Sư
Thiện Chiếu
Thích Tuệ Sỹ
---o0o---
Vào khoảng trước hay sau năm 1945 gì đó, nay không
nhớ rõ; phải nói thực rằng đấy là thời gian đánh dấu một
chuyển hướng quan trọng trong đời sống của tôi. Qua một thời bôn
tẩu, lúc này tôi rất thấm thía cái ý nghĩa của sự mệt mỏi. Con
ngựa chứng đã đến kỳ mất hết phong độ hung hăng của một dạo.
Rừng núi âm u, hùng vĩ, chỉ còn nghe đâu những tiếng vọng mơ hồ.
Trong lúc lều tranh của ông cha mấy đời để lại, từng buổi chiều,
tôi bắt ghế ngồi nhìn về rặng núi Đâu Mâu ở phía Tây, cảm
giác sự thất bại và sự sụp đổ của những ngày nung cái khí
phách cuồng vong. Cứ tưởng con mắt mình chẳng còn cơ hội nào để
trông thấy những lớp bụi đường, đành để cho thân và danh cùng
mục nát với cỏ cây tại chỗ này. Ấy thế mà, sự đời vẫn có
những cơn biển dâu kỳ lạ.
Chẳng mấy chốc sau đó, con tàu lạc phách lại lăn
bánh nữa. Tự thề rằng, từ nay, dù có đi đâu, cũng sẽ chỉ đi
trong một tâm tư tịch liêu. Lời thề này cho đến bây giờ, có lẽ
vẫn còn hiệu lực.
Năm đó, gần ngày Tết, tôi ghé lại thăm một
người bạn, bấy giờ đang ở vùng Đồng Ông Cộ, tỉnh Gia Định.
Cũng là một bọn lỡ vận và thất chí như nhau. Tuy vậy, không ai
dám cất tiếng bảo "Trời hại ta rồi". Bạn già như chúng
tôi có lẽ ai cũng muốn nhớ ít mà nên nói nhiều. Cho nên, tâm
sự tràng giang đại hải cứ theo gió mà bay mất.
Đó là nói riêng cái tâm sự giang hồ và những
cuồng vọng của tuổi thanh xuân. Nhưng tâm sự văn chương có lẽ
không phải là chuyện đáng quên hay đáng nhớ. Sẵn dịp đó, tôi
làm tặng ông bạn già hai câu đối chữ Nho, để treo coi mấy ngày
Tết. Nhờ vậy mà tình già không nhạt nhẽo lắm. Nay xin lục lại
mấy câu đó cung hiền chư phương độc giả thưởng thức chơi :
Chích lý thiên trùng ẩn ước triêu huy, tà cốc khẩu
Song kiều tuyệt lãnh mông lông thệ thủy trục vân
không
Ông bạn già tôi rất lấy làm thưởng thức, sai xắp
nhỏ chạy ra Lăng Ông Bà Chiểu kiếm coi thầy đổ nào đó viết
chữ trông được, thuê viết lên giấy hồng điều, để treo mấy
cái cột trống giữa nhà, thêm một chút phong vận cho những cuộc
đối ẩm khuya và chiều.
Xắp nhỏ trở về, mang về không những chỉ hai câu
đó, mà còn thêm hai câu nữa. Chúng tôi không hiểu ất giáp gì
hết. Hỏi ra, mới hay là ông thầy đồ kia có nhã ý tặng thêm hai
câu. Coi lại, té ra là hai câu dịch nôm như thế này :
Một chiếc dép đi nghìn trùng, thấp thoáng nắng mai
nghiêng cửa động ;
Đôi cánh non trên vạn nẻo, mịt mù nước cuộn đuổi
trời mây.
Chúng tôi cao hứng vô cùng. Một mặt sai xắp nhỏ
chạy ra mời ông thầy đồ về nhà chơi. Một mặt sai sắm sửa thêm
một ít thức nhắm và mua thêm rượu ngon.
Gần trưa thì khách tới. Chủ khách nhìn nhau sửng
sốt. Chả lẽ tuổi già yếu kém hóa ra mắt mờ lệch sao đây ? Hỡi
ôi, há không phải là cố tri sư Thiện Chiếu đấy ư ? Sao lại nông
nỗi trong lớp hình hài này ?
Sư vốn con nhà trưởng giả ở Kinh Thành. Xuất gia
từ nhỏ. Cốt cách tài hoa, nên càng lớn càng tự thị. Sở học
rộng rãi. Nhất là về kinh điển nhà Phật thì coi như độc bộ vũ
lâm.
Thuở đó, bọn tôi dăm bảy người, mỗi người theo
một chí hướng. Ai cũng mong mỏi đem cái hùng tâm tráng khí của
mình ra mà thi thố trong thời buổi điêu linh nhục nhã của quê
hương. Trên những bước đường xuôi ngược Kinh Thành là nơi gặp
gỡ thường xuyên. Cứ mỗi lần đoàn tụ đủ mặt, chúng tôi kéo
nhau đến sư Thiện Chiếu. Sư nói chuyện rất sôi nổi và lôi cuốn.
Đời sống vẫn tỏ ra phóng khoáng, nhưng chung quanh sư như đã bao vây
sẵn một bức tường kiên cố, chúng tôi không làm sao xuyên thủng
được. Có lẽ vì sở kiến quá cách xa nhau.
Cho đến lúc mưu sự chung của chúng tôi bị tan rã, ai
nấy tìm đường chạy trốn. Một trong các người bạn của tôi, anh
Bát K? lúc đào vong đã tìm đến sư, nhờ phương tiện sư, được
gởi đi lẩn tránh tại một vùng quê heo hút. Kể từ đó, anh em
mỗi người một ngả, mất hẳn liên lạc. Mãi về sau mới biết
được tin tức hoạt động của một vài người. Sư Thiện Chiếu thì
bây giờ mới gặp lại. Riêng anh Bát K? tôi chỉ nghe được qua
lời sư Thiện Chiếu nhân lúc tái ngộ này mà thôi.
Bát K?là đàn anh, thủ lãnh đại ca của chúng tôi
trong mưu đồ đại sự. Khi thất bại, đào vong, anh vẫn tin tưởng và
chờ đợi một cơ hội khác. Những ngày đào vong, anh lấy khung cảnh
nhỏ hẹp của gia đình làm chỗ trú ẩn tinh thần. Con người anh có
những đam mê mù quáng. Hoạt động chính trị thì đam mê lý tưởng
của mình đến độ quên hết dự đoán trước những gì mà biến
chuyển thời cuộc phải có. Đời sống gia đình đưa anh đến các đam
mê cuồng loạn khác. Cái đó tôi biết chắc là vì bản tính đam
mê, chứ không phải vì thất chí. Chẳng mấy chốc, gia đình đổ vỡ.
Anh dành ôm hận bỏ đi. Đó là đi liều, vì phải tránh né đủ mọi
thứ. Anh đi từng đoạn đường, lần mò cho đến vào tại Sài Gòn.
Rồi một đêm kia, sư Thiện Chiếu bỗng gặp anh trong dáng người đày
đọa phong trần, mình đã khoác áo làm sư. Vì anh phải làm như vậy
mới tránh được sự theo dõi suốt cả đoạn đường từ Sài Gòn
trở ra Huế.
Đêm đó, anh nghỉ lại với Thiện Chiếu, nhưng không
hề đả động đến mục đích trở về Huế của mình. Theo lời sư
Thiện Chiếu, đó là đêm đầu tiên sư khám phá sức nhẫn nại
của một con người đầy chất đam mê mù quáng này. Thất bại và
đau khổ làm cho gương mặt anh rạng rỡ hẳn lên. Có lẽ phải là
người đa cảm như sư Thiện Chiếu mới thấy được nét thiên thần
trên gương mặt trẻ thơ đầy nước mắt. Cái thất bại lớn, không
phải là những dự tính bất thành, hay những khát vọng và đam mê
cuồng nhiệt không được thỏa mãn. Sự thất bại chính ở chỗ mình
chưa nếm được sự thực của đau khổ. Ước vọng dù đạt được
hay không đạt được, luôn luôn vẫn là ước vọng Phải bị bức
bách đến chỗ kỳ cùng khổ lụy, mới thấy rõ cái đam mê cuồng
nhiệt của mình nó như thế nào. Sau đêm đó, Bát K?từ gìã ra
đi, biệt tích.
Vài tháng sau, Thiện Chiếu lên dường vào Nam. Tôi
có cảm giác sư bỏ đi trong con mắt hùng thị cô độc của mình. Tài
hoa mà giấu kín, nó chỉ làm khổ mình trong một cõi mộng cô liêu
mà thôi. Đem tài hoa ra thi thố, thì nó lại đày đọa mình trong một
rừng khổ lụy.
Sư không nói rõ, nhưng qua lời nói, tôi cũng đoán
được lần đi đó, sư cũng đã làm nên sự nghiệp đúng như dự
tính dưới một danh hiệu khác.
Cái con người này, từ dạo trước, hễ mỗi lần
mở miệng là phảng phất lý tưởng giải thoát. Đời sống không
chút ràng buộc, ngay cả qui luật nhà chùa cũng không tỏ ra ràng
buộc sư, cho nên chúng tôi hồi đó không hiểu sư muốn giải thoát
cái gì. Sao sáng suốt như sư mà không giác ngộ trước cái nhục
nhã điêu linh của đất nước; để thực hiện lý tưởng giải
thoát ở đó, cho chúng tôi nhờ cậy được nhiều ?
Tôi hỏi hoàn cảnh hiện tại, và nguyên nhân nào
đưa đẩy con người tài hoa xưa kia đến tình trạng như vầy. Bấy
giờ, không phải là sư Thiện Chiếu, mà là một cụ đồ Nho viết
mướn, mỉm cười. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy mình đau khổ. Ngoài
sáu mươi tuổi, ý nghĩa của đau khổ là gì nhỉ ?
Sau buổi cơm trưa, chúng tôi cố cầm ông bạn cố tri
này ở chơi ít hôm. Nhưng ông nhất quyết từ chối. Hỏi thăm nơi
trú ngụ, cũng không nói. Đến nay, cũng đã; mấy năm rồi, tôi
không biết hỏi thăm ai về sư Thiện Chiếu ngày xưa hay cụ đồ viết
mướn ngày nay nữa.