuất thế rất là khó

Như hoa ưu đàm rất khó gặp

Vô biên đại trí nói như vậy

Bởi thiện tri thức trí khéo sâu

Giỏi biết phương tiện chỉ đường chánh

An ổn vô thượng thắng Bồ đề

Nếu ai mong cầu phải thân cận

Từ miệng Phật nghe lời như vậy

Ðầy đủ nghĩa vi diệu thậm thâm

Tất cả đại chúng đều vui mừng

Hớn hở sung mãn vừa lòng dạ

Do tha chư Thiên ở hư không

Ðều rải thiên y bay lần xuống

Ðầy tiếng mừng khen khắp hư không

Kính lễ vô thượng đại thần lực

Trí diệu thanh tịnh độ thế gian

Hay trừ chúng sanh phiền não nhiệt

Phật nói cam lộ dứt ba độc

Như thuốc A Dà Ðà tiêu độc

Ðược nghe trí huệ dứt kiết sử

Thế gian mê hoặc nhiều khổ não

Nơi sanh tử ấy sẽ được thoát

Vì nghe thắng pháp nơi Phật vậy”.

 

--- o0o ---

Mục Lục Tổng quát Kinh Đại Bửu Tích

--- o0o ---

Mục Lục tập 4  |  Phần 13 | Phần 14  | Phần 15

Phần 16a  | 16b | 16c  | 16d  | 16e  | 16f | 16g

--- o0o ---

Cập nhật ngày 01-03-2003

Vi tính: Thích Đức Tuấn


Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Thư Mục Kinh Điển Phật Giáo

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com