Phật Học
Phổ Thông
--- o0o
---
B.-
Phần Chánh-tôn
I.- CHƯƠNG VĂN-THÙ
1. Ngài Văn Thù hỏi Phật
Khi ấy
Ngài Văn-thù Sư Lợi Bồ-tát ở trong đại-chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu
của Phật ba vòng, rồi chắp tay đảnh-lễ và quỳ thẳng bạch rằng:"
Bạch
đức Ðại-bi Thế-Tôn, xin Ngài vì thính-chúng trong pháp-hội hiện-tại nầy và
các chúng-sanh cầu Ðại-thừa đời sau, từ bi chỉ dạy:
1.
Nói lại nhơn-địa tu-hành thanh-tịnh của Như-Lai;
2.
Các vị Bồ-tát đối với Ðại-thừa, đã phát tâm thanh-tịnh (Bồ-đề) rồi,
làm sao xa lìa được các bịnh (trừ-vọng); khiến cho các chúng-sanh khỏi đọa
vào đường tà (tà-kiến).
Ngài Văn-thù Bồ-tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính lạy rồi trở lui, cùng
với đại chúng ngồi yên-lặng, để chờ nghe lời Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Ðại-ý
đoạn nầy là Ngài Văn-Thù hỏi Phật hai điều:
1.
Phật đã tu-hành như thế nào mà được thành Phật?
2.
Các vị Bồ-tát, khi đã phát-tâm Bồ-đề rồi, làm sao cho các vọng đừng
sanh?
Câu hỏi
thứ nhất giống như câu hỏi trong kinh Lăng-Nghiêm, Ngài A-Nan hỏi Phật:
“...Xin Phật chỉ dạy cho con phương-pháp nào mà tất cả các đức Phật
tu-hành đều được thành đạo chứng quả...”.
Câu hỏi
thứ hai, giống như câu hỏi trong kinh Kim-Cang, Ngài Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật:
“... Làm sao an-trụ Chơn-tâm và làm sao hàng-phục được Vọng-tâm...” (Vân
hà ưng trụ, vân hà hàng-phục kỳ tâm).
2. Phật khen Ngài Văn Thù
Khi ấy đức
Thế-Tôn kêu Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát mà dạy rằng:
- Nầy
Thiện-nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ-tát hiện-tại và tất cả chúng-sanh
đời sau cầu pháp Ðại-thừa mà thưa hỏi:
1.
Nhơn-địa tu-hành của Như-Lai;
2.
Khi đã phát-tâm thanh-tịnh rồi, làm sao xa-lìa các bịnh, để khỏi
đọa vào tà-kiến. Vậy ông hãy chăm-chú nghe, tôi sẽ vì các ông chỉ giáo.
Khi đó Ngài
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát và đại-chúng đều hoan-hỷ, vừa kính-cẩn và vừa
chăm-chú chờ nghe lời Phật dạy bảo.
LƯỢC GIẢI
Phật trước
khen-ngợi, rồi sau dặn-dò phải chăm-chú nghe, là vì “Viên-giác” là
cảnh-giới thanh-tịnh, phải định-tâm chú-thần mà nghe, không thể dùng tâm
sanh-diệt, ý-nghĩ xằng-xiêng mà nghe hiểu được
3. Phật trả lời cho Ngài Văn
Thù
- Này
thiện-nam, Như-Lai có pháp “Ðại Ðà-la-ni” (1) tên là “Viên-Giác”. Từ tánh
“Viên-Giác” nầy mà sanh ra tất cả các pháp thanh-tịnh: Chơn-như, Bồ-đề
(Trí-giác) Niết-bàn (viên-tịch) và Ba-la-mật (Ðáo-Bỉ-Ngạn), nay ta sẽ
dạy trao cho các ông.
Nầy
Văn-Thù, nhơn-địa tu-hành của các đức Phật, đều y “Viên-Giác” nầy mà
vĩnh-viễn đoạn trừ vô-minh, được sánh-suốt thanh-tịnh viên-mãn, nên mới
được thành Phật.- Vậy “Vô-minh” là gì?
LƯỢC
GIẢI
Ngài
Văn-Thù hỏi nguyên-nhơn tu-hành của các đức Phật thế nào?- Ðến đây Phật
mới trả lời: Tất cả chư Phật đều y “Viên-Giác” để chiếu phá vô-minh và
được thành Phật. Nào là: Chơn-như, Bồ-đề, Niết-bàn và Bát-nhã
Ba-la-mật-đa v.v... cũng đều từ “Viên-Giác” nầy mà lưu xuất.
Vậy muốn
ngộ được “Viên-giác’ trước phải hiểu rõ. Vô-Minh và diệt trừ vô-minh là
điều cần nhứt.
4. Phật chỉ “Vô minh”
- Nầy
Thiện-nam, tất cả chúng-sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên-đảo làm
mê-mờ tánh “viên-Giác”, như người lạc đường, lầm lộn bốn phương. Ðiên-đảo
vọng-hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ-đại giả hợp nầy làm thân
mình, chấp cái vọng-niệm sanh diệt duyên theo bóng-dáng của sáu trần cho
là thật tâm mình. Như người nhặm con mắt, thấy trong hư-không có các hoa
đốm, hoặc mặt trăng thứ hai. Thật ra trong hư-không chẳng có hoa đốm hay
mặt trăng thứ hai, nhưng vì người nhặm con mắt vọng-chấp. Bởi vọng-chấp,
nên chẳng những không biết được hư-không, mà lại thêm mê-lầm: Chấp thật
có hoa đốm sanh. Vì mê-lầm mà có sanh-tử luân-hồi, nên gọi là “Vô-minh”.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn nầy
Phật chỉ rõ cái “Vô-minh”. Vô-minh là những cái vọng-tưởng điên-đảo che
mờ tánh “Viên-Giác” (bản tâm thanh-tịnh).
Bởi Vô-minh
vọng hiện ra có thân có cảnh rồi chúng-sanh trở lại chấp thật-ngã
thật-pháp, tạo ra vô-số nghiệp, mê-mờ chồng-chập, che đậy tánh Viên-Giác!
Vì thế mà nhiều kiếp sanh-tử luân-hồi, trầm-luân trong biển khổ.
Cũng như
người bị buồn ngủ (dụ cho Vô-minh) nổi lên, làm cho mê-mờ tánh tỉnh-táo
(dụ cho Viên-Giác); nhơn đó hiện ra cảnh chiêm-bao đủ cả người và vật
(hiện thế-giới và chúng-sanh), rồi cũng khóc cũng cười, cũng mừng cũng
giận, mỗi mỗi đều cho là thiệt cả, nên luyến-ái triền miên, từ giấc
chiêm-bao nầy tiếp-tục qua giấc chiêm-bao khác, không biết chừng nào
thức-tỉnh.
Ðây là dụ
cho Vô-minh chồng-chập che mờ tánh “Viên-Giác” (Chơn-tâm).
5. Phật dạy “Vô minh”
không có thật thể
- Nầy
thiện-nam! Cái “Vô-minh” này không có thật thể (thật vật). Như người ngủ
chiêm-bao, thấy các cảnh vật, đến khi thức rồi, thì cảnh vật kia không
còn; và như người hết nhặm, thì các hoa đốm trong hư-không tự tiêu-diệt.
Lúc bấy giờ không thể nói “thật có chỗ hoa diệt”, vì không thật có chỗ hoa
sanh vậy.
Tất cả
chúng-sanh ở trong cái “không sanh diệt” (tánh Viên-Giác) mà vọng thấy có
sanh-diệt, cho nên mới bị trầm luân trong biển sanh-tử luân-hồi.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật dạy: Tất cả chúng-sanh vẫn ở trong bản tánh Viên-Giác thanh-tịnh
không sanh không diệt, mà tự mình mê-mờ (Vô-minh) vọng thấy có sanh-diệt,
nên vĩnh kiếp triền-miên, luống chịu trôi lăn trong biển sanh-tử luân-hồi,
thật đáng thương!
Nhưng
“Vô-minh” là hư-vọng, không có thật-thể, cho nên khi giác-ngộ rồi, thì nó
tự hết. Cũng như các “Tối”, vì nó không có thật-thể, nên khi “ Sáng” đến,
thì “Tối” tự mất. Nếu Vô-minh là vật có thật, như núi, như sông v.v...
thì không dễ gì làm tiêu nó được.
Phật lại
tỷ-dụ: Vô-minh như chiêm-bao, không phải thật vật, nên khi thức rồi thì
cảnh chiêm-bao tự mất. – Vô-minh như mắt người bị nhặm, thấy hoa-đốm
lăng-xăng giữa hư-không khi hết nhặm rồi thì hoa đốm liền tiêu.
6. Phật dạy tu theo “Viên giác”
- Nầy
Thiện-nam, nhơn-địa tu-hành của Như-Lai là tu theo Viên-Giác. Nghĩa là:
biết các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không có người chịu
sanh-tử luân hồi.
Không
phải phá hoại, làm cho các pháp mất đi mà kêu là không, chính bản-tính của
các pháp nó tự không. Cái “biết (năng biết) các pháp không” đó, cũng như
hư-không. “Cái biết như hư-không”, cũng không luôn. Nhưng không thể nói:
“không có cái biết”. Phải dứt trừ hết cả “có” và “không”, như thế mới gọi
là “tùy thuận tánh Viên-giác” (tu Viên-Giác).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn nầy
Phật dạy tu theo “Viên-Giác”, có 5 từng bực:
1.
Từng bực thứ nhất, là quán các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa
hư-không, nên không sanh tâm tham, sân, si. Ba độc không sanh, thì ba
nghiệp thân, khẩu, ý chẳng tạo nhiệp. Vì không tạo nhiệp, nên không có
cảnh luân-hồi và người bị luân-hồi.
2.
Trên nói “cảnh bị biết” không, nói đến từng thứ hai là “cái tâm hay
biết” cũng như hư-không.
3.
Ðến từng thứ ba, là cái biết “cái tâm hay biết cũng như hư-không”
cũng không luôn.
4.
Sợ người lầm chấp cảnh-giới nầy không có cái biết, nên đến từng thứ
tư, Phật dạy tiếp: “không phải là không có cái biết”.
5.
Ðến từng thứ năm, Phật dạy phải rời các vọng-chấp “có” và “không”,
mới nhập được tánh viên-giác.
7. Phật và Bồ Tát đều
tu theo “Viên Giác”
Tại sao
thế? Vì trong Như-Lai-Tạng (Viên-Giác) không có sanh diệt, không có thấy
biết, như hư-không thường còn, chẳng lay động, như tánh của pháp-giới
viên-mãn khắp giáp cả mười phương.
Ðây gọi
là chỗ nhơn-địa tu-hành của Như-Lai, các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây mà
phát tâm thanh-tịnh tu theo Ðại-thừa. Chúng-sanh đời sau cũng phải y theo
đâu tu-hành, mới khỏi đọa vào tà-kiến.
LƯỢC GIẢI
Như-Lai-Tạng là tánh Như-Lai hàm chứa tất cả các pháp; cũng gọi là
“Viên-Giác”, cũng kêu là “Pháp-giới-tánh” (bản tánh của các pháp). Nó
viên-mãn khắp-giáp cả mười phương, không có sanh-diệt và cũng không
tri-kiến, như hư-không thường còn chẳng lay động.
Phật dạy:
Ðây là chỗ tu-hành của Như-Lai. Các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây phát tâm
thanh-tịnh tu Ðại-thừa. Chúng-sanh đời sau cũng phải y nơi đây tu-hành
mới khỏi lạc vào tà-đạo.
Ngài
Văn-Thù hỏi 2 câu:
1.
Nhơn-địa tu-hành của Như-Lai.
2.
Các vị Bồ-tát phát tâm Bồ-đề tu theo Ðại-thừa, làm sao phá trừ được
các vọng? Ðến đây Phật đã dạy xong.
8. Phật nói bài
kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi đó Ðức
Thế-Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:
Văn-Thù! Ông phải biết:
Chỗ chơn-địa tu-hành
Của các đức Như-Lai
Là dùng trí Viên-giác
Phá trừ hết Vô-minh:
Biết các pháp hư-huyễn
Thì khỏi bị luân-hồi.
Cũng như người chiêm-bao,
Thức rồi cảnh mộng hết.
Cái biết cũng không còn
Sáng-suốt khắp mười phương (Viên-giác),
Bình-đẳng không chuyển-động,
Tức thì thành Phật-đạo.
Các huyễn diệt hết rồi,
Thành đạo cũng không thành:
Xưa nay tánh viện-mãn.
Bồ-tát y nơi đây,
Phát tâm đại Bồ-đề,
Các chúng-sanh đời sau,
Tu đây mới khỏi đọa.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài
kệ nầy: Các Ðức Phật dùng trí Viên-Giác phá trừ Vô-minh. Nghĩa là: biết
muôn vật đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không, không sanh tâm
nhiễm-trước, nên khỏi bị luân-hồi.
Người được
giác-ngộ rồi cũng như người thức giấc chiêm-bao: các cảnh vật đều không
còn - Cảnh “bị biết” đã không, nên “cái biết” (năng biết) cũng không. Vì
năng và sở đều không nên tánh Viên-giác mới hiện ra sáng-suốt chiếu khắp
cả mười phương, bình-đẳng không chuyển-động, như thể là “thành Phật”.
Nói “thành
Phật” là tạm nói mà thôi, thật ra cũng không “thành”. Vì tánh “Viên-Giác”
của mỗi người đều sẵn có, chỉ trừ hết “Vô-minh” rồi thì “Viên-Giác” tự
hiện ra, chớ có gì đâu mà gọi là “thành”.
Cũng như
người có sẵn hòn ngọc trong túi, chẳng qua vì quên, nên in như mất. Ðếu
khi nhớ lại thì ngọc vẫn ở sẵn trong túi áo, chớ đâu phải mới “đặng”. Bởi
thế nên nói “thành đạo cũng không thành”.
Phật y theo
Viên-Giác nầy mà tu, Bồ-tát cũng y theo Viên-Giác nầy mà phát tâm Bồ-đề,
cho đến chúng sanh đời sau cũng phải y theo Viên-Giác nầy tu-hành mới khỏi
lạc vào tà-đạo.
--- o0o ---
Mục
Lục Khóa
VIII
Bài
1
|
Bài
2
|
Bài
3
|
Bài
4
|
Bài
5
Bài
6 |
Bài
7 |
Bài
8 |
Bài
9 |
Bài 10 - 11
--- o0o ---
Mục
Lục Toàn Bộ | Khóa I
| Khóa II | Khóa
III | Khóa
IV
Khóa V
| Khóa
VI | Khóa VII | Khóa
VIII
Khóa IX
| Khóa
X - XI | Khóa XII
--- o0o ---
Cập nhật: 07/2003