"Ngày xửa ngày xưa có một ông vua"
Khi chúng ta còn thơ ấu, không cần
phải biết ông vua trong câu chuyện thần tiên đó là ai.
Cũng không cần phải biết vị vua tên gọi là Shiladitya
hay Shaliban, ông ta sống ở Kashi hay Kanauj. Cái điều
làm cho trái tim của một cậu bé lên bảy đập rộn rã, rộn
rã với niềm hân hoan, là một chân lý tối thượng, một sự
thật trong tất cả những sự thật: "Ngày xưa có một ông
vua".
Nhưng độc giả thời hiện đại này thì
ngày càng đòi hỏi sự chính xác. Khi họ nghe một lời dẫn
nhập câu chuyện như vậy, ngay lập tức họ có ý dè bĩu và
nghi ngờ. Họ dùng ngọn đèn pha của khoa học soi vào
truyền thuyết mờ ảo ấy và hỏi ngay: "Vị vua nào?"
Những người dẫn chuyện đành phải trở
nên chi li hơn. Họ không còn hài lòng với kiểu mập mờ cũ
"Có một ông vua" nữa, mà làm ra vẻ sâu sắc nghiêm trọng
và bắt đầu: Có một ông vua tên là Ajatasatru"
Tuy nhiên tính tò mò của độc giả
không dễ gì được thỏa mãn. Anh ta nháy mắt với tác giả
sau cặp mắt kiếng khoa học và hỏi lại lần nữa: "Ajatasatru
nào?"
"Mọi cậu bé đều biết", tác giả tiếp
tục, "rằng có nhiều Ajatasatru. Người đầu tiên sinh ra
vào thế kỷ 20 trước công nguyên, và chết yểu ở khi mới
được hai năm tám tháng tuổi. Tôi rất tiếc rằng không thể
tìm thấy từ bất kỳ một nguồn gốc xác đáng nào một hồ sơ
chi tiết về vương triều của vị này. Ajatasatrus thứ hai
được các sử gia biết khá rõ. Nếu bạn tham khảo Bách khoa
Thư về Lịch sử bản mới…"
Vào lúc này những mối nghi ngờ của
độc giả thời hiện đại đã tan biến. Anh ta cảm thấy có
thể an tâm tin tưởng vào tác giả. Anh tự nói với mình:
"Giờ đây chúng ta sẽ có một câu chuyện mang cả hai tính
cách tân và tư liệu"
A! Tất cả chúng ta đều thích bị lừa
dối làm sao. Chúng ta có một nỗi sợ hãi bí mật đó là bị
cho là ngu dốt. Và rốt cuộc chúng ta kết thúc nỗi sợ hãi
đó cũng bằng sự vô minh, chỉ có điều là chúng ta đã thực
hiện điều này theo một con đường dài và lòng vòng.
Có một ngạn ngữ Anh: "Đừng hỏi tôi
điều gì, tôi sẽ không nói dối bạn". Đứa trẻ lên bảy đang
lắng nghe câu chuyện thần tiên tuyệt đối chăm chú; cậu
bé nén những câu hỏi của mình lại trong khi câu chuyện
đang được kể. Vì vậy những sự lừa dối nguyên sơ và vén
khéo vẫn còn trần trụi và ngây thơ như một đứa bé; minh
bạch như chân lý, trong sáng như những bóng bọt. Nhưng
những lời dối trá nặng nề và thông thái của những con
người hiện đại chúng ta đã khoác lên sự thật những rèm
che trướng phủ. Và nếu có khám phá ở bất kỳ nơi nào một
lổ thủng nhỏ bé nhất của sự lừa dối, độc giả sẽ quay
ngoắt đi với một thái độ phẫn nộ kiểu cách, còn tác giả
sẽ bị mất uy tín.
Khi chúng ta còn trẻ, chúng ta cảm
nhận được tất cả những điều thuần khiết; và chúng ta có
thể khám phá những tinh túy này trong một câu chuyện
thần tiên bằng một thứ khoa học chính xác của riêng
chúng ta. Chúng ta chẳng bao giờ quan tâm đến những điều
vô dụng của kiến thức như vậy. Chúng ta chỉ quan tâm đến
lẽ phải. Và những trái tim non nớt của chúng ta biết rõ
Cung Điện Chân Lý bằng Pha Lê nằm ở đâu và đi đến đó
bằng cách nào. Nhưng ngày nay chúng ta chờ đợi những
trang giấy với những thông tin thực tế, trong khi chân
lý chỉ đơn giản là thế này:
"Có một ông vua"
Tôi nhớ rất rõ cái buổi chiều ở
Calcutta khi câu chuyện thần tiên ấy bắt đầu. Mưa bão
không ngớt. Toàn bộ thành phố bị ngập lụt. Trong đường
hẽm nước ngập đến đầu gối. Tôi tràn trề hy vọng, gần như
tin chắc rằng gia sư của tôi sẽ không đến được chiều hôm
đó. Tôi ngồi trên chiếc ghế trong một góc của hàng hiên
và nhìn xuống con đường, với trái tim càng lúc càng rộn
ràng. Từng phút chăm chú nhìn ra mưa, và khi mưa bắt đầu
dịu hơn tôi cầu nguyện bằng tất cả sức lực: Lạy trời,
hãy mưa nữa cho qua bảy giờ rưỡi". Bởi vì tôi sẵn lòng
tin rằng mưa chẳng cần thiết cho điều gì khác ngoài việc
bảo vệ một đứa bé yếu đuối trong một góc ở Calcutta
thoát khỏi những khắc nghiệt cực kỳ của vị gia sư , một
buổi tối. Nếu không vì để đáp lại lời nguyện cầu của
tôi, dù sao đi nữa thì cũng thuận theo những luật lệ của
thiên nhiên, mưa vẫn không ngừng.
Nhưng, lạy thánh A La! Không phải gia
sư của tôi đó chứ.
Chính xác đến từng phút, tại góc cua
của con hẽm, tôi thấy cái dù của ông đang đến gần. Cái
bong bóng vĩ đại của niềm hy vọng vỡ tan trong lòng tôi,
trái tim tôi tan nát. Đích thực, nếu có sự trừng phạt
tội lỗi sau khi chết, thì gia sư của tôi sẽ tái sinh
thành tôi và tôi sẽ tái sinh thành gia sư của tôi.
Ngay khi tôi thấy chiếc dù của ông,
tôi chạy ào vào phòng mẹ tôi. Mẹ và bà ngoại đang ngồi
đối diện nhau đánh bài dưới ánh sáng một ngọn đèn. Tôi
chạy vào phòng ném mình lên giường bên cạnh mẹ tôi và
nói:
"Mẹ ơi, gia sư đến, mà con nhức đầu
quá; Con không thể nghỉ học ngày hôm nay sao mẹ?"
Tôi hy vọng không một đứa trẻ nào ở
tuổi non nớt được phép đọc câu chuyện này, và tôi thành
tâm mong muốn câu chuyện này không được sử dụng trong
sách giáo khoa hoặc sách vỡ lòng trong các trường học.
Bởi vì điều tôi đã làm thật là quá tồi tệ, và dù vậy tôi
cũng không nhận một sự trừng phạt nào. Ngược lại, cái
tính tai quái của tôi lại được tưởng thưởng một cách
xứng đáng.
Mẹ nói với tôi: "Được rồi", và quay
sang người hầu và nói: "Hãy bảo với gia sư là có thể về
nhà".
Thật vô cùng dễ hiểu rằng mẹ không hề
nghĩ tôi ốm nghiêm trọng khi mẹ tiếp tục chơi bài như
trước và không chú ý gì thêm. Và tôi cũng vùi đầu vào
trong gối, cưỡi với trái tim mãn nguyện. Mẹ tôi và tôi
hiểu nhau rất rõ.
Nhưng ai cũng biết thật khó làm sao
khi một đứa trẻ bảy tuổi phải giả vờ ốm trong một thời
gian dài. Khoảng sau một phút, tôi túm lấy bà và nói:
"Bà ơi, kể cháu nghe một câu chuyện đi".
Tôi phải yêu cầu nhiều lần. Bà và mẹ
cứ tiếp tục chơi bài và không để ý gì. Cuối cùng Mẹ nói
với tôi: "Nhóc con, đừng quấy rầy. Đợi đến khi chơi xong
đã". Nhưng tôi cứ nài nỉ: "Bà ơi, kể cho cháu nghe một
câu chuyện đi". Tôi bảo mẹ có thể chơi tiếp vào ngày
mai, nhưng mẹ phải để bà kể tôi nghe một câu chuyện ngay
lúc ấy.
Cuối cùng mẹ ném những quân bài xuống
và nói: "Tốt hơn là mẹ nên chiều theo ý nó. Con không
thể nào quản được nó". Có lẽ trong đầu mẹ lúc đó là mẹ
sẽ không phải kèm cặp mệt nhọc vào ngày mai, còn tôi
buộc sẽ phải trở về với những bài học ngốc nghếch kia.
Ngay khi mẹ đồng ý, tôi chạy ngay đến
bà. Tôi nắm lấy tay bà, hân hoan nhảy múa, kéo bà vào
trong mùng. Tôi vồ lấy chiếc gối trong sự cuồng nhiệt,
nhảy lên nhảy xuống trong thích thú, rồi tôi trầm tĩnh
hơn một chút và nói: "Kể đi bà, kể một câu chuyện đi
bà!"
Bà tiếp tục: "Và nhà vua có một hoàng
hậu". Thật là hay khi bắt đầu như thế. Vị vua chỉ có duy
nhất một hoàng hậu.
Thường thường thì những vị vua trong
các chuyện thần tiên có rất nhiều hoàng hậu. Và bất cứ
khi nào chúng ta nghe nói đến có hai người vợ là trái
tim ta đã bắt đầu trĩu xuống. Chắc chắn sẽ có một người
gặp bất hạnh. Nhưng trong câu chuyện của bà thì mối nguy
hiểm đó đã qua. Nhà vua chỉ có một hoàng hậu. Tiếp theo
đó chúng ta nghe rằng nhà vua không có con trai. Lúc bảy
tuổi, tôi đã không nghĩ rằng có điều gì phiền hà đối với
một người đàn ông không có con trai. Vị vua chỉ có một
trở ngại duy nhất đó.
Chúng ta không hăm hở lắm khi nghe
rằng nhà vua đã ra đi vào rừng để hành xác mong cầu một
đứa con trai. Duy chỉ có một điều có thể làm cho tôi
phải đi vào rừng sâu đó là trốn chạy khỏi vị gia sư!
Nhưng nhà vua đã để lại hoàng hậu và
đứa con gái nhỏ, một người sau đó sẽ lớn lên thành một
công chúa xinh đẹp.
Mười hai năm trôi qua, nhà vua vẫn
tiếp tục sống đời khổ hạnh, và không bao giờ nghĩ gì về
đứa con gái xinh đẹp của mình. Công chúa đã đến lứa tuổi
thanh xuân rực rỡ của nàng. Còn hoàng hậu thì héo hon
trong nỗi buồn và than khóc: "Con gái ngọc ngà của ta sẽ
phải chết già mà không ai đến rước ư? Ôi chao, số phận
của ta mới hẩm hiu làm sao"
Thế rồi hoàng hậu gởi một thơ đồng
đến gặp nhà vua, khẩn khoản hãy ngài trở về một đêm và
dùng một bữa tiệc trong cung điện. Và nhà vua đồng ý.
Hoàng hậu đích thân nấu các món ăn vô cùng kỹ lưỡng, sáu
mươi tư món ăn; đặt nơi ngự tọa bằng gỗ đàn hương; đồ ăn
thức uống được bày trong những đĩa vàng, ly bạc. Công
chúa đứng ở phía sau với chiếc quạt lông công trên tay.
Nhà vua, sau mười hai năm vắng mặt, giờ đây đã về nhà,
và công chúa phe phẩy chiếc quạt, sáng ngời cả căn phòng
với vẻ đẹp rực rỡ của nàng. Nhà vua cứ nhìn mãi khuôn
mặt công chúa và quên cả dùng bữa.
Cuối cùng ngài hỏi hoàng hậu: "Này,
cô gái mỹ miều như pho tượng nữ thần bằng vàng là ai
vậy? Cô gái ấy là con của ai thế?"
Hoàng hậu dập đầu khóc: "Than ôi, số
kiếp tôi mới bất hạnh làm sao! Bệ hạ không biết con gái
của chính mình hay sao?"
Nhà vua giật mình sửng sốt. Cuối cùng
ngài nói: "Con gái nhỏ xíu của ta giờ đã trở thành một
thiếu nữ rồi đó ư"
"Chứ còn gì nữa" Hoàng hậu đáp với
một tiếng thở dài. "Bệ hạ không nhớ rằng mười hai năm đã
trôi qua rồi sao?"
"Nhưng sao nàng không tính chuyện
trăm năm cho nó?" Nhà vua hỏi.
"Bệ hạ đi xa, " Hoàng hậu đáo. "Làm
sao thiếp có thể tìm thấy một người chồng phù hợp cho
nó".
Nhà vua bỗng trở nên vô cùng phấn
khích. Ngài nói: "Người đàn ông đầu tiên ta gặp ngày mai
khi ta rời khỏi cung điện sẽ được cưới công chúa".
Công chúa vẫn tiếp tục phe phẩy chiếc
quạt lông công, và nhà vua cũng dùng xong bữa ngự thiện.
Sáng hôm sau, khi nhà vua ra khỏi
cung điện, ngài thấy con trai của một người Bà la môn
đang nhặt cành khô trong khu rừng phía ngoài cổng của
hoàng cung. Cậu bé vào khoảng 7, 8 tuổi.
Nhà vua nói: "Ta sẽ gã con gái của ta
cho cậu bé"
Nào ai dám trái lệnh đức vua? Ngay
tức khắc cậu bé được gọi đến và cậu cùng công chúa quàng
cho nhau những vòng hoa cưới.
Đến đoạn này, tôi tiến gần bà hơn và
hỏi một cách nôn nóng: "Rồi sao nữa bà?"
Từ đáy trái tim tôi có một nỗi khao
khát vô cùng chính tôi được thay thế cho cậu bé nhặt củi
bảy tuổi tốt phước kia. Trời đêm vang tiếng mưa rơi lộp
độp. Chiếc đèn ngủ bằng đất bên cạnh giường tôi đã lụi
dần. Giọng kể của bà vẫn đều đều tiếp nối câu chuyện.
Tất cả những điều đó đã hình thành trong một góc trái
tim cả tin của tôi một niềm tin rằng tôi đã từng nhặt
củi trong một sớm bình minh tại một vương quốc xa xôi
của một vì vua vô danh nào đó, và trong thoáng chốc đã
từng cùng với một nàng công chúa xinh như Nữ Thần Sắc
đẹp trao nhau vòng hoa cưới. Nàng có dải băng vàng trên
tóc và đôi hoa tai bằng vàng trên tai. Nàng có sợi dây
chuyền vàng cùng những vòng xuyến bằng vàng, một sợi dây
lưng bằng vàng thắt ngang eo và đôi kiềng vàng kêu leng
keng trên đôi chân nàng.
Nếu bà là tác giả của câu chuyện thì
chắc bà phải đưa ra không biết bao nhiêu là lời giải
thích cho câu chuyện nhỏ bé này! Trước tiên, người ta sẽ
hỏi tại sao nhà vua phải ở lại trong rừng mười hai năm?
Thứ hai, tại sao con gái của nhà vua vẫn còn chưa nên
gia thất trong suốt thời gian đó? Điều này sẽ được xem
như là ngớ ngẩn. Thậm chí công chúa cũng không một lời
phàn nàn bất tuân, mà lẽ ra phải khóc lóc than van về
chính cuộc hôn nhân này. Thứ nhất, điều đó không bao giờ
xảy ra. Thứ hai, làm sao có một cuộc hôn nhân giữa công
chúa con của một chiến binh và con trai của tu sĩ Bà la
môn? Độc giả của bà sẽ ngay lập tức tưởng tượng rằng tác
giả đang bí mật tuyên giáo chống lại những tập tục xã
hội. Và ắt là họ sẽ ghi chép.
Vì vậy tôi cầu nguyện bằng cả trái
tim rằng bà của tôi sẽ được tái sinh là người bà lần
nữa, và không phải chịu số phận khổ sở như cháu trai bất
hạnh của bà. Vì vậy rộn rã niềm vui và khoan khoái, tôi
hỏi bà: "Rồi sao nữa bà?"
Bà tiếp tục: Thế rồi trong một nỗi
khổ sở khôn cùng công chúa đem người chồng bé nhỏ của
mình ra đi, xây một lâu đài thất cung nguy nga, rồi bắt
đầu nuôi dưỡng người chồng hết sức chu đáo.
Tôi nhảy choi choi trên giường ghì
lấy chiếc gối chặt hơn bao giờ hết và hỏi: "Rồi sao nữa
bà?"
Bà tiếp tục: Cậu bé đến trường, học
nhiều bài học từ những người thầy của mình. Khi chàng
lớn lên những người bạn cùng lớp bắt đầu hỏi: "Quý nương
xinh đẹp sống cùng với bạn trong lâu đài thất cung là ai
vậy?" Con trai người Bà la môn cũng nôn nóng muốn biết
nàng là ai. Chàng chỉ có thể nhớ một ngày kia chàng từng
nhặt củi và một biến cố lớn lao xảy ra. Nhưng tất cả đã
quá lâu, ký ức đã bị xoá mờ.
Bốn hoặc năm năm cứ thế trôi đi.
Những người bạn vẫn luôn hỏi chàng: "quý nương xinh đẹp
sống cùng với bạn trong lâu đài thất cung là ai". Và con
trai người Bà la môn từ trường trở về nhà buồn bã nói
với công chúa: "Những bạn học của ta cứ hỏi quý nương
xinh đẹp sống trong lâu đài này là ai mà ta không thể
trả lời họ. Hãy nói cho ta biết, hãy nói đi, người là
ai!" Công chúa đáp: "Hôm nay hãy cho qua chuyện đó. Ta
sẽ kể cho người vào lúc khác". Cứ như thế bốn , năm năm
nữa lại trôi qua.
Cuối cùng con trai người Ba la môn
mất hết kiên nhẫn, đã nói: "Nếu hôm nay người không nói
cho ta biết người là ai, thưa công nương xinh đẹp, ta sẽ
rời khỏi lâu đài này". Thế là công chúa nói: "Ta hứa
chắc sẽ nói cho người vào ngày mai". Ngày hôm sau, ngay
khi đi học về con trai người Bà la môn liền nói: "Nào,
hãy kể cho ta biết nàng là ai." Công chúa nói: "Đêm nay
ta sẽ nói cho chàng biết sau bữa ăn tối, khi chàng đi
ngủ".
Con trai người Bà la môn đáp: "Tuyệt
lắm"; và chàng bắt đầu đếm từng giờ trong sự đợi chờ đêm
đến. Về phía công chúa, nàng trải những bông hoa trắng
trên chiếc giường bằng vàng, thắp sáng chiếc đèn ngủ
bằng vàng với dầu thơm, trang điểm mái tóc, mặc cho mình
một chiếc váy màu xanh da trời, và bắt đầu tính từng giờ
trông đợi đến đêm.
Buổi tối hôm đó khi chồng nàng_ con
trai người Bà la môn đã dùng bữa xong, quá nôn nóng đến
nỗi không thể ăn được, và chàng đã đến bên chiếc giường
bằng vàng trong căn phòng ngủ rắc đầy hoa, chàng nói với
chính mình: "Đêm nay, ta sẽ biết chắc chắn công nương
xinh đẹp trong lâu đài thất cung này là ai ".
Công chúa đã dùng hết bữa ăn mà chồng
nàng để lại, rồi chậm rãi bước vào phòng ngủ. Trong đêm
nay nàng phải trả lời câu hỏi, quý nương xinh đẹp sống
trong lâu đài thất cung này là ai. Và khi nàng lên
giường để kể với chàng thì nàng thấy một con rắn đã bò
ra khỏi những đóa hoa và cắn con trai người Bà la môn.
Cậu bé- chồng nàng
đang nằm trên chiếc giường đầy hoa với khuôn mặt xám
ngoét đã chết.
Tim tôi đập liên hồi, tôi hỏi với
giọng tắt nghẹn: "Rồi sao nữa?" Bà nói: "Thế rồi…"
Thế nhưng, phỏng có lợi ích gì khi
tiếp tục câu chuyện này? Nó chỉ dẫn đến những điều càng
lúc càng viển vông. Cậu bé bảy tuổi không biết điều đó,
nếu có một điều gì "rồi sao nữa" sau cái chết, thì không
một người bà nào có thể kể cho chúng ta biết được.
Nhưng niềm tin của một đứa trẻ không
bao giờ biết đến sự thất bại, và niềm tin đó sẽ túm lấy
áo của người chết và đem chàng trở về. Thật tổn thương
cho cậu bé khi phải nghĩ rằng một câu chuyện trong buổi
chiều vắng bóng gia sư bỗng dưng lại kết thúc như vậy.
Vì vậy bà ngoại lại phải tái hồi câu chuyện từ đoạn căn
phòng ngủ đã đóng cửa vĩnh viễn bởi cái Kết thúc tuyệt
đẹp; nhưng bà đã làm việc đó thật đơn giản: chỉ đơn
thuần là cho thi thể trôi bồng bềnh nơi một bè chuối
trên dòng sông, và thêm vài câu thần chú được đọc lên
bởi một thầy phù thủy. Nhưng trong cái đêm mưa tầm tã và
trong ánh đèn leo lét, cái chết đã mất đi sự kinh hoàng
trong trí óc của cậu bé, và dường như không có gì hơn
ngoài một giấc ngủ sâu của một đêm thành tín. Khi câu
chuyện kết thúc thì mi mắt cũng nặng trĩu cơn buồn ngủ.
Vì thế, đó là duyên do chúng ta để cho thân hình bé nhỏ
trôi bềnh bồng trên lưng của giấc ngủ băng qua dòng nước
tĩnh lặng của thời gian, để rồi vào lúc ban mai niệm một
vài câu thần chú trao trả chàng lại thế giới của sự sống
và ánh sáng./.