Ði Nhật với Thầy An Thiên
Thiện
Anh Lạc
---o0o---
Cuộc đời đôi khi có những chuyện không ai
ngờ được nhưng vẫn xảy ra thường nhật chứng tỏ rõ ràng là thế gian này
không trường tồn mãi mãi ... Thầy An Thiên đã nhiều lần hứa với tôi là sẽ
đưa tôi đi Kyoto hành hương cơ mà..... Lời hứa ấy của thầy đã vĩnh viễn
đi vào hư vô, quên lãng của một kiếp người....Nhưng dù sao đi nữa, tôi
cũng được qua Nhật với Thầy một lần duy nhất.
Vào trước mùa lễ Phục Sinh năm 1999, thầy
đã điện thoại gọi tôi đi Nhật với thầy. Tôi đồng ý, hứa với Thầy tuy ngày
giờ khởi hành thay đổi liên tục làm ảnh hưởng đến nhiều việc tôi dự tính
nên tôi không thể ở lâu hơn như đã dự định.
Phi cơ
bay suốt đêm từ Uùc nên đến phi trường quốc tế Narita ở Tokyo vào sáng sớm
ngày hôm sau. Phi trường này rộng, đẹp với nhiều cửa hàng thức ăn, công
nghệ Nhật mang hai nền kiến trúc Ðịa Phương và Âu Tây. Làm xong mọi thủ
tục qua hải quan và lấy hành lý, chúng tôi ra xe Bus thầy đã đặt sẳn để
đưa chúng tôi về khách sạn.
Khách sạn
này ở ngay trung tâm thành phố có tên là Shiba Park (Chi Bát), một khách
sạn 4 sao có tầm vóc quốc tế, từ đây, có thể thấy được ngọn tháp Tokyo. Vì
phái đoàn đến sớm quá nên khách sạn chưa có phòng trống, để tranh thủ thời
gian, Thầy đề nghị gửi lại hành lý rồi đưa chúng tôi đi xem thắng cảnh gần
đây.
Thầy có
một trí nhớ siêu việt nên đưa chúng tôi đi qua vài khu phố để đến thăm
chùa Tăng Thượng Minh Trị (Jojo-ji). Tuy nằm giữa thành phố, chùa vẫn mang
một sắc thái thiền vị, yên tĩnh vì chiếm một khu đất khá rộng, xung quanh
trồng nhiều hoa Anh Ðào, có vườn tược, cây kiểng, sân trước, sân sau ....Tôi
ồ lên một tiếng lớn khi thấy cổng tam quan đồ sộ hiện ra trước mặt. Cổng
làm bằng gỗ màu nâu, đã lên nước bóng, hình vòng cung, có nóc, chính giữa
lớn hơn hai bên làm tôi chợt nhớ đến ý nghĩa của ba nghĩa không, vô tướng,
vô tác ...Lối vào chùa này có một cổng lớn mang tên Chi Bát Ðại môn.
Bước vào
trong sân chùa, cảnh còn đẹp hơn nữa làm cho người ta có một cảm giác
thoát trần tục khi thấy những mái chùa cong vút đóng đầy rêu, đượm mùi
phong trần tương phản với những cành hoa Anh Ðào hồng đậm vừa chớm nở đang
vui mừng đón mùa xuân sang .... Chim chóc hót líu lo, nô dởn ríu rít dưới
ánh ban mai. Sân chùa rộng, bên phải có gác chuông, bên trái có lối vào
một khu vườn nơi thờ đức Quán Thế Âm lộ thiên. Vào sâu hơn, hai bên có
những sạp nho nhỏ bán tràng hạt, chuỗi tay, hình tượng Phật, cộng thêm
những thứ lặt vặt khác như nữ trang, quạt, bánh kẹo ... mà bất cứ một ngôi
chùa nào ở xứ Á Châu đều có ... Ði xa hơn, bên hông chùa, có nhiều tro cốt
của những em bé bị bố mẹ bỏ rơi, đựng trong những pho tượng tạc hình trẻ
thơ, tay cầm chong chóng, đội mũ đỏ. Sau chùa, còn có miếu thờ Thánh Ðức
thái tử là vị đã cho phép Phật giáo được lưu truyền ở Nhật, lăng mộ của
tướng quân Tokugawa.
Ngôi
chánh điện chính toạ lạc trên một nơi khá cao, phía trước có một khoảnh
sân rộng bày lễ đài tôn tượng thái tử Tất Ðạt Ða vừa mới đản sinh, đứng
trên cao, chính giữa một bồn nước đầy hoa tươi, có gáo múc nước bằng tre
để Phật tử làm lễ tắm Phật (mộc dục) . Vì người Nhật dùng ngày 8 tháng tư
dương lịch là ngày lễ Phật Ðản, nên những ngày tháng tư hôm nay vẫn còn lễ.
Nhích qua bên phải một chút, có nhiều dãy bàn chạy dọc theo sân để nước
sôi, trà, ly nhựa cho khách thập phương dùng, đứng sau bàn là những vị
tăng tiếp tục pha và mời trà. Nhạc nhè nhẹ trổi lên, phát ra từ những
chiếc loa treo trên cây đượm thêm nét thiền vị nơi chốn già lam này. Bên
trong chánh điện hơi tối, tượng Phật Thích Ca ở giữa, hai vị Bồ Tát Quan
Âm, Ðịa Tạng hai bên, tràng phan bảo cái rũ xuống, ngoài cùng có hai chiếc
trống, tất cả được ngăn lại bằng hàng rào gỗ.
Trở về khách sạn nhận phòng, nghĩ ngơi xong. Ðến
2 giờ, chúng tôi theo Thầy đến hiệu cơm chay Bồ Ðề dùng trưa. Thầy giống
như thiền sư Nhật nên ít nói, điềm đạm, nhã nhặn, tôi im lặng đi theo Thầy.
Dùng cơm trưa xong, Thầy đưa tất cả lên xe điện ngầm (metro) ra thăm tháp
Tokyo. Tháp dựng theo hình dáng tháp Eiffel của Pháp, nhưng thấp, nhỏ hơn,
lại sơn màu đỏ cam trông loè loẹt, diêm dúa, thua xa tháp Eiffel cả ngày
lẫn đêm. Lên trên cũng chẳng có gì đặc sắc ngoài những cửa kính ngó xuống
thành phố, những gian hàng ăn uống, kỷ vật. Mệt mỏi sau một ngày, Thầy và
chúng tôi về nghỉ sớm.
Ngày thứ hai mới là ngày du lịch chính thức do
hãng du lịch Sachi tổ chức. Ði viếng thăm thủ đô hiện nay của Nhật là
Tokyo (Ðông Kinh) có 12 triệu dân. Xe chạy thật êm vì đường phố tốt, lướt
qua những khu phố, nhà cửa san sát, chật hẹp nhưng rất gọn, sạch. Anh Ðào
trồng khắp nơi đúng với tên xứ Hoa Ðào.
Trước tiên, xe đến đền thờ vua Minh Trị (Mejji),
một ngôi đền về Thần Ðạo (Shinto Shrine), tôn giáo đặc thù của Nhật. Trước
cửa có một cổng chính (tori), kiến trúc đặc biệt. Ðền nằm sâu phía trong
khu vườn rộng, có nhiều cây tùng, bách thật cao, xanh, lối đi trải sỏi
trắng đưa đến một cổng (tori) khác trước khi vào đền. Chánh điện chính
rộng lớn ở giữa, trên cao, ngó ra cổng, hai bên, toạ lạc hai ngôi đền nhỏ
nằm thấp hơn gần sát mặt đất, chạy dài theo khu vườn với mái ngói cong,
trần thấp. Bên hông đền chính có hai cây cổ thụ trên năm ngàn năm, mỗi
thân cây treo tấm bảng ghim nhiều mảnh giấy viết tên những bịnh nhân cầu
xin thần cây phù hộ cho họ hết bịnh. Ðền đài nhiều nhưng không vào được
ngôi nào vì hôm ấy có lễ. Các tu sĩ mặc lễ phục Kimono màu trắng, đội mũ
đen. Ngoài sân, có một hồ nhỏ, nước chảy vào từ một ống tre, bên trên có
gáo tre để múc nước rửa chân tay cho sạch trước khi vào đền. Chẳng ai biết
cả.
Hoàng cung nằm cách xa thành phố, giữa khu phố
nhiều cao ốc, cạnh khuôn viên trải sỏi trắng, trồng nhiều cây tùng, bách
thấp. Xung quanh, dưới đào hào sâu bao bọc (nghe nói có cá sấu), trên xây
tường thành kiên cố giữ an ninh. Vì là ngày thứ sáu nên không vào thăm
được, bên ngoài, cảnh cũng bình thường.
Ðể nhiều thời gian đi thăm chùa Quán Âm (Sanso-ji,
Asakusa) còn có lý hơn. Chùa lớn, có nhiều điện thờ và tu viện như một cư
xá, xe hai bánh chạy qua lại dễ dàng xuyên qua hai khu thương mại. Chánh
điện to, trên nền cao, trước cửa có treo một lồng đèn giấy khổng lồ, màu
đỏ, vẽ chữ đen trên một vòng tròn trắng . Trong chánh điện, nơi thờ phượng
có cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, hai tượng đức Quán Thế Âm to, sơn vàng
thật đẹp, từ bi đứng hai bên. Tràng phan bảo cái cũng rặc vàng ròng thật
lộng lẩy rũ xuống, nhưng không đến gần được vì có rào cản, tất cả đều được
lưới mắt cáo bao quanh làm kém vẽ trang nghiêm nơi thờ phượng. Tuy thế,
tôi vẫn hoan hỉ, an lạc khi chiêm ngưỡng cảnh giới này. Ngoài sân tráng xi
măng, rộng để nhiều cây kiểng. Rải rác quanh chùa có nhiều tượng như ba vị
Phật Di Ðà, Dược Sư, Thích Ca, Bồ Tát Ðịa Tạng, Quán Âm, các vị tứ Thiên
Vương, nhiều bảo tháp bảy tầng. Ðặc biệt nhất là có tượng mấy chú khỉ đang
hướng về chánh điện lắng tai nghe kinh. Vào một nơi, ra một nẻo, ngõ ra
hấp dẫn hơn ngõ vào vì nhìn thẳng ra một khu thương mại nhỏ, có lợp mái,
hoa Anh Ðào khắp nơi, màu sắc sặc sở, vui mắt, lôi cuốn thị hiếu du khách
bằng những bảng hiệu treo kèm với những chiếc lồng đèn. Hai bên đường, vô
số gian hàng bán đủ thứ đồ thủ công nghệ mang nét đaàu7841?c thù quê hương
từ hình tượng Phật, Bồ Tát đến búp bế đủ loại, gươm, đao, lồng đèn, bát
đũa, áo Kimono, dép, mũ rơm ... ôi thôi không thiếu thứ chi. Chấm dứt lối
vào "mê hồn trận" là một cổng lớn, cột sơn son đỏ treo một chiếc lồng đèn
giấy khổng lồ với chữ "Lôi Môn" và bảng chữ "Kim Long Sơn".
Thầy không ngớt theo dõi chúng tôi vì sợ lạc và
cứ canh chừng, đi bên cạnh, lùa tôi đi thẳng, mỗi lần tôi ghé ngang, ghé
dọc, quẹo trái, quẹo phải, Thầy cản lai, từ tốn nói với tôi: "Ði đi con,
mấy thứ này mà xem mà mua làm gì cho tốn tiền"
Tôi tiu nghỉu, tuy sợ Thầy nhưng cũng cố len lén
né Thầy, mỗi lần Thầy nhìn đi hướng khác để lại ghé vào mua sắm chút đỉnh
cho bằng được. Mua sắm xong, chúng tôi mới hả hê chịu đi đến ăn trưa tại
một quán ăn thuần túy Nhật.
Ðến chiều, ra bến tàu để đi du thuyền, ngắm cảnh
biển, hải cảng Tokyo, uống trà, cà phê ăn bánh ngọt theo đúng kiểu AÂu Tây.
Tàu chạy gần hết một buổi chiều. Kể cũng lạ khi ngoài tháp Tokyo ra, Nhật
còn có chiếc cầu treo như ở San Francisco, cao ốc hình trái cầu treo như ở
Dallas ...
Trên đường về khách sạn, chúng tôi được đi ngang
qua khu thương mại sang trọng nhất tại Tokyo có tên là Ginza, ngày xưa là
nơi quy tụ của thợ kim hoàn.
Ðêm hôm ấy là đêm thứ sáu, tôi mệt quá nên không
đi ra phố chơi với những người bạn trẻ. Hơn nữa, Thầy đã dặn tôi là phải
về nghỉ ngơi sớm để lấy sức khoẻ ngày mai đi núi Phú Sĩ nên tôi phải y
giáo phụng hành.
Sáng sớm, vừa thức dậy thì Thầy đã gọi điện
thoại cho tôi dặn dò là phải mặc áo cho thật ấm vì hôm nay đi núi, đi hồ,
lạnh lắm, dự đoán thời tiết cho biết tuyết sẽ rơi. Giọng thầy thật êm, nhẹ,
ân cần, từ bi làm lòng tôi chợt ấm lại.
Núi Phú Sĩ cách xa Tokyo hơn trăm cây số, xe
chạy ngang nhiều thôn quê vùng đồi núi cằn cỗi nên trồng trọt rất ít. Tuy
vậy, dân quê vẫn khai thác đất đai trên núi triệt để để canh nông, khắp
nơi được Anh Ðào tô điểm. Nhà cửa nhỏ, san sát nằm cạnh nhau. Ðưòng đi lên
cao hẹp dần, ngằn nghoèo, khúc khuỷu, thỉnh thoảng điểm vài cây Anh Ðào
đầy hoa vui mắt. Trước mặt, núi Phú Sĩ hiện rõ rệt với một màu trắng xoá
trên đỉnh, cao sừng sững. Tuyết bắt đầu rơi từng hạt một, lên càng cao,
càng nhiều hơn và nặng hạt. Bên đường, lưa thưa những rặng thông trụi lá,
u buồn, lặng lẽ chịu đựng từng đợt tuyết đổ. Phú sĩ là ngọn núi lửa đã tắt
hơn ba trăm năm nay, đường lên núi được chia làm nhiều tầng rõ rệt. Lên
càng cao, tuyết rơi càng nhiều, cảnh vật trắng xoá, sau đó tuyết được thay
thế bằng nước đá bào ...đổ như mưa, đường đi ướt át, trơn trợt, nguy hiểm.
Ðến tầng thứ năm, xe không đi được nữa vì có bảng cấm trước mặt ở độ cao
2020 m so với đỉnh là 2337 m. Xe tấp vào một cửa hiệu để cho hành khách
thư dãûn, thoải mái mua sắm, uống trà mặc dù ngoài trời, mưa đá bắt đầu đổ
đều đặn.
Chúng tôi không được ở lâu vì có thể bị kẹt luôn
trên này. Thầy đã hối hả dục ra xe sau khi ở đây được 20 phút. Tôi muốn
mua vài thứ làm quà nhưng Thầy đứng gần, Thầy cản tôi mua vì ở đây họ bán
đắt lắm, Thầy hứa sẽ đưa chúng tôi đến một nơi bán đồ rẻ hơn. Thầy phải
thương Phật tử mới nhọc lòng như vậy. Tuy nhiên, chúng tôi cũng mua một số
hàng, vì thấy chủ tiệm niềm nở cho chúng tôi uống trà miễn phí, dùng phòng
vệ sinh, sưởi ấm, lại tặng quà nho nhỏ cho mỗi người, thì đi ra tay không
sao đành tuy giá cả ở đây gấp đôi nơi khác. Xe chúng tôi là chiếc cuối
cùng lên tầng thứ năm của núi Phú Sĩ sáng nay, đường lên núi đã đóng cửa.
Ðặc biệt nơi đây, tôi mua được một bức tượng thật ăn ý, với ba chú khỉ,
một bịt cả hai mắt, một bịt kín miệng nhưng một bịt có một tai. Thầy thấy
thế, cười trêu tôi:"Còn để dành làm gì lổ tai bên kia vậy con?". À, thì ra
Thầy đãbiết tôi hết rồi, tôi lủi đi mất, tránh Thầy ...Bên ngoài, có nhiều
thanh niên trượt tuyết dọc theo sườn núi. Xe đổ xuống núi, nhìn ra bên
ngoài, tôi thấy có quá nhiều khỉ từ trong rừng ra đường kiếm ăn. Thầy kêu
tôi để chỉ mấy chú khỉ với một hàm ý khác, tôi hiểu ý thầy, tôi cười, thầy
cũng cười cảm thông vì trên xe thật ồn ào. Sau đó, Thầy đã dịch một cuốn
sách của Thiền Sư Ðạo Nguyên (Dogen) để giảng một thời pháp về vô thường,
những khổ não trên đời thì cả xe im lặng "hùng tráng", nhưng cũng có người
thiu thiu.
Xuống núi, chúng tôi đi ăn trưa. Dùng bữa trưa
xong, chúng tôi viếng tháp Xá Lợi tại Phú Sĩ và chùa Diệu Pháp thờ Ngài
Nhật Liên thánh nhân và chỉ niệm có một câu "Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa
kinh". Cổng tam quan cao, xây bằng xi măng sơn trắng uốn éo nhiều hình
vòng cung, phù điêu chạm trổ nổi. Hai bên cột viết hai hàng chữ " Phú Sĩ
Xá Lợi tháp" và " Diệu Pháp tự" màu đen, đứng uy nguy trên cao, nổi bật
trên màu xanh của cỏ, cây, lá ...bên cạnh có một tấm bảng khác ghi "Công
viên hoà bình". Tháp nằm trên một khu đất cao như đồi núi, đường đi vào
trải sỏi trắng, hai bên có hai hàng trụ đèn bằng đá, mỗi chiếc đều khắc
tên các vị Phật, Bồ Tát và A La hán. Vườn có nhiều cây màu sắc khác nhau
như cam, vàng, trắng, xanh lá cây, lá mạ. Những chiếc lá này được tỉa
thành từng cụm tròn rất mỹ thuật theo lối thiền tông, quanh vườn có những
tảng đá xám quanh bờ hồ, ngọn suối, lối đi trải sỏi trắng, có nhiều tháp
nhỏ dựng rải rác. Tháp hình bán cầu, cao, màu trắng, trên đỉnh tháp có một
tháp nhỏ cao vút chứa xá lợi Phật Thích Ca. Bốn phía đều có tượng ngài ở
bốn nơi chính từ khi ngài sinh ra cho đến khi nhập diệt, tượng thếp vàng
óng ả. Mưa to quá nên Thầy hối ra xe để còn đi ngắm cảnh hồ Ashimoko. Như
có một sức hấp dẫn, tôi chạy nhanh xuống chùa Diệu Pháp lạy Phật, chánh
điện nhỏ nhưng thật trang nghiêm, thanh tịnh làm tôi không muốn lui gót.
Chánh điện thờ đức Bổn Sư vànhiều Bồ Tát, có cả hình chư Tổ. Bốn bên có
bốn thiên vương, tất cả thếp vàng. Sau đó, tôi làm lễ tắm Phật ở trước
cửa chùa bằng cách múc một gáo nước, rồi chân thành, kính cẩn niệm phật
rồi đọc kệ tắm Phật khi xối lên tượng thái tử Tất Ðạt Ða vừa đản sinh.
Trời vẫn mưa đều khi đến trạm xe treo Hakone
Komagatake để lên núi ngắm cảnh. Ðỉnh này là nơi lý tưởng để ngắm toàn
cảnh nơi đây như núi Phú Sĩ, Sagani, vịnh Suruga và bảy ngọn đảo Izu.
Ðứng bên cạnh, Thầy ân cần hỏi nhỏ tôi:"Con có sợ không ?". Tôi hỏi
lại:"Sợ gì cơ ạ?". Thầy:"Sợ đi xe treo?". Tôi trả lời Thầy:"Dạ không, còn
Thầy ạ?", Thầy:"hưưư`mm". Bản tính nghịch ngợm của tôi lại nổi lên, tôi
trêu Thầy:"Nếu xe có rớt xuống vực thẳm, con sẽ nắm ngay áo Thầy mà theo
Thầy về cõi Tịnh Ðộ, lo gì ạ, đời người, ai cũng chỉ có một lần đó thôi".
Thầy nghiêm nghị quở:"Aên nói tầm xàm, bá láp, niệm Phật đi con". Tôi chợt
thương thầy quá đỗi vì Thầy sợ mà buộc lòng phải đi. Lên núi mưa và lạnh
quá nên lại rút vào hàng quán ... uống trà cho ấm lòng ....
Lên núi rồi thì phải xuống hồ bằng chiếc du
thuyền trôi lặng lẽ trên mặt hồ Ashimoko đen kịt dưới trời mưa lất phất,
sương mù dày đặc, mây trôi lờ lững, đồi núi đượm một màu xám ngắt trông
thật hãi hùng giữa thiên nhiên, thế mà trên mặt hồ, có nhiều chiếc thuyền
nhỏ, thuyền thúng của ngư phủ vẫn êm ả lướt sóng . Trên đường về đến khách
sạn, thành phố đã lên đèn, chúng tôi được đi xem tháp Tokyo vào ban đêm,
đèn pha rọi lên làm tháp đỏ rực như một ánh đuốc, Thầy chỉ thêm cho tôi
những nơi quan trọng để thu ảnh ....
Ngày thứ ba, đi Nikko (Nhật Quang), trời còn mưa
lớn hơn hôm trước, lần nào tôi đi hành hương với Thầy cũng mưa to như thế.
Nơi đây là một cao nguyên, phong cảnh đẹp. Trước tiên, đi viếng thăm chùa
Kotoshogu (Ðại Luân Vương), chùa rộng, có hai mái màu xám đậm, tường sơn
màu đỏ cam, xung quanh có bao lơn bao bọc sơn cùng màu. Trước cửa chánh
điện có một lầu chuông lớn. Vườn thật lớn trồng nhiều cây cao có lá đủ màu,
có hồ nước với chiếc cầu bắc ngang và nhiều ngọn tháp nằm khắp nơi. Tôi
mãi mê thu hình nên trễ giờ vào chánh điện lễ Phật, thế màThầy vẫn kín đáo
chờ tôi bên ngoài vì sợ tôi lạc. Mưa to quá nên ai cũng ngán đi, tuy nhiên,
chúng tôi cũng phải đi cho đủ chỗ theo chương trình. Rời chùa, đi thăm
đền thờ Tokugawa và những nơi khác trong đền. Nơi đây rộng mênh mông đi
mấy ngày cũng chưa hết. Hầu hết đền đài sơn màu cam, mái màu xám đậm, gần
như đen, dưới mái có phù điêu tạc nhiều hình tượng thếp vàng, ba màu tương
phản nổi bật trên nền đá xám, cạnh những cây cổ thụ ngàn năm cành lá xanh
mướt, thân nâu gụ. Còn lại nhiều đền đài đặc biệt toàn bằng gỗ quí từ mái
ngói đến tường vách lên nước bóng loáng. Ðiểm đáng chú ý là phù điêu chạm
hình ba con khỉ, một bịt hai mắt, một bịt hai tai và một bịt miệng bằng cả
hai tay. Thầy giảng đó là một công án thiền của người Nhật, nên họ ít nói
cũng vì thế. Ít nói để biết canh giữ tai, miệng, mắt, đừng để chúng buông
lung, thất niệm hầu mang phiền não vào tâm. Những đền thờ này xem như
những nơi thiêng liêng, đặc thù tính cách thần giáo Nhật Bổn như thờ thần
Nantai ở núi Nantai, vẫn còn lưu truyền, hành đạo đến nay.
Rời đền thờ, chúng tôi đi ăn trưa tại khách sạn
Nikko rồi thăm thác Long Ðầu. Nơi đây, đặc biệt có những cây trúc, thấp bé,
mọc dài dài theo triền tháp, mùa đông trở nên vàng úa nên được gọi là cỏ
trúc. Thác này uốn khúc giống như đầu một con rồng nên có tên này. Chúng
tôi đi thăm từ trên cao xuống rồi ra xe xe cho đỡ mỏi chân. Thác thứ hai
có tên là Hoa Nghiêm. Thác chảy từ một hồ nước trên núi Nantai. Thác cao
đến 300 m, chúng tôi phải đi xuống đến 100 m để ngắm thác. Thác thật to,
nước đổ ồ ạt từ trên cao xuống, sủi bọt trắng xoá, rải rác trên sườn núi
đen tuyền, còn sót lại nhiều cụm tuyết trắng như bông. Sườn núi bị nước
bào mòn từng bậc, trơ trọi, nhẵn thín đến tang thương, tôi nhớ đến
câu:"Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ" . Thỉnh
thoảng, tôi lại bị vài tia nước bắn tung toé vào mặt, lạnh buốt, phong
cảnh hùng vĩ quá làm người xem hơi sợ, vì nhìn lên không thấy núi, nhìn
xuống vực thẳâm sâu hun hút, đang mải mê thu ảnh thì Thầy gọi tôi vào
trong vì trời chợt đổ mưa và Thầy sợ tôi ngã chúi xuống vực khi thu ảnh
thì nguy...
Lên đến mặt đường, Thầy đề nghị vào quán uống ly
trà cho ấm, chúng tôi đồng ý, có vị đói bụng, còn mua cả thức ăn dùng luôn,
cơm trắng ở đây rất đắt. Ơû Nhật, tiệm trà có khắp nơi như quán cà phê ở
Việt Nam.
Về đến thành phố, bọn trẻ chúng tôi xin phép
Thầy cho chúng tôi xuống phố. Ðó là một khu phố bán toàn đồ điện, đèn thắp
sáng rực, chớp chớp đủ màu sắc đến hoa cả mắt. Ðói bụng, đi tìm quán ăn
không ra vì người Nhật ít ai nói tiếng Anh. Chúng tôi đành đi ăn mì 'nhà
ga' vậy, một quán mì không cần "truyền đạt ngôn ngữ". Chúng tôi chỉ đến
một cái máy bán hàng, nhìn vào hình chụp, thấy tô mì nào hấp dẫn nhất thì
chọn, bỏ tiền vào máy, nhấn nút lấy phiếu, và tiền thối nếu bỏ dư. Mang
phiếu ra quày đưa cho đầu bếp, đứng chờ, đầu bếp nấu xong đưa tô mì ra cho
mình, thế là xong. Nước uống ư ? Có cả bình nước suối miễn phí. Thế mà lại
ngon, rẻ, tiện lợi. Aên xong, cửa hàng cũng đóng vì hôm nay là tối chủ
nhật, họ đóng cửa 8 giờ, chúng tôi đành lủi thủi đón xe điện về.
Sáng thứ hai, phái đoàn đi Kiếm Thương
(Kamakura) tự túc, đây là một ngày lý tưởng nhất vì đi được nhiều chùa,
thế mà ban tổ chức cũng gài vào một mục đi thăm viếng đền thờ Thần Xa.
Ðây là vùng lịch sử nổi tiếng, ngày xưa là thủ phủ như Tokyo. Cảnh đập vào
mắt tôi trước tiên là các vị tăng mặc áo đen, đội nón lá đi chặm rải dọc
theo con lộ chính. Thầy cho biết là các ngài đi khất thực.
Ðầu tiên, đi thăm chùa Kiến Trường (Kencho-ji),
xếp hạng nhất trong năm ngôi thiền tự tại nơi đây, xưa nhất tại Nhật. Chùa
có đến mười ngôi đền phụ như tổng môn, cổng chính, đền chuông, đỗ tùng,
điện Phật, Pháp đường, điện chính, ao chữ tâm, cấm điện, tu viện. Nhưng
không đi hết được vì rộng quá, vườn chùa Nhật dường như có một kiểu tỉa
xén thành những cụm tròn trịa trên cành, hoa Anh Ðào nở khắp nơi. Những
điện thờ làm bằng gỗ, cao hai ba tầng, đồ sộ, lên nước bóng loáng. Hình
tượng đức Ðịa Tạng to lớn, đã loang lổ theo thời gian, chung quang điện
thờ có rất nhiều tượng gỗ nhỏ hơn. Cuối cùng, chúng tôi đến một thiền
đường rộng rãi, khoảng khoát bên trong thờ đức Bổn Sư, ngoài vườn, sân
trải sỏi trắng, có tượng đức Quán Thế Âm, nơi đây trồng nhiều loại hoa
hiếm quí, có màu trắng xen bên cạnh những cành hoa Anh Ðào nở rộ khiến tâm
hồn thật tươi mát, thanh thản, thoát tục.
Viếng chùa Viên Giác trên ngọn đồi, chúng tôi
phải leo từ những bậc thang cao từ lộ dẫn vào. Tên chùa được dựa theo
kinh Viên Giác trong hộp đá được tìm thấy khi đào, xới đất cất chùa. Vườn
chùa để tự nhiên nên tôi không thấy những cụm lá tròn, trồng nhiều nhất là
tre, trúc. Chùa có một hồ lớn nuôi nhiều rùa. Có những điện thờ cất toàn
bằng tre, một điện thờ khác, đặc biệt mái lợp rơm, vẫn được giữ y nguyên
như một báu vật. Toạ lạc giữa nơi yên tĩnh như cảnh bồng lai, dễ đến từ
Tokyo, chùa mang lại an lạc cho du khách. Có nhiều khoá tu thiền mở vào
mùa hạ. Chùa gồm có Cổng chính, đền thờ, tuyển Phật đường, thiền đường cho
cư sĩ, phương trượng, một trăm hình/tượng đức Quán Âm, đền thờ xá lợi răng
Phật, lăng mộ của ngài Tokimune Hojo, động nai trắng, chùa Mai vàng, đền
chuông. Tôi chỉ đi phơn phớt bên ngoài vì bị Thầy hối thúc một bên, nhưng
cũng cố đi để lạy cho bằng được 100 hình tượng đức Quán Thế Âm thật đặc
biệt này mới vui.
Kamakura là thành phố còn nhiều di tích lịch sử,
ngay cả những ngôi nhà, cửa hàng, tiệm ăn vẫn còn giữ nguyên nét thuần túy
Nhật làm du khách mê mẩn. Khu phố chính tại đây, chạy dài theo hai bên
đường, ở giữa có một bãi cỏ chừng hai thước chiều ngang trồng đầy hoa Anh
Ðào, trên mỗi cành Ðào vô số lồng đèn giấy màu đỏ sậm treo lủng lẳng vui
mắt. Cửa hàng bán đủ thứ toạ lạc hai bên đường. Người Nhật có biệt tài về
thủ công, khéo léo biến những tấm giấy thành nhiều thứ khác nhau để bán
cho du khách, các cô bán hàng mặc đủ thứ kiều Kimono thật duyên dáng.
Những khu phố phụ, cây hai bên đường, những chiếc lá đều được tỉa thành
những cụm tròn, xinh xắn nằm gọn trên cành. Buổi ăn trưa cuối cùng bên
nhau, chúng tôi giả làm "vua chúa" để ăn bữa ăn cầu kỳ, "nhẹ bụng". Mỗi
phần thức ăn đựng trong 1 hộp sơn mài như hộp đựng nữ trang đồ cưới, một
bát súp miso lỏng le, lơ thơ vài cọng rong biển. Bên trong thức ăn toàn là
bột, đậu phụ và bột được biến chế thành những thứ hoa lá màu sắc rực rở.
Ðẹp nhưng không ngon, thiếu cơm nên ăn còn đói. Ngồi trên 1 chiếc gối xẹp,
vuông vức, bàn thấp chủm, toàn phòng ăn đều trải chiếu. Thầy dạy chúng
tôi ăn thật chậm, nhai cho kỹ để thưởng thức, nhưng cả đoàn đều bị khu phố
chính quyến rũ để mua quà hơn là ngồi đây nhâm nhi từng món một, chúng tôi
không có cung cách làm vua chúa ở cuối thế kỷ 20 nên ăn nhanh, rút gọn.
Thần Xã cũng giống như đình làng vậy thuộc về
Thần Ðạo thờ nhiều vị Thần khác nhau. Chiếm một khu đất khá rộng, trồng
nhiều hoa Anh Ðào, có cầu bắc ngang hồ in bóng liễu rủ, có những bụi tre,
bụi trúc, thỉnh thoảng lại thấy những tờ giấy trắng viết chữ đen bay phất
trới trên dây treo trên hai cành cây như những lá cờ nhỏ. Toàn bộ đền đài
ở Thần Xã gần như sơn màu đỏ cam, kể cả những chiếc cầu. Nơi đây nói lên
một phần văn hoá Nhật, giống như một ngôi làng có nhiều đền với những kiến
trúc khác nhau qua từng triều đại. Từ những hàng rào đan bằng tre, đến
bằng cây tươi ... Ðạc biệt nơi đây có cây Ða cổ, thật to đến độ rễ bện
thành dây thừng rủ xuống làm phương tiện cho bày khỉ đánh đu, vì hang khỉ
nằm ngay trên thân Ða. Trên đồi, nhìn xuống là khu thương mại của thành
phố, nơi đây có rất nhiều đền đài. Trong một đền có tượng đức Quán Thế Âm
cao 19 m tạc bằng gỗ Long não, một đền khác trưng bày những chiếc kiệu vẫn
còn lộng lẫy của các vị Vua, các Sứ Quân thời xưa. Sau đó, tôi vào nghỉ
chân ở một nhà uống trà, trà cho miễn phí, các cô gái Nhật tóc bới cao,
duyên dáng trong chiếc áo Kimono, mang guốc, đi thật chậm rải, khoan thai
bưng trà.
Ði thăm chùa Trường Cốc Quan Âm trên đồi cao xoa
dịu hẳn những mệt nhọc và hơi nóng ở Thần Xã. Kiến trúc mới, cổng tam
quan bằng gỗ, bên ngoài có thờ hai vị Bồ Tát Quán Âm và Ðịa Tạng, vườn
cảnh chùa trang trí phong nhã, trồng nhiều cây có lá màu khác nhau, hồ có
hòn non bộ, tháp, đá quí, cây cảnh, nước dẫn đến bằng những ống tre lớn.
Chùa có vô số tháp nhỏ ở mọi nơi, còn có một hang động ở dưới đất. Lên dần
trên núi được đục đẻo thành những bậc thang xinh xắn dẫn lên chánh điện
chính. Dọc theo những bậc thang, ngừng lại giữa đường có hằng hà sa số
tượng đức Ðịa Tạng nhỏ đứng từng hàng, và một tượng lớn đứng trên. Ngoài
ra, còn có một điện thờ Ngài, tượng nhỏ, thếp vàng, một tay cầm châu sáng
(tròn vìn), một tay cầm tích trượng (để dộng tan cửa ngục). Ðến lưng chừng
đồi là khoảnh sân rộng, nhìn xuống cả thành phố Kamakura. Nơi đây có nhiều
điện nhỏ, một gác chuông, bên ngoài, trồng nhiều loại cây tùng, bách, lá
tỉa xén tròn trịa, ghọn ghẽ như những nơi khác, cạnh những cây Anh Ðào
đang nở rộ. Hai màu tươi và sậm tương phản nhau cho tôi một ý niệm về sống
và chết của một đời người. Tôi đi qua những điện thờ đức Quán Thế Âm, Ðịa
Tạng Vương, Tứ Thiên Vương, một điện khác hơi lạ, như bảo tàng viện, chính
giữa có chùa một cột, xung quanh bày tủ kính chứa những tượng phật cổ, tạc
bằng gỗ quí, kiến trúc mới, tường trắng, mái đen.
Rời chùa còn sớm, chúng tôi đi thăm tượng Phật A
Di Ðà lớn (Daibutsu), nổi tiếng nhất thế giơí vào nhiều thế kỷ qua. Cổng
vào có thờ hai vị bồ tát Quán Thế Âm, Ðịa Tạng Vương, cảnh vườn thật tươm
tất với nhiều cây tùng bách được cắt tỉa công phu. Vào sâu bên trong, nằm
giữa vườn, tượng được an vị trên một nền đất cao, có nhiều bậc thang, bốn
bề trồng nhiều cây kiểng, không thiếu hoa Anh Ðào. Theo tôi thấy thì tượng
này hơi buồn vì gương mặt ủ rũ ngó xuống trong tư thế ngồi thiền, có lẽ vì
trải qua bao phong sương tuế nguyệt. Tượng bằng đồng, màu xanh, loang lổ
vì dãi dầu mưa nắng nhiều thế kỷ. Cao 30 m, nặng đến 121 tấn, được đúc vào
năm 1252 bởi hai điêu khắc sư Ono-Goroemon và Tanji-Hisatomo. Tượng rỗng
ruột nên du khách vào được bên trong. Tôi không đồng ý là cho du khách leo
lên cao đến đầu đức Phật vì lòng tôn kính thì chợt nghe Thầy dặn:"Tụi con
vào trong thôi nhé, đừng leo lên cao", tôi giật mình. Bên trong, tối om,
chẳng có gì cả, đường đi lên được ngăn lại ...tốt, tốt, tốt thật ... Nhìn
tượng Phật, tôi chợt thấy mình có phước duyên lớn để đến đây chiêm bái
bằng mắt thịt. Ngày xưakhi còn bé ở quê nhà, tôi đã thấy Ngài và núi Phú
Sĩ qua những tấm lịch in Phong cảnh Nhật. Chưa bao giơ dám mơ ước được
thấy Ngài qua hiện thực. Thế rồi gần hơn nữa, tôi được thấy Ngài qua tấm
"postal card" của cậu tôi gửi về Việt Nam khi sang Nhật tu nghiệp. Chỉ có
thế thôi, mà nay mộng ước đã đạt thành sự thật nhờ Thầy An Thiên. Bước đến
gần Thầy, tôi ấp úng thưa gửi:"Kính bạch, nhờ có Thầy mà con được thấy
chân dùng Ngài, được đảnh lễ Ngài ngay tại đây ...Con xin cám ơn Thầy đã
đưa con đi đến nơi này". Thầy ngơ ngác, không hiểu sao tôi lại trịnh trọng
nói như thế, nên vội quay đi mà trả lời:"Có gì đâu Con, Con đi đây là cũng
giúp cho Thầy mà". Tôi biết Thầy không hiểu tâm tư tôi lúc ấy đâu, tôi
cũng không cần giải thích để làm gì. Daibutsu làm cho dân Nhật hãnh diện
một thời gian khá lâu như pho tượng lớn nhất thế giới này, tôi thấy là
tượng đẹp nhất vì nét cổ.
Tối hôm ấy, về đến Tokyo, tôi và những vị Phật
tử khác đi ăn tối với Thầy ở một quán ăn bình dân do Thầy đưa đến. Ðược
ngồi chung bàn với Thầy nhưng tôi sợ vô lễ nên "tẩu vi thượng sách". Thầy
không vui, mệt nên về nghỉ sớm.
Ngày cuối tại đây, Thầy có ý định đưa đi thăm
một ngôi chùa nữa, tôi cũng muốn thế, nhưng hầu hết đều muốn đi mua sắm
tại các cửa hàng nên Thầy chiều ý. Chúng tôi theo Thầy đi thăm khu
Akihabana Electric Town bằng xe điện. Nơi đây bán đủ thứ hàng, nhưng hàng
chính vẫn là đồ điện đủ thứ từ to đến nhỏ. Nơi đây tấp nập du khách lẫn
người địa phương, cửa hàng nào cũng đến ba bốn từng lầu đầy hàng hoá. Khí
hậu thì nóng, đầy bụi bặm và khói xe, người đi tấp nập nên tôi bắt chóng
mặt, hoa mắt, chẳng mua bán gì được, chỉ đi tìm chỗ nghỉ chân liên tục.
Thầy thấy tôi bết quá nên cười từ bi mà an ủi:"Con mệt rồi hả? Sao dở vậy?
Thôi ráng chút xíu nữa rồi về khách sạn nghỉ nha con".
Về đến
khách sạn, Thầy đưa chúng tôi lên xe ra phi trường, Thầy không đi với
chúng tôi vì có công việc chiều nay. Ở phi trường cả một buổi chiều, chờ
mãi đến khuya, chúng tôi mới lên phi cơ về lại Uùc. Ai nấy đều tiếc nuối
không gia hạn được vé máy bay ở thêm vài ngày như tôi đã dự định trước với
Thầy nhưng cũng không thành tựu theo ước muốn vì "nhân duyên chỉ có chừng
ấy".
Cảnh cũ
còn đấy, người xưa đâu rồi? Tôi vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây lời Thầy
An Thiên kết luận trên đường xuống núi Phú Sĩ: "Vô thường bị chi phối chỉ
có với những người không biết tu hành và không có với những người từ tâm,
niệm thanh tịnh, làm điều lợi ích cho người và cho mình. Cho dù thân xác
này có tan rã, vô thường, trở về vạn vật, nhưng tâm linh chúng ta, giá trị
vĩnh cửu vẫn còn mãi như ngài Vạn Hạnh Thiền Sư, Lý Công Uẩn, Tuệ Trung
Thượng Sỹ, Pháp Thuận thiền sư ... là những vị vẫn còn sống mãi trong mỗi
chúng ta."
Thế thì
Thầy vẫn còn sống mãi trong tâm tôi. Vì Thầy có cả một đời sống tu hành
đạo đức, thế thì Thầy sẽ không bao giờ bị luật vô thường chi phối nữa đâu.
Mùa
Vu Lan 2002
---
o0o
---
|
Mục lục Tác giả
|
--- o0o ---
Trình
bày:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày: 01-08-2002