Cố đô Huế nổi tiếng về danh lam
và cổ tự. Đó cũng là nét đặc thù góp phần tạo nên bản
sắc, truyền thống phong phú về văn hóa-lịch sử tại nơi này. Câu
chuyện đầy cảm động về đạo hiếu thờ mẹ của hai nhân vật lịch
sử. Thiền sinh Nhất Định và vua Tự Đức triều Nguyễn, đã tạo
duyên lành đồng cảm, để lại danh thơm lưu truyền cho ngôi chùa Từ
Hiếu. Chính Tự Đức đích thân trân trọng ban cho chùa "Sắc tứ
Từ Hiếu tự".
Khởi đầu địa danh ấy, xa xưa chỉ
là một mái tranh đạm bạc vô cùng, cỏ cây hoang dã. Thiền sư Nhất
Định từ xứ khác tìm qua, dựng lên nơi ẩn cư tu tập, gọi là An
Dưỡng am. Tại sao có chữ Dưỡng ? Nguyên do, vị cao tăng có mẹ
đã già, không nỡ bỏ mẹ mà đi tu, để người trơ trọi một mình.
Cho nên khi đến đây, thấy sơn thủy thanh cao rất thanh tịnh cho sự ẩn
cư, Ngài liền về cõng mẹ, lặn lội lập am nương náu. Tại đây,
vừa tu hành, tìm đạo giải thoát, kinh kệ hàng ngày, Ngài vừa rau
cháo qua ngày, nuôi dưỡng, săn sóc thân mẫu vốn rất thường đau
yếu. Bởi thế mới có chữ "Dưỡng" trong tên An Dưỡng am
của Ngài lúc đó. Chuyện ấy bắt đầu vào năm 1843, thời triều
Nguyễn, vua Thiệu Trị (1841-1847). Qua đến triều Tự Đức (1848-1883),
gặp lúc ngày kia, mẹ Người lâm trọng bệnh vì thiếu thốn, kham khổ
trong cảnh sống chung với con đang là bậc tu hành. Ngài tìm y sư cứu
chữa, được khuyên rằng cần phải bồi bổ cho bệnh nhân bằng thịt
hoặc cá mới được thuyên giảm. Thế là Ngài liền chống gậy tìm
xuống chợ (Bến Ngự ngày nay) mua được cá chết, treo trên đầu
trượng trúc, đem về am thổi cháo hầu thân mẫu, mới qua được
cơn hiểm nghèo, lần hồi bệnh thuyên giảm...
Cũng vì xuống chợ mua cá mà bị
đời dị nghị thành mang tiếng này nọ. Người không biết nguyên
nhân, cứ mặc tình mai mỉa : Ngài vẫn chẳng lưu tâm, một lòng nuôi
mẹ cho lành. Hàng ngày hái củi, nhóm bếp, tự mình chăm sóc hầu
hạ. Lâu ngày, chuyện lạ đến tay vua Tự Đức, vua sai người theo
dõi, tìm hiểu sự thực hư ra sao. Lúc bấy giờ, tuy am ở ngoại kinh
thành chẳng bao xa, thế nhưng còn hoang vu tịch mịch, chưa được biết
đến nhiều như về sau. Vua Tự Đức lại là một người thờ mẫu
hậu Từ Dũ rất hiếu đạo, rất hiếm có xưa nay. Vì thế, sau khi tỏ
tường câu chuyện, vua vô cùng cảm động, lập tức cho tu bổ cảnh
chùa, đồng thời đích thân ban biển ngự đề "Sắc tứ Từ
Hiếu tự". Kể từ đó, An Dưỡng am trở thành chùa Từ Hiếu,
lưu danh đến ngày nay.
Lại nói về vua Tự Đức, người
đã sắc phong cho hai chữ Từ-Hiếu, đó là vị vua hiếu đạo bậc
nhất trong 13 vị hoàng đế triều Nguyễn. Mẫu hậu là bà Từ Dũ
được vua săn sóc, tôn kính, vâng lời hết mực. Bà truyền bảo
điều gì đáng lưu tâm, vua liền ghi ngay vào sách tùy thân mà
nghiền ngẫm, gọi là "Từ huấn lục" (sách chép lời mẹ
dạy). Trải qua suốt 36 năm chấp chính ngai vàng, Tự Đức bao giờ
cũng dành ngày chẵn vào cung vấn an sức khỏe mẹ, ngày lẻ thì lo
việc triều nghi, chẳng vì ngồi trên chỗ vạn năng quyền thế mà lơ
là phận làm con. Không những thế, có gì lo âu, vua liền thỉnh ý
để được nghe lời dạy bảo. Chính vì thế, bà đã từng đề nghị
giảm thuế má cho dân vào những khi gặp thiên tai, mất mùa, đói
kém, nhà vua đều làm theo ý mẹ. Có lần, ngày mai là đến kỳ giỗ
k?tiên đế Thiệu Trị, thế mà hôm ấy nhà vua ham săn bắn, gặp
nước lụt chảy mạnh bất ngờ, quan quân chưa dám dong thuyền hồi
cung, phải mắc kẹt chốn ngoại thành rừng Thuận Trực. Bà Từ Dũ
sai quan Nguyễn Tri Phương đi rước, khi vào cung, vua biết lỗi, dâng roi,
nằm xuống chờ quở phạt. Bà giận, quay mặt chẳng nói, sau mới tha
cho hình phạt, chỉ trách dạy bằng lời mà thôi. Xem thế, đủ biết
vua Tự Đức thờ mẹ rất chí hiếu.
Bởi thế mà vua cảm phục đạo hạnh
của Thiền sư Nhất Định vô cùng. Đó là bậc cao tăng không những
đã có "Từ tâm", lại còn nặng lòng với "Hiếu
đạo", một kẻ đã nhập đạo nhưng vẫn tròn đời. Thiền sư
đã không quản ngại tiểu tiết, chẳng vì cái danh tướng hư huyễn
của đời mà câu chấp, quên đi đạo làm con bên mẹ. Ngài chỉ
biết lấy cái tâm Phật soi lòng, chẳng hề đắn đo ngã tướng, khen
chê. Nếu không phải là Tự Đức, người biết coi trọng chữ
hiếu, thì cái duyên để lại hai chữ Từ Hiếu kia cho đời sau học
hỏi chắc ít phần quảng bá, sâu rộng giữa đời thường như hôm
nay. Kinh Phật dạy có chữ "duyên" thật là sâu sắc.
Ngày nay, chùa Từ Hiếu qua nhiều
tuế nguyệt, đã được trùng tu lại nhiều lần. Hình ảnh chiếc am
cỏ hoang dã cùng với bóng cao tăng hái củi ven đồi... hình ảnh
khói lam chiều, ánh lửa bập bùng của người con bên bếp nhỏ ngày
xưa... không còn nữa. Thế nhưng, ý nghĩa và đạo vị ngọt ngài hai
chữ "Từ Hiếu" không phai nhòa, còn mãi giữa đất trời
xứ Huế. Khách thập phương bước vào cổng chùa, nhất là trong
những mùa Báo Hiếu Vu Lan, càng bồi hồi cảm xúc câu chuyện kể
bậc Thiền sư cõng mẹ... Huế nay đã trở thành di sản văn hóa thế
giới, có những du khách nước ngoài đến Từ Hiếu tự, khi
được phiên dịch lại lịch sử ấy, từng có người quay lưng đi,
đưa khăn lên mắt. Dù cách biệt Đông-Tây, cũng vẫn hiểu : đang
gợi nhớ đến mẹ hiền, và họ chính là người bất hạnh...
Huế, mùa Vu Lan 97
---
o0o
---
|
Mục lục Tác giả
|
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh
Trình
bày:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày: 01-08-2002