Tám Sự Tích Phật Lực
Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
Phật
lịch 2545 (TL 2001)
---o0o---
SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ TƯ
ÐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMÀLA
-ooOoo-
Ðức Phật cảm hóa được kẻ
cướp sát nhân Angulimàla, do nhờ phép thần thông.
(Theo Chú giải Kinh
Angulimàlasuttavannanà - Bộ chú giải Majjhimapannàsa, kinh
Angulimàlasuttavannanà).
Ð
ại
đức Angulimàla vốn tên thật là Ahimsaka xuất thân từ dòng dõi Bà la môn,
trong một gia đình quý tộc nhiều đời. Thân mẫu Ngài tên Mantanì; thân phụ
Ngài tên Gagga, là quân sư tài đức khả kính của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ
Kosala.
Trong đêm Ngài sinh ra
đời, một hiện tượng lạ thường chưa từng có đã xảy ra: tất cả vũ khí ở
trong thành đều phát ra ánh sáng chói lòa; ngay cả thanh gươm báu của Ðức
vua Pasenadi nằm ở trong bao, đặt trong căn phòng ngủ, cũng phát ra ánh
sáng thép lạnh buốt, làm cho Ðức vua kinh hoàng.
Ông Bà la môn, thân phụ
của Ngài Angulimàla, nhìn thấy hiện tượng như vậy, liền bước ra hiên nhìn
lên trời xem thiên văn, giữa hư không vời vợi một ngôi sao "kẻ cướp
sát nhân" vừa xuất hiện. Ông nhẩm tính một hồi, rồi cảm thấy rùng
mình sợ hãi. Ngôi sao ấy chính là biểu hiệu số mạng con trai vừa mới chào
đời của ông. Sau nầy nó sẽ trở thành tên cướp giết người
khét tiếng!
Là quân sư của Ðức vua,
người nắm cán cân công lý và sự an nguy cho xã tắc, ông Bà la môn không
cho phép mình vì tình riêng mà dấu kín mầm móng tai họa, nên trời vừa
sáng, ông đã vào chầu Ðức vua Pasenadi tâu rằng:
- Ðêm qua bệ hạ ngủ có
được an giấc hay không?
Ðức vua đáp:
- Thưa quân sư khả kính,
Trẫm có ngủ yên được đâu! Không biết điềm xấu gì xảy ra mà thanh gươm báu
của Trẫm đặt ở trong bao lại phát ra ánh sáng chói lòa rất là khủng khiếp.
Trẫm lo sợ có điều tai họa gì đó liên quan đến tánh mạng của Trẫm, hoặc có
chuyện bất trắc gì xảy ra cho ngai vàng của Trẫm chăng?
- Tâu bệ hạ - vị quân sư
mau mắn đáp - đêm qua hạ thần có xem thiên văn, quả thật có một hung tinh
vừa xuất hiện. Nhưng điềm xấu ấy không liên hệ gì đến tánh mạng cũng như
ngai vàng của bệ hạ.
Tâu bệ hạ, không những chỉ
riêng thanh gươm báu của bệ hạ, mà còn tất cả các loại vũ khí ở trong
thành đều phát ra ánh sáng; đó là do năng lực ác nghiệp của con trai hạ
thần vừa mới ra đời đêm qua.
Ðức vua ngạc nhiên:
- Có chuyện như vậy sao!
Quân sư hãy nói rõ cho Trẫm nghe!
- Tâu bệ hạ, con trai hạ
thần vừa mới hạ sanh đêm qua ứng vào vị hung tinh ấy. Sau nầy, nó sẽ trở
thành tên cướp sát nhân rất nguy hiểm.
- Thật vậy sao? Ðức vua
hỏi. Nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân? - chỉ là một tên cướp sát nhân
thôi, hay là thủ lãnh một nhóm trộm cướp chuyên giết người, cướp của, dã
man, tàn bạo, phá xóm, phá làng... và đe dọa cả ngai vàng của Trẫm?
- Không phải vậy, tâu bệ
hạ! Nó chỉ là một tên cướp. Một mình nó thôi. Tuy chẳng tổn thương gì đến
bệ hạ và ngai vàng, nhưng để tránh những tai họa về sau, thần xin phép bệ
hạ cho thần được giết chết nó khi đang còn nhỏ.
Ðức vua Pasenadi vốn là
một vị vua hiền đức, nghe vậy liền có lời can ngăn:
- Ðừng nên làm như thế,
thưa quân sư khả kính! Nếu chỉ là một mình nó thì không thể gây ra tai họa
lớn lao được. Trẫm biết rõ quân sư một đời nghiêm minh, thận trọng, chí
công vô tư, không vì tình riêng mà che mờ phép nước. Nhưng đứa trẻ kia vừa
mở mắt chào đời, chưa làm gì nên tội, xin quân sư hãy tha mạng sống cho
nó.
Nếu bảo là do năng lực của
ác nghiệp, thì quân sư nên tìm cách ngăn chặn, bằng cách nuôi dưỡng nó
trong môi trường đạo đức, như vậy thì quả của ác nghiệp khó có cơ hội phát
sanh.
Quân sư hãy chăm sóc, nuôi
nấng, dạy bảo nó trở nên con người hiền lương. Ví như thanh gươm nằm trong
vỏ, mũi tên nằm trong bao tên, thì nó làm sao có thể hại đến ai được!
Vậy quân sư nên đặt tên
cho đứa trẻ là Ahimsaka (người
không làm hại, làm khổ đến ai).
Bà la môn Gagga nghe vậy,
cúi đầu tuân phục, ông cảm kích và tri ân Ðức vua hiền minh không kể xiết.
Cậu bé Ahimsaka lớn lên,
rất thông minh dĩnh ngộ, lại có sức mạnh phi thường, sống trong gia đình
dòng dõi Bà la môn có truyền thống đạo đức lâu đời, cho nên cậu bé được
nuôi dưỡng và giáo dục tốt trong một môi trường sống hiền hòa, tạo nhân
tạo duyên cho thiện pháp phát sanh, những phẩm chất hiền lương của con
người càng thêm tăng trưởng.
Khi đứa bé lớn, đến tuổi
đi học, ông Bà la môn Gagga gởi con du học xứ Takkasilà, tại ngôi trường
đào tạo các vị Hoàng tử, con cháu Bà la môn từ các quốc độ... có vị đã trở
thành đấng minh quân, những nhà lãnh đạo tài ba, những bậc hiền triết uyên
thâm....
Là đứa trẻ vốn có thiên
tài xuất chúng, nên bất cứ môn học nào Ahimsaka cũng đều xuất sắc hơn các
người học trò khác. Ngoài ra, cậu là người học trò luôn luôn làm tròn tất
cả mọi phận sự đối với thầy, mọi lễ nghi phép tắc... không ai có thể chê
cậu ở một điểm nhỏ nào. Tài năng và đức hạnh của Ahimsaka đều vẹn toàn,
cho nên, người thầy Bà la môn và phu nhân của thầy rất hài lòng, thương
yêu Ahimsaka và xem như đứa con ruột của mình.
Mọi sự việc ấy làm cho bạn
bè đồng học ganh tỵ, họ bàn luận với nhau rằng:
"Kể từ khi có mặt Ahimsaka nơi nầy, trong
chúng ta không có một ai hơn nó, dầu chỉ một bộ môn nào. Nó là người có
tài trí hơn hẳn chúng ta về mọi phương diện kể cả đạo đức. Ahimsaka là
người học trò tài đức vẹn toàn, luôn luôn được thầy khen, ngược lại tất cả
chúng ta là Hoàng tử, công tử... mà thầy quở trách chúng ta. Ðó cũng chỉ
vì Ahimsaka quá tài giỏi hơn chúng ta gấp bội, còn chúng ta so với nó thì
quá kém cỏi mà thôi".
- Vậy chúng ta có mưu kế
nào để đuổi Ahimsaka ra khỏi trường nầy không?
- Chúng ta chẳng có cách
gì nói xấu Ahimsaka được.
- Nếu nói Ahimsaka thuộc
dòng dõi thấp hèn ư? Chẳng thể nào, vì Ahimsaka thuộc dòng dõi Bà la môn
cao quý, là con của ông Gagga, vị quân sư của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ
Kosala.
- Nếu nói Ahimsaka là đứa
học trò không làm tròn bổn phận, vô lễ với thầy ư? Chẳng thể nào vì
Ahimsaka là người học trò làm tròn bổn phận, có lễ phép, tôn kính thầy hơn
tất cả chúng ta....
Cuối cùng có một người
trong nhóm đưa ý kiến:
"Tất cả chúng ta chia ra
làm ba nhóm, và nhóm nào cũng đều thưa với thầy một điều giống nhau. Ban
đầu có lẽ thầy không tin, thầy quở trách, chúng ta phải nên kiên nhẫn chịu
đựng, nhưng dần dần thầy sẽ hoang mang ngờ vực và cuối cùng thầy sẽ tin".
Tất cả xem đó là một mưu
kế hay.
Thế là theo kế hoạch, phải
thực hiện tuần tự theo thời gian.
Ngày hôm sau, vào một dịp
thuận lợi nhất, nhóm thứ nhất vào quỳ và thưa thầy rằng:
- Ai cũng biết bạn
Ahimsaka là người học rất giỏi, có tài trí, lễ phép, từ lâu rất được thầy
yêu bạn mến, nhưng chúng con nghi y có âm mưu hại thầy, chúng con kính yêu
thầy, xin thưa cho thầy biết để đề phòng trước thì hơn.
Nghe nói vậy, vị thầy rất
bực tức quở trách họ, vì cho rằng họ có ác tâm muốn làm tổn thương tình
cảm giữa ông và Ahimsaka, người học trò ông rất mực thương yêu như con,
bèn xua đuổi nhóm đó đi ra ngoài ngay.
Một thời gian sau, y theo
kế hoạch, nhóm thứ nhì với số người đông hơn, cũng vào quỳ hầu thầy và
thưa chuyện với nội dung y như lần trước. Họ cũng bị thầy quở trách rồi
đuổi đi ra. Một thời gian lâu sau, nhóm thứ ba cũng thưa như hai nhóm
trước, vị thầy cũng đối xử như hai nhóm trước. Mặc dầu vậy, nhóm thứ ba
nầy tỏ vẽ khẩn khoản van xin thầy:
nếu thầy không tin chúng con, xin thầy xem xét Ahimsaka có tài trí khác
thường, nếu y mưu tính việc lớn thì khó ai biết được.
Sau nhiều lần, vị thầy bắt
đầu suy nghĩ: "Sao cả ba nhóm học
trò nầy đều thưa một việc giống nhau? và chúng đều có ý lo lắng cho sự an
toàn của ta".
Vị thầy bắt đầu hoang mang
ngờ vực, khi đã ngờ vực rồi thì mọi hành vi cử chỉ, lời nói của Ahimsaka
cũng đáng nghi cả. Sự nghi ngờ ấy tuy chưa tìm ra chứng cớ rõ ràng, nhưng
vị thầy cảm thấy lo sợ, bất an, vị thầy nghĩ:
"Cách tốt nhất để giữ gìn bảo vệ sanh mạng
của ta là phải tìm kế hạ thủ trước. Nếu tự tay ta đầu độc hoặc giết chết
y, bọn học trò sẽ biết, và như vậy thì vua chúa, Bà la môn, quý tộc...
cũng sẽ biết, tiếng xấu sẽ lan truyền ra mọi quốc độ rằng: "thầy mà giết
chết học trò", thì còn gì là uy tín và đạo đức của ta nữa. Khi thiên hạ
mất đức tin ở nơi ta thì họ sẽ không còn gởi con cháu đến đây học nữa. Khi
ấy, danh vọng ta sẽ mất mà lợi lộc cũng không còn! Vậy tốt hơn hết ta hãy
bày ra một kế để cho người ta giết Ahimsaka".
Vì nghĩ như thế, nên một
hôm ông gọi Ahimsaka lại bảo:
- Nầy Ahimsaka con yêu
quý, con là một người học trò có tài trí phi thường, con rất xứng đáng,
nên thầy muốn truyền dạy môn học tột bậc cho con, với điều kiện con phải
giết đủ một ngàn người đem trình cho thầy, để ứng dụng vào
môn học ấy, cũng đồng thời là sự tạ ơn thầy một cách xứng đáng với công
lao nuôi dạy của thầy.
- Kính thưa thầy, con sanh
ra ở dòng dõi Bà la môn cao quý, con không thể nào giết hại người được,
bạch thầy - Ahimsaka thưa.
Vị thầy dạy rằng:
- Nếu như vậy, con không
thể nào thành đạt đến tột cùng môn học, thật là uổng công lao nuôi dạy của
thầy! Con không đền đáp được công ơn thầy.
Ahimsaka nghe thầy nói
vậy, bất đắc dĩ phải làm theo lời thầy, xem là việc đền đáp công ơn nuôi
dạy của thầy, nhưng thật tâm hoàn toàn không thích làm việc bất lương như
vậy.
Sau khi lạy từ giã thầy,
Ahimsaka mang năm loại vũ khí theo mình đi vào rừng, chờ có ai đi vào rừng
hay đi ngang qua rừng sẽ giết. Vì tâm không ham thích giết người, đây
chẳng qua là một việc làm bất đắc dĩ nên chàng không nhớ rõ đã giết bao
nhiêu người rồi. Sau đó, hễ giết được một người, chàng cắt lấy một đầu
ngón tay cho dễ đếm, những ngón tay để rãi rác bị thất lạc, hoặc các loài
thú ăn mất. Cuối cùng, Ahimsaka nghĩ ra một cách là xâu những đầu ngón tay
nầy thành vòng đeo ở cổ. Từ đó chàng có biệt danh là Angulimàla:
có nghĩa là kẻ cướp sát nhân, cắt
ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ.
Dân chúng trong thành nghe
đến tên cướp sát nhân Angulimàla thảy đều kinh sợ, không ai dám đi một
mình qua khu rừng, nhưng dầu đi từng toán từ 10 người - 20 người hay 30
người cũng không một ai thoát khỏi lưỡi đao của Angulimàla.
Tiếng đồn vang xa từ làng
nầy qua làng khác quanh vùng, không ai dám đi ngang qua khu rừng ấy. Thế
là bắt buộc Angulimàla phải vào xóm làng tìm người để giết cho đủ số 1000.
Dân chúng kinh sợ bỏ xóm làng, đi lánh nạn sang nơi khác cách xa khu rừng
ba do tuần.
Chuyện Angulimàla giết hại
mọi người náo động đến kinh thành Sàvatthi. Một nhóm các bô lão đại diện
dân chúng xin vào cầu cứu Ðức vua Pasenadi rằng:
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cứu
dân vô tội, tên Anguli-màla kẻ cướp giết hại nhiều người, cắt đầu ngón tay
xâu thành vòng đeo ở cổ, dân chúng kinh sợ đã bỏ xóm làng đi lánh nạn sang
nơi khác, chịu cảnh cực khổ thiếu thốn.
Kính xin bệ hạ bắt y trị
tội để chúng con được trở về quê hương yên ổn làm ăn.
Nghe dân chúng kêu van
thảm thiết như vậy, Ðức vua liền hội triều hỏi ý kiến các quan. Ðức vua
quyết định thân chinh cầm đầu dẫn quân truy bắt Angulimàla, tên cướp giết
người để trị tội.
Trong buổi hội triều, vị
Bà la môn Gagga, quân sư của Ðức vua Pasenadi có linh tính báo cho biết
Angulimàla tên cướp sát nhân ấy không ai khác mà chính là Ahimsaka, con
trai yêu quý của ông.
Bãi triều, về nhà, ông âu
sầu kể lại cho bà Mantanì, vợ ông, biết rằng: Nầy phu nhân "tên cướp
sát nhân" ấy không phải ai khác mà chính là Ahim-saka, đứa con trai
yêu quý của chúng ta.
Nghe vậy, bà Mantanì khóc
lóc cầu xin chồng đi tìm con trở về nộp cho Ðức vua, xin Ðức vua từ bi ân
xá tội chết, trước khi Ðức vua truy bắt.
Ông Bà la môn cũng thương
yêu con, nhưng bây giờ nó đã trở thành kẻ cướp sát nhân rồi, ông Bà la môn
là bậc trí thức biết suy xét về lời dạy của bậc hiền triết ngàn xưa có dạy
rằng: "Có bốn hạng người không nên đặt niềm tin vào họ" :
- Là tên cướp sát nhân,
dầu trước đây hắn là bạn cũ.
- Là bạn cũ, dầu đã từng
sống chung với nhau lâu năm.
- Là Ðức vua, dầu được
Ðức vua tin cẩn.
- Là đàn bà, dầu trước
đây đã từng đối xử rất tốt với bà ta.
Suy ngẫm bốn hạng người
nầy, con trai của ông là một trong những hạng người ấy, không nên đặt niềm
tin vào nó. Cho nên, ông Bà la môn từ chối lời yêu cầu của vợ.
Biết vậy, bà Mantanì rất
nóng lòng vì thương yêu đứa con của bà, với tình thương yêu của một người
mẹ, bà nghĩ: "nó là gì đi nữa, thì
nó cũng chỉ là đứa bé nhỏ dại, đáng thương, đáng yêu của mình, đáng được
tha thứ!".
Thế là chẳng quản gian lao
vất vả, nguy hiểm, bà Mantanì quyết đi tìm Ahimsaka, đứa con yêu quý của
bà.
ĐỨC PHẬT
CẢM HÓA ANGULIMÀLA
Cuối canh chót đêm ấy, Ðức
Thế Tôn nhập đại bi định, sau khi xả định, quán xét chúng sanh có duyên
lành nên tế độ, Ðức Thế Tôn nhìn thấy Angulimàla hiện trong mạng lưới đại
bi của Ngài. Ngài biết rằng: duyên lành của Angulimàla đã đến, Như Lai sẽ
tế độ Angulimàla, chỉ cần nghe lời giải đáp xong Angulimàla sẽ phát sanh
đức tin trong sạch, từ bỏ mọi vũ khí, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu, về
sau Angulimàla sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Thánh Quả cùng với Tam minh.
Ðức Thế Tôn còn thấy rõ
rằng: nếu Ngài đến chậm trễ, Angulimàla sẽ giết mẹ, phạm trọng tội trong
ngũ vô gián nghiệp thì vô phương cứu thoát.
Thế rồi, sáng hôm ấy, Ðức
Thế Tôn đi vào thành Sàvatthi để khất thực như lệ thường, sau khi độ ngọ
xong, dọn dẹp chỗ ở, rồi Ðức Thế Tôn chỉ một mình mặc y, mang bát đi theo
con đường mòn nhỏ nhắm hướng đi thẳng đến khu rừng nơi ở của Angulimàla.
Dân chúng bên đường nhìn
thấy Ðức Thế Tôn (không nhận biết được Ðức Phật) đi theo con đường
vào khu rừng nơi trú ngụ của Angulimàla, lo sợ Ngài bị giết bèn ra ngăn
cản:
- Kính bạch Sa môn, kính
xin Ngài đừng đi theo con đường nầy, ở trong khu rừng kia có tên
Angulimàla là kẻ cướp giết người, bất luận là ai y cũng không thương xót.
Kẻ cướp sát nhân nầy đã tàn sát dân làng già trẻ, dân chúng còn sống sót
kinh sợ đều bỏ làng đi lánh nạn nơi khác. Một vùng đất rộng bên trong kia
chỉ còn cảnh tiêu điều vắng vẽ, không một bóng người qua lại.
- Kính bạch Sa môn, trước
đây có những toán người đông 20 người, 30 người, 40 người... đi qua con
đường nầy cũng đều bị Angulimàla sát hại, không còn một ai sống sót cả.
Kính xin Sa môn đừng vào nơi nguy hiểm ấy.
Ðức Thế Tôn nghe dân chúng
bạch đến ba lần, rồi dạy:
- Các con hãy an tâm!
Không có điều gì xảy đến với Như Lai đâu! Rồi Ngài vẫn tiếp tục đi.
Hôm ấy, Angulimàla nghĩ
rằng: "Ta sống ở đây đã lâu rồi, ta
đã giết rất nhiều người, những người chết mà ta đã cắt đầu ngón tay xâu
thành vòng đếm được 999 ngón, chỉ cần giết thêm một người nữa, cắt một đầu
ngón tay là tròn đủ 1000 ngón, là đủ 1000 người; ta cần phải ra ven rừng,
hễ nhìn thấy người nào trước tiên là giết người ấy cho đủ số, đem về trình
cho thầy, để đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy và thầy sẽ truyền đạt bộ
môn tột bậc cuối cùng cho ta. Lúc đó ta sẽ cạo râu, cắt tóc thay đổi y
phục, xin bái tạ thầy trở về hầu thăm cha mẹ".
Nghĩ xong, Angulimàla mang
vũ khí đi ra ven rừng. Người trước tiên mà y nhìn thấy từ xa đang đi đến
là bà Mantanì, mẹ của y. Bà Mantanì nhận ra người cầm gươm kia là con của
mình, bà vui mừng gọi tên con Ahimsaka! Ahimsaka! Con yêu quý! Nghe gọi
vậy, Angulimàla nhận biết người đàn bà kia là mẹ của mình, nhưng do tà
kiến chấp thủ, với ý nghĩ "người nào trước tiên" là giết liền cho đủ số
1000 người, nên y đành lòng phải giết mẹ thôi!
Angulimàla chạy ra đón
đường thì bỗng nhiên nhìn thấy Ðức Phật, xuất hiện ở khoảng giữa y và mẹ
của y, Angulimàla liền thay đổi ý định thay vì giết mẹ, thì giết vị Sa môn
đi một mình này. Angulimàla cầm gươm đuổi theo Ðức Phật, Ðức Phật dùng
thần thông bước đi chậm rãi khoan thai như bình thường, nhưng đằng sau,
Angulimàla đã cố chạy đuổi theo hết sức lực mà vẫn không bắt kịp Ngài.
Angulimàla thoáng nghĩ:
"Thật lạ thường thay! Chưa từng có
bao giờ! Trước đây dầu voi, ngựa, nai, xe ngựa chạy ta cũng chạy đuổi theo
bắt được dễ dàng. Nhưng bây giờ dầu ta đã chạy hết sức mà vẫn không đuổi
kịp vị Sa môn đang bước đi khoan thai chậm rãi kia".
Angulimàla cầm gươm chạy
đuổi theo Ðức Phật suốt ba do tuần, đã đuối sức, dừng chân lại, cất tiếng
gọi lớn.
- Này ông Sa môn kia, Hãy
dừng lại! Hãy dừng lại!
Ðức Phật biết được nhân
duyên đã đến, Ngài vừa chậm rãi bước đi, vừa cất giọng phạm âm dạy vọng
lại:
- Này Angulimàla,
Như Lai đã dừng lại lâu rồi! Còn chính
con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!
Nghe vậy, Angulimàla rất
ngạc nhiên suy nghĩ: những Sa môn dòng Sakya này là bậc thường hay nói sự
thật, nói như thế nào, làm như thế ấy; làm như thế nào, nói như thế ấy.
Nhưng tại sao, ở đây, rõ là ông Sa môn này đang bước đi mà nói là: "Như
Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn ta là người dừng chân lại rồi, ông Sa
môn lại nói: "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!",
thế là nghĩa làm sao?
Angulimàla bèn hỏi Ðức Thế
Tôn rằng:
- Này ông Sa môn, rõ ràng
ông đang đi mà lại nói: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn tôi thì
đã dừng chân lại rồi nhưng ông lại nói "Chính con! Chính con mới là
người chưa chịu dừng lại", nghĩa là sao?
Ðức Phật thuyết giảng dạy
Angulimàla rằng:
- Này Angulimàla, thật
vậy, Như Lai đã dừng lại lâu rồi. Nghĩa là Như Lai đã
từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh từ lâu rồi; còn con chưa từ bỏ sự sát
hại tất cả chúng sinh. Vì vậy, Như Lai mới gọi
"Chính con! Chính con mới là người chưa chịu
dừng lại".
Angulimàla vừa nghe xong,
tỉnh thức ngay, liền ném các loại vũ khí xuống hố sâu bên sườn núi, vì
biết rõ vị Sa môn này chính là Ðức Thế Tôn, bèn bạch rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn,
Ngài là bậc xứng đáng lễ bái cúng dường của chư thiên, Phạm thiên và nhân
loại, với tấm lòng đại bi, Ngài ngự đến khu rừng này, để tế độ cho con
thoát khỏi si mê lầm lạc, giúp cho con có được trí tuệ sáng suốt, để đem
lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho con. Kể từ nay về sau,
con xin nguyện từ bỏ mọi tội lỗi do thân, khẩu và ý. Mong Ngài minh chứng
cho con, thành tâm sám hối tội lỗi này.
Angulimàla bạch Ðức Thế
Tôn xong, rồi đến quỳ đảnh lễ dưới chân Ðức Phật, cầu xin Ngài cho phép
xuất gia trở thành Tỳ khưu.
Với tâm từ bi quảng đại,
với Phật nhãn thấy rõ phước duyên của Angulimàla đầy đủ tam y quả bát, các
vật dụng của Sa môn, cho nên Ðức Phật đưa bàn tay phải chỉ ngón trỏ vào
Angulimàla mà dạy rằng:
"Ehi bhikkhu......".
"Con trở thành Tỳ khưu như
con đã xin phép.
Pháp mà Như Lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần
đầu, phần giữa, phần cuối, con nên thực hành phạm hạnh cao thượng để giải
thoát khổ hoàn toàn".
Ðức Thế Tôn dạy xong,
Angulimàla liền trở thành vị Tỳ khưu với tướng mạo và đầy đủ tám món vật
dụng của Sa môn, phát sanh do phước duyên từ kiếp trước. Từ đây, Tỳ khưu
Angulimàla thu thúc lục căn thanh tịnh như một vị Ðại đức cao hạ. Tế độ
Angulimàla xong, Ðức Thế Tôn dẫn vị tân Tỳ khưu theo sau ngự đi về chùa
Jetavana.
ĐỨC VUA
PANESADI CA TỤNG ĐỨC PHẬT
Cũng trong khoảng thời
gian ấy, Ðức vua Pasenadi xứ Kosala thân chinh dẫn một đoàn quân gồm 500
binh mã ra khỏi thành truy tìm Angulimàla. Khi gần đến chùa Jetavana, Ðức
vua xuống ngựa đến hầu Ðức Phật. Thấy Ðức vua đến cùng một đoàn quân trang
bị vũ khí và binh mã thiện chiến, Ðức Thế Tôn bèn hỏi Ðức vua Pasenadi:
- Nầy Ðại vương, có phải
vị vua các nước láng giềng khiêu chiến nên Ðại vương thân chinh, dẫn quân
đi đánh phải không?
- Kính bạch Ðức Thế Tôn,
không phải Ðức vua Bimbasàra trị vì xứ Magadha làm cho con bực tức, cũng
không phải Ðức vua Licchavi trị vì xứ Vesali chọc giận con, vua các nước
lớn, nước nhỏ khác cũng không làm cho con phải khó chịu....
Kính bạch Ðức Thế Tôn, bởi
vì trong nước của con có tên Angulimàla, kẻ cướp sát nhân rất hung ác và
rất tinh nhuệ, nó đã giết nhiều người, cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đeo
ở cổ. Dân chúng ở gần khu rừng kinh sợ bỏ đi nơi khác lánh nạn, chịu bao
nổi khổ cực thiếu thốn. Cho nên, hôm nay con phải đích thân dẫn tinh binh
đi truy tìm Angulimàla, tên cướp sát nhân dã man tàn bạo ấy, đem về triều
đình trị tội, để đem lại sự bình an cho dân chúng của con.
- Này Ðại vương, nếu Ðại
vương nhìn thấy Angu-limàla cạo râu tóc, mặc y cà sa xuất gia trở thành Tỳ
khưu, hành phạm hạnh cao thượng, có giới hạnh trong sạch, thu thúc lục căn
thanh tịnh, thì Ðại vương đối xử với vị Tỳ khưu ấy như thế nào?
- Kính bạch Ðức Thế Tôn,
đối với vị Tỳ khưu ấy, con sẽ cung kính đón tiếp, đảnh lễ thỉnh mời ngồi
chỗ cao quý và xin hộ độ tứ vật dụng.
Kính bạch Ðức Thế Tôn,
nhưng Angulimàla là kẻ cướp sát nhân tàn bạo, không còn nhân tính, ác tâm
phát sanh, khiến tạo mọi tội lỗi khủng khiếp, thì làm sao có thể trở thành
vị Tỳ khưu có giới hạnh trong sạch, thu thúc lục căn thanh tịnh cho được.
Bạch Ngài.
Lúc ấy, Tỳ khưu Angulimàla
ngồi không xa chỗ Ðức Phật, Ngài đưa tay chỉ về phía Tỳ khưu Angulimàla và
nói:
- Này Ðại vương, vị Tỳ
khưu đang ngồi ở chỗ kia chính là Angulimàla đó!
Ðức vua Pasenadi vô cùng
ngạc nhiên, vẽ mặt hoảng sợ, Ðức Phật liền trấn an:
- Này Ðại vương, hãy bình
tĩnh! Chắc chắn sẽ không bao giờ có một tai họa xảy đến cho Ðại vương nào
do từ Angulimàla đâu!
Nghe Ðức Phật dạy vậy, Ðức
vua liền trấn tĩnh, nhưng không khỏi ngạc nhiên, nên đến gần vị Tỳ khưu
Angulimàla bạch hỏi rằng:
- Thưa Ngài, Ngài chính là
Angulimàla phải không?
- Phải vậy, thưa Ðại
vương. - Vị Tỳ khưu đáp.
Ðức vua vẫn chưa hết ngờ
vực, hỏi tiếp.
- Thưa Ngài, thân phụ và
thân mẫu của Ngài tên gọi là gì?
- Thưa Ðại vương, thân phụ
của bần đạo tên gọi Gagga, thân mẫu tên gọi là Mantànì.
Ðến đây, không còn nghi
ngờ gì nữa, Ðức vua Pasenadi vô cùng hoan hỷ, cung kính đảnh lễ Tỳ khưu
Angulimàlà và bạch rằng:
- Cầu chúc cho người con
thân yêu của quân sư Gagga và bà Mantanì được an vui! Con xin hộ độ bốn
món vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bịnh cho Ngài.
Angulimàla, sau khi trở
thành Tỳ khưu đã nguyện thực hành hạnh đầu đà, tri túc trong bốn món vật
dụng, nghe Ðức vua bạch như vậy nên thưa lại rằng:
- Thưa Ðại vương, xin Ðại
vương đừng bận tâm, vật dụng đối với bần đạo đủ rồi.
Ðức vua Pasenadi thấy Ðức
Phật đã cảm hoá được Angulimàla từ một tên cướp sát nhân dã man, hung ác
đã trở thành một Tỳ khưu có giới hạnh trong sạch, thu thúc lục căn thanh
tịnh... mà không cần đến một vũ khí, quyền lực nào ngoài tâm đại bi vô
lượng vô biên của Ngài. Một lòng tôn kính vô hạn phát sanh, Ðức vua quỳ
đảnh lễ dưới chân Ðức Phật rồi tán dương rằng:
-
Kính bạch Ðức Thế Tôn,
Thật là một điều phi
thường chưa từng có!
Chỉ có Ngài mới có thể tế
độ được người mà trên thế gian này không một ai có thể tế độ được! Chỉ có
Ðức Thế Tôn mới có thể làm vắng lặng phiền não nơi người, mà không một ai
có thể làm cho vắng lặng phiền não được!
Với tâm đại bi vô lượng vô
biên của Ðức Thế Tôn, đã dẫn dắt những người từ nơi si mê tăm tối, tìm đến
chỗ ánh sáng trí tuệ kỳ diệu mà không một ai có thể làm được.
Chính con đây, con không
thể nào dùng quyền lực hay vũ khí để bắt buộc người khác cải tà quy chánh.
Con hết lòng thành kính tri ân Ðức Thế Tôn vô thượng!
Ðức vua Pasenadi đảnh lễ,
bái biệt Ðức Thế Tôn và Tỳ khưu Angulimàla rồi dẫn quân trở lại kinh
thành.
Một buổi sáng, Ðại đức
Angulimàla mặc y mang bát đi vào thành Sàvatthi để khất thực, khi đi dọc
theo một con đường, Ngài nhìn thấy một thai phụ đang đau đớn quằn quại, vì
không sanh con ra được, Ngài phát sanh tâm bi:
"Ôi chúng sinh quá đau khổ, thật đáng thương
xót thay!".
Thấy cảnh đau khổ của
người đàn bà ấy, khiến Ngài phát sanh tâm bi cứu khổ, tìm cách nào cứu bà
đây? Ngài đi khất thực độ ngọ xong, trở về chùa Jetavana, Ngài liền vào
hầu Ðức Phật bạch lại sự việc đã tận mắt chứng kiến, phát sanh tâm bi
thương xót đến nỗi khổ của chúng sinh.
Ðức Phật dạy:
- Này Angulimàla, con hãy
đi đến chỗ người đàn bà đang đau khổ ấy, phát nguyện bằng lời chân thật
rằng:
"Yato’ham bhagini ariyàya
jàtiyà jàto, nàbhijànàmi, sancicca pànam jìvità voropetà. Tena saccena
sotthi te hotu sottha gabbhassa".
[*]
"Này cô, kể từ khi bần đạo
xuất gia trở thành Tỳ khưu trong dòng dõi Thánh tông, biết mình không cố ý
sát hại chúng sinh. Do lời chân thật này, xin cho cô sinh nở được dễ dàng,
thai nhi của cô cũng được an toàn".
[*] Majjhimanikàya.
Majhjhimapannàsa, đoạn kinh Angulimàlasutta
Nghe theo lời chỉ giáo của
Ðức Phật, Ðại đức Angulimàla đi lại chỗ người đàn bà ấy, Ngài ngồi bên
ngoài bức màn che, với tâm bi, đọc lời chú nguyện: "Yato’ham bhagini
ariyàya jàtiyà jàto, nàbhijànàmi, sancicca pànam jìvità voropetà. Tena
saccena sotthi te hotu sottha gabbhassa." [**], mà Ðức Phật đã
chỉ dạy.
[**] Về sau, lời chú
nguyện này trở thành kinh Paritta, có hiệu nghiệm mọi lúc, mọi nơi. Hễ
có trường hợp người đàn bà nào khó sanh, đọc bài kinh này, chú nguyện
trong ly nước, đổ trên đầu người đàn bà khó sanh ấy, ngay tức khắc người
đàn bà ấy sinh con ra một cách dễ dàng, an toàn cả mẹ lẫn con.
Lạ lùng thay! Lời chân
thật vừa dứt, người đàn bà sinh đứa con một cách dễ dàng - như đổ nước ra
khỏi bình - và hài nhi cũng được an toàn như ý nguyện.
ĐẠI ĐỨC
ANGULIMÀLA CHỨNG ĐẮC THÁNH QUẢ ARAHÁN
Ðại đức Angulimàla sống
riêng một mình nơi thanh vắng, không dễ duôi, tinh tấn tiến hành Tứ niệm
xứ, bằng trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới, Ngài đã chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4
Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được vô minh và tham ái không còn dư sót, trở
thành bậc Thánh Arahán cùng với Tam minh.
Như vậy, Ngài đã hoàn
thành xong mọi phận sự Tứ Thánh đế, đồng thời hoàn thành xong phạm hạnh.
Ngài biết rõ kiếp này là kiếp chót, không còn tái sanh kiếp nào khác nữa.
Mặc dầu, sau khi Ðại đức
Angulimàla đã trở thành bậc Thánh Arahán, tất cả mọi nghiệp (thiện nghiệp,
ác nghiệp) mới không tạo, song nghiệp cũ vẫn còn có hiệu lực cho quả ở
kiếp hiện tại, cho nên khi Ngài đi vào thành Sàvathi để khất thực, những
cục đá, những khúc cây... người ta ném đi đâu đó lại rơi xuống trúng nơi
đầu hoặc thân hình của Ngài, làm cho đầu bị chảy máu, thân hình bị bầm
tím, y rách, bát bể... trông thấy thật đáng thương.
Khi trở về, Ðại đức
Angulimàla đến hầu Ðức Thế Tôn, Ngài thấy như vậy, khuyên dạy an ủi rằng:
-
Này Angulimàla, con hãy cố nhẫn nại, thay vì
phải chịu quả khổ lâu dài ở trong điạ ngục, thì nay con chỉ chịu quả khổ
một phần nào ở kiếp hiện tại này thôi.
Ðại đức Angulimàla hoan hỷ
vâng theo lời giáo huấn của Ðức Phật.
ĐẠI ĐỨC
ANGULIMÀLA CẢM
HỨNG TỰ THUYẾT
Ðại đức Angulimàla chỉ có
một mình ở nơi thanh vắng, nhập Arahán Thánh Quả Ðịnh, hưởng sự an lạc
giải thoát, khi xả định, Ngài cảm ứng tự thuyết những bài kệ rằng:
"Người nào trước kia dễ
duôi quên mình,
Về sau có chánh niệm và tinh tấn,
Người ấy làm cho đời thêm xán lạn,
Như vầng trăng thoát khỏi đám mây che.
Người nào đã tạo ác nghiệp tội lỗi,
Quả ác được ngăn bởi 4 Thánh Ðạo,
Người ấy làm cho đời thêm xán lạn,
Như vầng trăng thoát khỏi đám mây che.
Tỳ khưu nào dẫu còn thời trẻ trung,
Tinh tấn hành theo giáo pháp Ðức Phật,
Tỳ khưu ấy làm cho đời xán lạn,
Như vầng trăng thoát khỏi đám mây che.
Rồi tiếp theo Ðại đức rải
tâm từ đến cho những người mà Ngài đã lầm lỡ, làm khổ trước đây bằng những
bài kệ:
"Này tất cả những
người thù ghét tôi!
Xin hãy đến đây lắng nghe chánh pháp.
Mà tôi đã được nghe từ Ðức Phật,
Hãy nên thân cận với bậc Thiện trí,
Là bậc đã chứng ngộ pháp siêu thế,
Xin hãy thực hành theo lời giáo huấn
Của Ðức Phật cao thượng hơn chúng sinh.
Này tất cả những người
thù ghét tôi!
Xin mời quý vị tùy thời nghe pháp.
Bậc Thiện trí thường tán dương ca tụng,
Pháp rải tâm từ và đức nhẫn nại,
Lắng nghe và thực hành theo pháp ấy,
Dập tắt được oan trái và hận thù.
Này tất cả những người
thù ghét tôi!
Xin các người không nên làm khổ tôi,
Và không nên làm khổ chúng sinh khác,
Nên tinh tấn thực hành theo chánh pháp
Chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả, Niết Bàn,
Diệt đoạn tuyệt tham ái và phiền não.
Ngài Ðại đức hướng dẫn
cách tu hành bằng những bài kệ:
Người nông dân cần
nước,
Làm mương dẫn nước vào.
Người thợ làm mũi tên,
Uốn cây tên cho thẳng.
Người thợ mộc đẽo cây,
Ðẽo cây theo ý mình.
Cũng như bậc Thiện trí,
Tự dạy mình mà thôi.
Có người dạy súc vật,
Dùng gậy, móc sắt, roi.
Còn Ðức Phật dạy tôi,
Bằng phép mầu cao thượng,
Không quyền lực, vũ khí.
Từ trước tôi làm hại,
Tất cả mọi chúng sinh,
Thế mà mang cái tên,
Là A - him - sa - ka [*] .
Kể từ nay về sau,
Không làm hại ai cả,
Ðúng nghĩa thật tên tôi.
Trước kia tôi chính là,
Một kẻ cướp sát nhân,
Nổi danh khắp đó đây,
Aí - gu - li- mà - la,
Ðắm chìm trong nước xoáy,
Sanh tử khổ luân hồi.
Nay tôi đến quy y,
Nơi Ðức Phật cao thượng.
Từ trước tôi nổi danh,
Aí - gu - li - mà - la,
Kẻ giết người vấy máu.
Nay chứng ngộ Niết Bàn,
Nhổ gốc rễ tham ái,
Chặt đứt mầm tái sanh.
Tôi đã tạo ác nghiệp,
Ðáng lẽ sa ác đạo,
Chịu khổ đau nhiều kiếp.
Nhờ chứng ngộ Thánh Ðạo,
A - ra - hán Ðạo Tuệ,
Diệt tận các phiền não,
Tâm trong sạch thanh tịnh,
Dùng vật thực không nợ.
Người ngu không trí tuệ,
Thường sống trong dễ duôi.
Bậc Thiện trí hiểu biết,
Giữ gìn không dễ duôi,
Luôn luôn có chánh niệm,
Như giữ gìn cuả báu.
Chớ nên sống dễ duôi,
Chớ say đắm ngũ trần.
Người hành Tứ niệm xứ,
Con đường duy nhất ấy,
Luôn tinh tấn chuyên cần,
không dễ duôi chánh niệm,
Chứng đắc 4 Thánh Ðạo,
4 Thánh Quả, Niết Bàn.
Tôi đến với Phật giáo,
Là sự đến tốt lành,
Ðiều suy xét của tôi,
Không phải là sai lầm.
Tôi đã chứng đắc được,
A-ra-hán Thánh Ðạo,
A-ra-hán Thánh Quả,
Cùng Niết Bàn cao thượng,
Trong giáo pháp Ðức Phật.
Sự xuất gia Tỳ khưu,
Của tôi là cao quý,
Chứng đắc thành bậc Thánh
A-ra-hán, Tam minh,
Hoàn thành lời Phật dạy.
[*] A-him-sa-ka: vô hại,
không làm hại chúng sanh.
---o0o---
Mục
Lục | 1
| 2
| 3 | 4
| 5
| 6
| 7
| 8 | 9
---o0o---
| Mục lục Tác giả || Tủ
Sách Phật Học |
---o0o---
Source: Buddhasasana Homepage
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật :
01-01-2003