Thế giới bây giờ đang trải qua thời kỳ đa tôn
giáo, tức là thời kỳ độc quyền tôn giáo đã chấm dứt. Vì đa tôn giáo
như thế cho nên một số tôn giáo đang cạnh tranh ráo riết để tăng
trưởng số tín đồ của mình giống như các công ty thương mại cạnh
tranh ráo riết để bán hàng. Nếu chúng ta chịu khó vào website
của một vài tôn giáo chúng ta sẽ thấy thống kê số tín đồ tân tòng
mỗi năm được đưa ra như một bằng chứng cụ thể chứng tỏ tôn giáo của
mình là tôn giáo tốt đẹp, mỗi ngày mỗi đựơc nhiều người tin theo,
giống như các công ty thương mại trình bày số thương vụ mỗi năm để
chứng tỏ công ty của họ thành công và càng ngày càng được công chúng
ưa chuộng.
Tuy nhiên thời đại bây giờ trí tuệ con người mở
mang rất nhiều. Cuộc cách mạng về thông tin và phương tiện giao
thông tiến bộ làm cho thế giới nhỏ lại và con người hiểu biết nhau
nhiều hơn. Quyền thông tin, trao đổi tư tưởng, trình bày sự thực của
lịch sử, quyền tự do tư tưởng không một quyền lực nào có thể ngăn
cản được. Sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, sự
độc lập của các quốc gia – dù là quốc gia nhỏ bé khiến cho tiếng nói
nào cũng được mọi người lắng nghe hoặc phải lắng nghe. Mọi người đều
bình đẳng, mọi quốc gia đều bình đẳng, mọi tôn giáo đều bình đẳng.
Đã qua rồi thời kỳ áp đặt, khống chế, lừa mị, che dấu.
Đạo Phật ra đời cách đây hơn 2500 năm giữa lúc Bà
La Môn hay Ấn Độ Giáo cực thịnh tại Ấn Độ. Khi Đức Phật tại thế và
sau khi Đức Phật nhập diệt một thời gian ngắn – là thời kỳ vàng son
của Phật Giáo do chủ trương bình đẳng xã hội, muôn loài
chúng sinh đều bình đẳng, không van vái thần linh mà
dùng Trí Tuệ và Từ Bi – thông qua Thập
Thiện, Bát Chánh Đạo, Lục Hòa v.v.. để giải quyết mọi vấn đề của xã
hội và con người. Sau đó Đạo Phật lan rộng, về phía Bắc tới Tây
Tạng. Về phía Nam tới Tích Lan, về Đông Á tới A Phú Hãn
(Afghanistan) về phía đông tới Mông Cổ, Trung Hoa rồi Triều Tiên,
Nhật Bản. Về Đông Nam Á tới Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và
Việt Nam. Tại Việt Nam, theo Kiêm Đạt trong Đạo Phật Ngày Nay “Thành
Luy Lâu là toà thành đầu tiên tại Tỉnh Bắc Ninh mà Phật Giáo từ Ấn
Độ đã truyền bá sang trên phần đất Giao Chỉ. Vào thế kỷ thứ II trước
Tây Lịch, những đoàn buôn Ấn Độ đầu tiên đã đến buôn bán tại Luy
Lâu; đi theo họ còn có những tăng lữ Phật Giáo”.
Có thể nói Đạo Phật từ Ấn Độ truyền bá đi khắp
nơi bằng con đường hòa bình. Điều đó có
nghĩa là Phật Giáo không đến các xứ bằng con đường chinh phạt hoặc
lùng kiếm thuộc địa. Chúng ta không thể tìm thấy trong bất kỳ giáo
hội Phật Giáo của các quốc gia theo Phật Giáo nào một tổ chức gọi là
“Phái Bộ Truyền Giáo” để thiết lập kế
hoạch đem Phật Giáo ra nước ngoài. Phật Giáo cũng không liên kết với
bất cứ một đế quốc nào, một siêu cường nào, một quốc gia hùng mạnh
nào để bành trướng. Phật Giáo truyền đến các nơi khác nhờ một số
thương buôn Ấn Độ hoặc một số vị sa môn “xuất dương”
đến tu hành tại một quốc gia nào đó. Do đức độ tỏa sáng, lâu rồi
vua, quan, dân chúng địa phương tin theo vị sa môn này rồi họ tự
động truyền bá Phật Giáo hoặc cho phép truyền bá trong quốc gia họ.
Tuy nhiên sau khi Đức Phât nhập diệt, Phật Giáo từ từ suy tàn ngay
trên quê hương mình. Theo một số học giả nghiên cứu về Phật Giáo thì
chính Ấn Độ Giáo và những cuộc xâm lăng của Hồi Giáo sau này đã là
nguyên ủy nói trên. Hồi Giáo khi tiến vào Ấn Độ đã triệt hủy cả Ấn
Độ Giáo lẫn Phật Giáo. Rồi sau khi Đức Phật nhập diệt, Phật Giáo
không còn được các vua quan Ấn Độ ưa chuộng nữa bởi vì nó làm chướng
ngại cho chủ trương phân chia giai cấp. Theo kinh điển Ấn Độ Giáo,
giai cấp cùng khổ/tiện dân (Untouchables) không thể nào
bình đẳng với các giai cấp khác. Cho tới ngày hôm nay, mặc dù thế
giới tiến bộ như thế, việc nâng cao thân phận xã hội của tầng lớp
tiện dân Ấn Độ vẫn gặp phải những chống đối mãnh liệt, ngay cả trong
các đại học là nơi được giảng dạy những tư tưởng tiến bộ nhất. Còn
tại những nơi khác trên thế giới, số phận của Phật Giáo cũng thật
hẩm hiu. Sự bột phát của Chủ Nghĩa Thực Dân, chủ nghĩa đem pháo
thuyền đi xâm lăng, săn lùng thuộc địa để làm giàu cho “mẫu quốc”
của các đế quốc hùng mạnh Âu Châu đã là một thảm họa cho nhân loại
trong đó có Phật Giáo. Hầu như không một quốc gia “phi Âu Châu”
nào thoát khỏi thân phận nô lệ! Tại các quốc gia nô lệ, văn hóa bản
địa bị triệt hủy. Tôn giáo bản địa nếu còn sống sót thì cũng phải
nép mình vào làng quê, hang cùng ngõ hẹp, thôn xóm hẻo lánh để tồn
tại. Ít ra trong một thế kỷ, tại Việt Nam, Đạo Phật đã bị những ông
bà thực dân miệt thị như là một thứ “mê tín dị đoan, thờ cúng
Quỷ Thần” và dĩ nhiên là rất “lạc hậu” và cần phải đào
thải.
Thế nhưng với thời gian, theo Luật Vô Thường,
dòng đời đã biến đổi. Giờ đây rất nhiều trí thức Âu Châu đã tôn sùng
Đạo Phật. Liên Hiệp Quốc cũng đã công nhận Lễ Vesak – kỷ niệm cùng
lúc ngày Đản Sanh/Thành Đạo/ và Nhập Diệt của Đức Phật là ngày lễ
quốc tế (Vesak Day). Ngày 15 tháng 7 năm 2009, Tribune de Geneve
(Diễn Đàn Geneve) Hội Liên Minh Quốc Tế Tiến Bộ Tôn Giáo Và Tâm Linh
(ICARUS) tại Geneve đã ban tặng Cộng Đồng Phật Giáo năm nay “Giải
Thưởng Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới”. Tại Hoa Kỳ, nếu bạn đến Thành
Phố Berkeley – California, bạn sẽ gặp rất nhiều các giáo sư các nhà
trí thức tiêu biểu cho trí thức Hoa Kỳ mà họ là đệ tử của Đức Phật.
Một số tài tử nổi tiếng của Holywood, ca sĩ nổi tiếng của Hoa Kỳ,
ngôi sao bóng tròn của như Baggio của Ý, Beckham của Anh v.v… họ
cũng đều là Phật Tử. Mới đây nhất nhà sư Thomas Dyer – một cựu
truyền giáo Baptist đã trở thành sĩ quan Tuyên Úy Phật Giáo lần đầu
tiên trong Quân Đội Hoa Kỳ và sẽ được cử sang Iraq để phục vụ nhu
cầu tâm linh cho binh lính Hoa Kỳ vốn là Phật tử tại đây. Dĩ nhiên
các nhà trí thức này, các siêu sao màn bạc, các ca sĩ nổi danh tiền
kiếm bạc triệu và cả nhà truyền giáo Baptist kia …họ không theo Đạo
Phật vì cơm áo, mà họ đi tìm sự giải thoát tâm linh hoặc một đời
sống thoải mái hơn về tâm hồn mà họ không tìm thấy nơi tôn giáo cũ
mà họ đã theo. Nói Giải Thoát Tâm Linh là
nói chung chung, khái quát vậy thôi. Nội dung của nó còn bao hàm rất
nhiều những đức tính cao quý, những phẩm hạnh tốt đẹp, những tư
tưởng tốt lành, những hành vi nhân đạo, những suy nghĩ hiền hòa,
chân thật, những hành vi lợi lạc cho mình cho người, những an vui
của tâm hồn mà con người lúc nào cũng mong vươn tới, khắc khoải vươn
tới từ mấy ngàn năm nay. Chắc chắn khi theo Đạo Phật bạn sẽ có. Tất
cả những tình cảm, tư tưởng tốt lành đó sẽ hằng trụ
trong bạn, sẽ đi theo thần thức của bạn
khi bạn qua đời. Vĩnh viễn không thể nào mất được. Đó là các điều
tốt lành dưới đây:
1) Tư
tưởng của bạn được giải phóng: Tư tưởng được giải phóng có
nghĩa là bạn không bị trói buộc bởi bất cứ tín điều, tư tưởng, quan
điểm, chủ nghĩa và sự cấm kỵ nào. Không có một tư tưởng nào là tư
tưởng cấm kỵ trong Đạo Phật. Nếu vũ trụ rộng lớn như thế nào thì tư
tưởng của bạn bao la (vô biên xứ) như thế. Nếu chim và mây trên trời
có thể bay lượn tự do thì sự tự do tư tưởng của bạn cũng như thế.
Phật Giáo không buộc bạn phải tôn thờ bất cứ lời răn dậy nào. Phật
Giáo từ chối đầu óc cuồng tín và giáo điều cực đoan. Lời Phật dạy
giống như một viên thuốc, một bài thuốc, một phương thuốc hay. Nếu
bạn không uống thì uổng phí vì BỆNH không hết. Chỉ có thế. Nếu bạn
không tin Phật, bạn chẳng bị trừng phạt hay bị đày xuống hỏa ngục.
Nhưng nếu bạn làm điều xấu hoặc điều ác thì chính tâm hồn bạn đang
bị vây hãm trong Hỏa Ngục mà bạn không biết. Quan niệm
Phá Chấp là quan niệm độc đáo của Đạo Phật. Ngay trong
cuộc sống hằng ngày nếu bạn chịu khó “Phá Chấp” một chút
thì cuộc đời bạn cũng thanh thản, bớt phiền não đi rất nhiều.
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong
những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà
Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp. Mà phá chấp tức
là phá mê. Phá mê (tức ra khỏi cơn mê) là sáng suốt. Mà sáng suốt là
giải thoát. Ý nghĩa giải thoát là như thế. Những ai đã từng ở tù hẳn
biết ngục tù khổ đau như thế nào. Thế nhưng ngục tù tư tưởng còn khổ
đau gấp bội. Theo tinh thần của Phật Giáo thì tẩy não, nhồi sọ, nhồi
nhét tư tưởng là nô lệ hóa con người và biến con người thành tù nhân
để sai khiến. Nếu muốn tìm hiểu tinh thần phá chấp bạn có thể tìm
đọc hai bộ kinh Kim Cang và Bát Nhã.
2) Bạn
không còn phải sợ hãi thần linh nữa: Như đã nói ở trên Đạo
Phật là đạo của trí tuệ. Khi dùng trí tuệ soi rọi thì vũ trụ này là
do nhân duyên tạo thành. Thân xác của chúng ta đây cũng là sự hòa
hợp của Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Những việc làm đang diễn ra hằng ngày là do chính chúng ta quyết
định. Khổ đau và hạnh phúc của chúng ta do chính ta hoặc tha nhân
gây tạo chứ Quỷ Thần không thể can dự vào được. Cái chết là luật tự
nhiên không phải do quỷ thần hoặc Nam Tào, Bắc Đẩu xóa sổ. Nếu bạn
không đồng ý với những gì nói ở trên và cho rằng tất cả những khổ
đau và hạnh phúc này là do Thần Linh gây tạo hoặc ban phát thì tại
sao bạn tha thiết cầu nguyện thần linh suốt cả cuộc đời mà khổ đau
của bạn vẫn không hết? Cầu nguyện tới bao giờ mới vừa lòng thần
linh? Bao nhiêu thiên tai, bao tai nạn khủng khiếp, bao cuộc chiến
tranh tàn bạo do ai gây ra? Do con người hay do một đấng thần linh
nào đó vì phẫn nộ với loài người gây ra? Sự cầu nguyện có làm bớt
thiên tai, dịch họa, chiến tranh, khổ đau của con người không? Phật
Giáo phủ nhận sự hiện hữu của thần linh trong cuộc sống của con
người. Phật Giáo chủ trương chính Con Người phải giải quyết những
vấn đề như chiến tranh hay hòa bình, hạnh phúc hay khổ đau của chính
mình. Khi hiểu được như thế, khi đã liễu ngộ
được như thế bạn không còn phải sợ hãi thần linh, tôn thờ
thần linh, van vái và cầu xin ở thần linh nữa. Trong hầu hết các
cuộc thuyết pháp, Đức Phật đề cập rất nhiều đến Trời, Quỷ, Thần,
Thiên Long Bát Bộ v.v..Tuy nhiên, theo Kinh Phật thì Trời, Quỷ, Quỷ
Thần, Thiên Long Bát Bộ không liên hệ chi đến cuộc sống của con
người. Họ không phải là thần linh tối thượng quyết định vận mạng của
con người. Trời, Quỷ, Thần, Thiên Long Bát Bộ cũng quay đảo trong
vòng luân hồi, cũng đầy rẫy phiền não, cũng bị quy luật Sinh, Lão,
Bệnh, Tử chi phối. Còn về Phạm Thiên (Brahma) là vị mà người đời lúc
bấy giờ coi như “bậc
Toàn Thắng, Toàn Tri, Nguời Cầm Quyền Đinh Đoạt, là Giáo Chủ, là
người Sáng Tạo, là Tạo Hóa, là Chúa Tể, là Cha của những chúng sanh
đã, đang và sẽ ra đời.” (*) Đức Phật đã giảng dạy như
sau “Như vậy, chính do
ý muốn và sự tạo tác của đấng Tối Cao mà con người trở thành sát
nhân, trộm cắp, tà dâm, giả dối, phỉ báng, thô lỗ, nhảm nhí, thèm
thuồng, khao khát, hiểm độc, tinh quái, và hiểu biết sai lầm. Do đó
đối với người chủ trương thần linh là nguyên nhân chính yếu của tất
cả những điều ấy thì con người sẽ không còn ý muốn, hoặc cố gắng,
cũng không thấy sự cần thiết để làm, hoặc tránh không làm những hành
động ấy.” (*) Và trong Túc Sanh Truyện (Maha Bodhi
Jataka), Đại Bồ Đề, Bố Tát phê bình giáo lý chủ trương rằng mọi việc
đều do đấng Tối Cao tạo nên như sau: “Nếu
có một thần linh toàn quyền ban phước hay gieo họa cho tạo vật đã
được chính ngài tạo ra, và cho chúng nó những hành động tốt hay xấu,
vị thần linh ấy quả thật đầy tội lỗi. Con người chỉ thừa hành ý muốn
của ngài.” (*)
3) Khi
phát huy hết năng lực của Trí Tuệ, không còn bi lụy, khóc than, cầu
xin, van vái, qụy lụy ai, bạn là người Tự Lập và Độc Lập: Khi
đó bạn trở về với tự ngã, phát huy hết tiềm năng của nội tâm. Lúc đó
bạn sẽ thấy thấu suốt bản thể của Vũ Trụ, Sự Sống, Sự Chết, Hạnh
Phúc và Khổ Đau và lòng bạn lắng yên như bể cả. Khi tâm hồn của bạn
đã lắng yên tức đi vào trạng thái Định. Trạng thái này sẽ khiến bạn
cảm thấy thơ thới, hân hoan tức là cảnh giới an nghỉ tuyệt đối của
tâm hồn gọi là Niết Bàn (Nirvana).
Tuy nhiên có hai loại niết bàn – đó là Hữu Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết
Bàn. Chỉ có các chư Phật mới có thể chứng tới Vô Dư Niết Bàn. Còn
như chúng ta thì chỉ có thể chứng tới Hữu Dư Niết Bàn bởi vì còn có
những phiền não rất vi tế mà chúng ta chưa đoạn diệt hết.
4) Bạn
bình đẳng với muôn loài. Thể tính của bạn là thể tính Phật, bạn có
thể trở thành Phật. Tôi có thể cam đoan với các bạn rằng
không có một tôn giáo nào mà vị giáo chủ lại nói rằng Thể Tính của
vị giáo chủ ngang bằng với Thể Tính của tín đồ và nếu chịu tu tập
thì tín đồ cũng đạt được ngôi vị của giáo chủ. Đây là tính độc đáo
và hi hữu của Phật Giáo. Chính vì thế khi ứng dụng quan niệm này vào
xã hội thì trong một xã hội thuấn nhuần tinh thần Phật Giáo sẽ không
có giai cấp, không có nạn kỳ thị chủng tộc, không có Phật tử giàu
sang và Phật tử nghèo hèn. Cũng không có Phật tử thông minh và Phật
tử ngu độn. Từ vua quan đến thứ dân, tiện dân, Phật đều đối xử như
nhau. Tất cả đều bình đẳng trước mắt Phật. Khi bạn lễ Phật là lễ
lạy, cung kính cái Phật Tánh trong con người mình, là bạn cung kính
tất cả những phẩm hạnh cao quý vốn có trong con người bạn nếu được
phát huy. Nó không phải là sự quỳ lạy thần linh bình thường như
nhiều người không biết hoặc hiểu lầm. Khi chúng ta gặp nhau, chúng
ta chắp tay xá và miệng nói “A Di Đà Phật”
là chúng ta kính trọng những đức tính tốt lành trong con người của
nhau, chúng ta cầu chúc cho nhau được sống ở Đất Thanh Tịnh, Quốc Độ
Thanh Tịnh (Tịnh Độ) của Phật A Di Đà.
5) Bạn
sẽ là quán quân trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ thú vật do lòng
Từ Bi: Tôi có thể thưa với bạn rằng không có kinh điển của
một tôn giáo nào trên thế giới lại nói nhiều về loài vật như kinh
Phật. Thảng hoặc nếu có đề cập tới thì chỉ coi loài vật như một thứ
do Thần Linh tạo ra để làm thực phẩm cho loài người trong các bữa ăn
và cúng tế Thần Linh. Nhưng Đức Phật thì không thế. Ngay trong thời
kỳ còn ở trong cung vàng điện ngọc, Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã có lòng từ
tâm đối với những loài thú vật đáng thương. Truyện kể rằng Hoàng Tử
Đề Bà Đạt Đa đưa cây cung lên bắn một con chim. Con chim không chết
mà chỉ bị thương và sa xuống sân của thái tử. Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã
chạy ra, ôm con chim vào lòng và chữa vết thương cho nó. Lúc đó vị
hoàng tử chạy tới và đòi lại con chim nhưng Thái Tử Sĩ Đạt Ta nhất
quyết không trả lại. Hai bên tranh luận và sự việc tới tai Đức Vua
Tịnh Phạn. Hoàng Tử Đề Bà Đạt Đa nói rằng con chim do hoàng tử bắn
cho nên nó phải thuộc về hoàng tử. Còn thái tử thì cho rằng vị hoàng
tử khi giương cây cung bắn con chim là muốn một con chim chết. Nay
con chim vẫn còn sống và thái tử lại bảo vệ mạng sống cho nó cho nên
con chim phải thuộc về thái tử. Đức vua nghe nói động lòng từ tâm và
phán quyết là con chim thuộc về Thái Tử Sĩ Đạt Ta. Trong suốt cuộc
đời hành đạo, Đức Phật thường dùng những truyện kể về đời sống của
những loại thú vật để làm chuyện ngụ ngôn giảng dạy đạo đức và tình
thương. Nếu quý vị và nhất là các em nhỏ muốn biết những chuyện hấp
dẫn và đầy ý nghĩa đạo đức này có thể đọc cuốn Prince Goodspeaker
(Hoàng Tử Thiện Ngôn) do Todd Anderson sưu tầm và dịch ra Anh Ngữ
xuất bản bởi Amitabha Buddhist Society of NY Inc. năm 1995. Chính vì
lòng xót thương loài vật như thế mà Đức Phật chủ trương ăn chay,
không ngoài mục đích đề cao “đức hiếu sinh”. Cấm sát hại
sinh linh là một trong những giới luật hàng đầu của Đạo Phật. Tuy
nhiên một số vị sa môn đã ăn mặn, nguyên do là vì xưa kia trong khi
đi khất thực, thí chủ cho đồ mặn. Để tôn trọng thí chủ, các vị đã
theo nguyên tắc “cho gì ăn nấy”. Tuy nhiên việc ăn mặn này
không làm tổn hại đến phẩm chất đạo đức bởi vì các vị không bao giờ
nhúng tay vào việc nuôi súc vật cũng như giết súc vật để làm thực
phẩm. Ngày nay vấn đề Ăn Chay để bảo vệ
súc vật đã trở thành một trào lưu lan rộng khắp thế giới. Có thể
những vị này không phải là Phật tử, nhưng khi hành động như thế, các
vị đã đi đúng con đường mà Đức Phật giảng dạy cách đây hơn 2500 năm.
Mới đây Brigitte Bardot – cô đào hở hang lừng danh Pháp của
thập niên 1950 cũng đã kêu gọi tổng thống Pháp công nhận một Ngày Ăn
Chay để bảo vệ súc vật. Bà Brigitte Bardot còn công kích cô đào
văm Sophia Loren là đã mặc áo lông thú tức là cổ vũ cho sự giết
hại loài vật để làm trang phục cho phụ nữ. Còn vấn đề môi trường.
Trước hết Đức Phật sinh ra dưới cây Vô Ưu của Vườn Lâm Tỳ Ni. Khi
đắc đạo, ngài ngồi dưới cội bồ đề. Trong suốt thời gian 45 năm hành
đạo, Đức Phật thuờng thuyết pháp tại những khu rừng, vườn, như Lộc
Uyển (Vườn Nai), Trúc Lâm (Vườn Trúc), Kỳ Viên, Núi Linh Thứu v.v..
Nơi nhập diệt của ngài là rừng Sa La Song Thụ. Trong những bài
thuyết pháp Đức Phật đề cập rất nhiều đến chim muông, cây cỏ, hoa
trái, tán dương núi rừng là nơi ẩn tu lý tưởng cho các vị A La Hán
cho nên có thể nói cả cuộc đời của ngài gần gũi với thiên nhiên.
Trong đời sống của chính mình và của chư tăng, ngài chủ trương tiết
kiệm và quý trọng vật cho của thí chủ. Do đó nếu theo Phật, lòng Từ
Bi của các bạn sẽ dễ dàng được thể hiện qua lòng yêu mến thú vật và
môi trường thiên nhiên và đây đang là một trong những giá trị của
thời đại.
6) Giàu
có bạn cũng sung sướng. Nghèo túng bạn vẫn vui. Nghĩa là bạn sẽ vui
vẻ trong mọi hoàn cảnh: Thưa bạn: Một trong những nguyên nhân
làm khổ còn người là lòng Tham: Tham của, tham tiền, tham sắc, tham
quyền, tham danh vọng. Vì có lòng Tham cho nên không khi nào thấy
đủ, không thỏa mãn với những gì mình đang có. Một ông triệu phú mà
có lòng tham thì thấy bạc triệu vẫn chưa đủ và phải kiếm nhiều hơn
nữa. Mà khi tham như thế thì đầu óc không còn sáng suốt, dễ dàng làm
điều phi pháp, phi đạo đức để đưa đến tù tội. Có thể nói một phần
không nhỏ những người đang phải chịu cảnh tù đày ngày hôm nay,
nguyên do chính là vì lòng tham. Cuộc khủng hoảng tài chính cuối năm
2008 tại Hoa Kỳ không phải do người Mỹ quản trị kém mà một trong
nguyên nhân chính là lòng Tham. Vì tham cho nên các công ty tài
chánh, công ty đầu tư, các công ty bán cổ phần đã tìm cách lường đảo
khách hàng khiến cho tổng thống Hoa Kỳ khi ban bố biện pháp cứu nguy
đã phải thốt lên “Shame of you!” (Thật xấu hổ cho các ông).
Lòng tham còn đưa tới nhiều đau khổ, tội lỗi khác và còn kéo dài
kiếp này sang kiếp khác. Chính vì nhìn thấu rõ Tập Đế (Nguyên Do Của
Khổ Đau) của con người là Tham-Sân-Si cho nên Đức Phật đã giáo huấn
đệ tử là phải nỗ lực diệt trừ nguồn Tam Độc này. Tuy nhiên tới đây
bạn có thể hỏi: Tham-Sân-Si vốn gắn chặt với bản chất của con người.
Chính vì có Tham-Sân-Si mà con người mới tiến bộ như thế này. Diệt
trừ Tham-Sân-Si có nghĩa là con người trở nên ù lì, không làm gì cả
sao? Thưa bạn, xin bạn đừng lo, chỉ có chư Phật, Bồ Tát, A La Hán,
Thánh Tăng mới có thể đoạn trừ hết Tham-Sân-Si. Còn bình thường như
bạn và tôi thì kiềm chế được Tham-Sân-Si
đã là giỏi lắm rồi. Trong suốt thời gian 45 hành đạo, Đức Phật đã
hóa độ cho tất cả mọi thành phần xã hội, từ vua, quan, quan đại
thần, binh sĩ, trí thức, thương buôn giàu có, tiện dân và kể cả
những băng đảng giết người. Tà ma ngoại đạo đến quy phục ngài không
thiếu. Đức Phật không bao giờ khuyên họ cứ ù lì, chấp nhận thân phận
hiện tại. Dĩ nhiên chúng ta không thể chuyển nghiệp
tức là chuyển hóa thân phận của mình bằng
con đường phi đạo đức. Đức Phật cũng thế, ngài dạy chúng ta phải
chuyển nghiệp bằng con đường tốt lành chẳng hạn phải thực hành
Bát Chánh Đạo hoặc Thập Thiện,
chứ có bao giờ Đức Phật bảo một người ăn mày cứ tiếp tục chấp nhận
thân phận của một kẻ ăn mày đâu? Thưa bạn trong lúc bạn thất vọng
não nề, chán nản cùng cực hoặc căng thẳng đầu óc để toan tính một
việc làm nguy hiểm gì đó khiến bạn muốn điên lên. Nếu bạn chợt dừng
lại và truy cứu xem nguyên do của những cái nói trên (Phật Giáo
gọi là Khổ Đau & Phiền Não) có phải là Tham-Sân-Si không? Nếu
bạn quán xét được như thế thì tự nhiên đầu óc bạn bớt căng thẳng,
lòng bạn trùng xuống, hơi thở bạn trở nên điều hòa. Bạn như người
đang nóng bức, khát nước được uống một ly nước dừa tươi mát mà Phật
Giáo gọi là Cam Lồ Giải Thoát tức là (nước
uống ngọt ngào làm tiêu đi mọi phiền não). Lúc đó bạn
có cảm tưởng vừa ra khỏi cơn ác mộng từ đó lòng bạn thơ thới hân
hoan, đầy đủ sáng suốt, thanh thản để giải quyết chuyện
đời trong điều kiện tốt lành, cho chính bạn, gia đình
bạn và cho người. Bạn cứ thử xem sao.
7) Bạn
không xâm hại ai, chiếm đoạt của ai, sống an vui với tất cả mọi
người. Bạn là quán quân góp phần vào việc giữ gìn hòa bình thế giới:
Thưa bạn: Đạo Phật không phải là đạo chú tâm vào cầu nguyện, van
vái. Tụng kinh, niệm Phật, ăn chay là một trong những phương
tiện/trợ duyên để giúp người ta làm lành, lánh dữ, tu sửa tính tình,
khiến tâm địa bình ổn, gieo trồng căn lành rồi từ từ
chuyển hóa tâm thức. Hằng hà sa số chư vị bồ tát,
thánh tăng, thiền sư với trí tuệ dũng mãnh thông qua Thiền Định cũng
đã chuyển hóa tâm thức nhanh chóng và chứng quả vị mà không cần tụng
kinh niệm Phật. Tuy nhiên dù là cư sĩ, tu sĩ, thánh tăng, bồ tát, a
la hán muốn chứng đựơc quả vị nói trên tức muốn giải thoát cũng phải
thực hành Bát Chánh Đạo, Thập Thiện và Lục Hòa. Bát
Chánh Đạo (Eightfold Path) gồm có: Right View
(Chánh Kiến), Right Thought (Chánh Tư Duy), Right
Speech (Chánh Ngữ), Right Action (Chánh Nghiệp),
Right Livehood (Chánh Mệnh), Right Effort (Chánh Tinh
Tấn), Right Mindfullness (Chánh Niệm) và Right
Contemplation (Chánh Định). Rồi Thập Thiện
thì gồm có: Không Sát Sinh, Không Trộm Cắp, Không Nói Dối, Không
Nói Lời Thêu Dệt, Không Nói Lời Hai Chiều (đâm thọc, lúc rày lúc
khác), Không Nói Lời Hung Ác, Không Tham Muốn, Không Nóng Giận và
Không Si Mê. Còn Lục Hòa thì gồm có:
Thân Hòa Đồng Trú, Khẩu Hòa Vô Tranh, Ý Hòa Đồng Duyệt, Giới Hòa
Đồng Tu, Kiến Hòa Đồng Giải và Lợi Hòa Đồng Quân. Thưa bạn
trong cuộc sống rất phiền phức và căng thẳng ngày hôm nay, chỉ cần
chúng ta ứng dụng ba chỉ dẫn Chánh Kiến,
Chánh Ngữ và Kiến Hòa Đồng
Giải không thôi – thì xã hội sẽ bớt đi rất nhiều những
lời lăng nhục, chửi bới, bóp méo, chụp mũ đang diễn ra hằng ngày và
thế giới sẽ trở thành một diễn đàn hòa bình
để cùng nhau thảo luận trong tương kính những vấn đề bức thiết của
con người. Nếu bạn có giải pháp nào tốt lành hơn, xin bạn cứ nói ra.
8) Bạn
không thấy cuộc đời này là nhàm chán, vô vị. Chắc chắn bạn yêu mến
cuộc sống, nhưng cũng không sợ Chết: Thưa bạn:
Buồn chán (boring/depressed) là một trong những căn
bệnh tệ hại của kiếp người. Không phải chỉ những người nghèo khổ mới
buồn chán mà cả hàng quí tộc, vương tôn công tử, vua quan, trí thức,
văn nghệ sĩ, tỉ phú cũng buồn chán. Kể cả lứa tuổi hoa niên cũng
buồn chán và đưa tới việc tự sát. Bản nhạc Bonjour
Tristesse (Buồn Ơi Chào Mi) chứng tỏ điều
này. Thật lạ lùng khi thấy tài tử ci-nê, ca sĩ nhạc Pop nổi danh
khắp hoàn vũ, hình ảnh được hằng triệu người mua, thêu trên áo và
tôn thờ như thần tượng, những celebrities này sống sung
sướng trong những dinh thự tráng lệ, kẻ hầu người hạ, người tình
(boy friend/girl friend) không thiếu, thế mà họ cũng buồn chán. Cái
chết của cô đào Marilyn Monroe và ca sĩ Michael Jackson mới đây cho
thấy những vị này đã chết là vì buồn chán, vì thấy cuộc đời vô vị.
Nhưng cũng thật lạ lùng là những vị sư, ni cô, thiền sư, đời sống
đạm bạc, ẩn dật trong những ngôi chùa, tu viện thì họ chẳng bao giờ
phải uống thuốc ngủ, hoặc tự tử vì buồn chán cả. Tạo sao thế? Bởi vì
những vị này, qua lời giáo huấn của Đức Phật và do chứng ngộ bản
thân, họ đã thấy tiện nghi, vật chất, của cải không phải là cứu cánh
của hạnh phúc. Hơn thế nữa họ biết cách sống
: Sống Trong Tỉnh Thức.
Sống trong tỉnh thức là
sống mà biết quý trọng sự sống, biết mình đang sống. Xin bạn
hãy thử mở hết các giác quan ra, hãy lắng đọng tâm tư, hãy để cho
lòng mình trùng xuống, thật nhẹ nhàng, thật êm dịu, bạn sẽ thấy:
- Tiếng gió vi vu là lúc ta chẳng phiền chẳng
não.
- Trời rộng bao la là trí tuệ ta siêu việt.
- Đất dày là nghị lực và ý chí của ta chẳng
thể hao mòn.
- Tiếng suối reo là tiếng lòng ta đó.
- Đại dương xanh thẳm là tấm lòng ta trải
rộng với lòng quảng đại nhân từ.
- Đám mây lững lờ bay là những giấc mộng
trong đời của ta chợt thành, chợt biến không ngừng.
- Chú thỏ non ngơ ngác chạy tung tăng trên
thảm cỏ là những ngày thơ ấu của ta.
- Cánh chim bay lượn trên vòm trời xanh là
khát vọng tự do của ta đó.
- Bão tố là lúc lòng ta sân hận.
- Tiếng sóng vỗ bờ rì rào của biển là lời ta
nỉ non tâm sự với đời.
- Đàn ngựa nhởn nhơ trên cánh đồng là tinh
thần ta bất khuất.
- Cả tiếng rống của loài sư tử cũng là lòng
kiêu hãnh của ta ngang bằng trời đất. Ta sống ung dung tự
tại và không bao giờ biết sợ sệt.
Bạn ơi, khi bước vào Đạo Phật, khi thực hành
thiền quán bạn sẽ cảm nghiệm và tận hưởng được những điều thi vị nói
trên. Bởi vì khi đó, bên cạnh cuộc sống vật chất này
bạn còn có tâm hồn của thiền sư. Chính vì
thế mà các Meditation Center đã mọc lên khắp nơi trên thế giới. Bạn
hãy thử thực hành như thế một thời gian xem sao. Rồi 100 năm qua đi
rất nhanh, rồi bạn sẽ từ giã cõi đời, từ giã cõi Diêm Phù Đề này.
Nhưng xin bạn đừng thắc mắc nhiều. Bạn hãy theo lời chỉ dẫn của Đức
Đạt Lai Lạt Ma: Sống Hạnh Phúc, Chết Bình An
(The Joy of Living and Dying in Peace). Vì trí tuệ của bạn đã mở
bung ra khắp vũ trụ này, vì thần thức của bạn đã tự do, vì tâm hồn
của bạn đã thể nhập vào thiên nhiên, cho nên bạn muốn vào Cung Trời
nào, muốn đầu thai vào đâu, hoặc muốn trở lại đây thêm một kiếp nữa
là tùy ý. Bạn khỏi phải bận tâm về cái chết.
9) Bạn
là người cao thượng trong tinh thần biết giúp đỡ và an ủi người khác:
Trong suốt thời gian 45 năm hành đạo, Đức Phật không nói gì hơn là
giáo huấn đệ tử và chúng sinh xây dựng Tâm Lành,
Trí Tuệ Sáng Suốt và thực hiện
Hạnh Bố Thí giúp đời. Ngài luôn luôn cất lời ca
ngợi tất cả mọi người – từ phàm phu, kẻ nghèo khó, đến ông trưởng
giả, đến các bậc đế vương, những vị ở khắp cõi Trời, Thiên Long Bát
Bộ đã có công trong việc độ sinh. Có những vị do lời Đức Phật kể lại
mà đã sống bất tử với thời gian như ngài Quán Tự Tại Bồ
Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát và Mục Kiền Liên Bồ Tát.
Ngài Quán Tự Tại đã phát lời nguyện giúp chúng sinh vượt qua nỗi sợ
hãi (Vô Úy). Nếu có chúng sinh nào đang lâm vào vòng nguy biến, binh
đao, nước lửa, ngục hình, tra tấn, khủng bố v.v..nếu thành tâm niệm
danh hiệu ngài, thì ngài sẽ thị hiện qua hình ảnh của
Phật Bà Quan Âm mà cứu độ. Còn ngài Địa Tạng Vương Bồ
Tát đã phát lời nguyện thật ghê gớm: Địa Ngục Giai Không
tức là là nếu thế giới này mà còn một người ở tù thì ngài không
thành Phật. Vậy những ai đang mắc vòng lao lý hãy thành tâm niệm “Nam
Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát”, chắc chắn sẽ ứng nghiệm. Còn ngài
Mục Kiền Liên Bồ Tát thì nhờ tâm chí thành cứu giúp mẹ đang bị khổ
sở trong thế giới của loài quỷ đói (Ngạ Quỷ) mà được thế gian xưng
tụng như biểu tượng của lòng hiếu thảo.
Nếu bạn vốn sẵn lòng từ tâm, lòng hy sinh cứu đời, hạnh nguyện san
sẻ tình thương với người khác, xin bạn thử bước vào Đạo Phật. Chắc
chắn bạn sẽ được thỏa mãn.
Tạm Kết Luận:
Dĩ nhiên những gì tôi chia xẻ với bạn ở đây còn
rất thiếu sót, thô sơ. Sau khi đã đọc xong tất cả những gì nói ở
trên, dù bạn có thể đã đồng ý một phần nhưng bạn có thể còn hỏi “Tôi
theo Đạo Phật, tôi theo Phật thì tôi có cơm ăn áo mặc, có thể trúng
số, có thể thăng quan tiến chức, nghèo có thể trở thành giàu không?”
Xin thưa: Bạn không phải là một đứa trẻ đang khóc (ẩn dụ cho khổ đau)
cần phải cần cho kẹo (dụ dỗ) mới nín (tức mới hết khổ đau). Bạn đang
đói, dù bạn theo Phật, nhưng chắc chắn bát cơm không hiện ra trước
mắt bạn. Nhưng vì theo Phật bạn sẽ làm lành, gieo nhân lành như thế
chắc chắn bạn sẽ gặt hái được Quả Lành tức
là những điều tốt đẹp trong tương lai – kiếp này hay kiếp sau. Điều
này đúng chắng sai. Cuối cùng điều bạn cần nhớ là Đạo Phật không
phải là đạo đổi chác, không phải là đạo ban bố phép mầu, không phải
là đạo hứa hẹn. Sự giải thoát, nguồn hạnh phúc do Đạo Phật –
thực ra do chính bạn đem lại -
có thể thực chứng ngay kiếp này, ngay bây giờ (here now),
không phải đợi chết đi mới có. Nó là đạo của Trí Tuệ, Từ
Bi và Lòng Dũng Cảm. Đó là ba trụ cột giúp cho chúng
ta thoát khỏi thân phận nghiệt ngã, cay đắng của kiếp người rồi vươn
lên sống ung dung tự tại, và có ý nghĩa.
Nếu bạn không tin vào Lòng Từ Bi, Lòng Dũng Cảm mà
mình vốn có, không tin vào Trí Tuệ sáng suốt của mình mà chỉ muốn
cầu xin, van vái thần linh để đạt hạnh phúc trong cõi đời này, bạn
có thể đi tìm một tôn giáo khác.
(California Tháng 11, 2009)
Cước
chú: Dấu (*) là lời trích dẫn từ
Đức Phật và Phật Pháp của Đại Sư Narada Maha Thera (Tích
Lan) do Phạm Kim Khánh dịch ra Việt Ngữ, xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2545
(Phật Lịch) tức năm 2001 (TâyLịch)