Truyện Cổ Phật Giáo
Tập 4
Thích Minh Chiếu
Sưu tập
---o0o---
Phần 4
Mượn cớ xin sữa hàng phục
ngoại đạo
(^)
Tại nước Duy Da Ly, có
một người Phạm Chí tên là Ma Da Lợi, nhà rất giàu có mà theo ngoại đạo,
hàng ngày công kích Phật giáo. Một ngày kia, Phật muốn làm cho tên Ma Da
Lợi sanh lòng kính ngưỡng, mới sai ông A Nan đến nhà ông ấy mà xin sữa.
Ma Da Lợi tự nghĩ rằng:
“Ta với Phật khác hẳn tôn giáo, nếu ta cho sữa thì người ta tưởng rằng ta
đã tùng phục, chi bằng ta chỉ con bò cái dữ mà có tính hay húc người cho A
Nan vắt lấy sữa để nó húc chết cho nhục đạo chơi”. Nghĩ như vậy rồi, Ma Da
Lợi sai con dẫn ông A Nan đến chỗ con bò dữ hay húc người.
Khi ông A Nan đến gần
con bò cái, ông tự nghĩ rằng: “Thầy ta đã dặn rằng phàm đã là Sa Môn không
nên dùng tay vắt sữa, nay ở đây không có ai vắt giúp thì ta biết liệu làm
sao?”.
Ðương lúc ông A Nan ngẫm
nghĩ như vậy, bỗng đâu có một vị Ðế Thích hóa làm người Phạm Chí tuổi trẻ
đứng bên con bò cái, ông A Nan liền nói: “Xin ông nặn giùm tôi thì tôi cảm
ơn!”. Phạm Chí tức thì tiếp lấy cái bình bát, lại bên con bò dữ mà nặn lấy
sữa, con bò đứng yên không dám làm gì cả.
Ông A Nam được sữa, cám
ơn Phạm Chí, từ tạ Ma Da Lợi rồi vui mừng cầm bình sữa đem về dâng Phật.
Ma Da lấy làm lạ nghĩ
rằng: “Bò của ta lâu nay thật là dữ tợn, vì sợ nó húc nên không ai dám lại
gần nó cả, cớ gì mà nay lại hiền lành như vậy, đây chắc là nhờ đức của mấy
môn đệ Phật cảm hóa nó ra thế hẳn. Ðạo đức của môn đệ mà còn như vậy,
huống chi là cái đức thần thông của Phật chắc còn rộng lớn biết là nhường
nào?”. Từ đấy về sau, Ma Da Lợi mới vui mừng tín ngưỡng theo Phật.
Khi Phật dùng sữa rồi
mới giảng rằng: “Con bò mà A Nan mới lấy sữa về cho ta đó, nguyên ngày
trước là người si mê chẳng tin Phật pháp, thường khinh rẻ các Sa Môn, nên
khi chết rồi, phải đọa làm thân con bò trải đã 16 kiếp rồi, nay mới nghe
danh hiệu của Phật mà chịu cho người vắt sữa để cúng Phật. Do nhân duyên
ấy, rồi nó sẽ thoát khỏi mọi sự khổ báo trong ba đường ác, và được làm
người tu hành, tinh tiến trải qua nhiều kiếp rồi sẽ thành Phật hiệu là Nhũ
Quang Như Lai.
TÂM MINH
“Hạnh phúc
thay cho chúng ta, sống không hận thù giữa những người hận thù”.
Gieo gió gặt bão
(^)
Hồi ấy, cách đây hơn
2500 năm, người ta tính trên trái đất Ấn có đến 96 học thuyết và giáo
phái. Tôn giáo nào cũng tự hào lý thuyết mình là đúng, là hay rồi tìm mọi
phương để bành trướng. Trong số có một phái tôn thờ quỷ thần, thủ lãnh là
một bà mập mạnh, có giọng nói oang oang, lại thêm có tài hùng biện. Nhờ
thế mà phái ấy làm chủ được một vùng khá rộng.
Hôm nọ, một tin rúng
động từ xa đưa đến: Thái tử Tất Ðạt Ða đã chứng thành đạo quả ở gốc cây Bồ
Ðề, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Hiện Ngài đã bắt đầu đi truyền giáo. Người
theo Ngài rất đông. Lý thuyết Ngài dạy là hễ gây nhân nào là hưởng quả ấy.
Cuộc sống của mọi người đều do bàn tay của họ sáng tạo. Con người không
thể là trò chơi của các đấng thần linh. Hay tin ấy, bà thủ lãnh rất đỗi lo
sợ. Bà lo vì ảnh hưởng của đức Phật càng lan rộng tất đạo của bà sẽ hết
người tôn thờ. Am đền của bà sẽ trở nên “hương tàn bàn lạnh”. Bà sẽ hết
đất để sinh nhai. Nhưng lo cũng không khỏi, cái gì đến tất sẽ đến, tín đồ
của bà hướng về đức Phật mỗi ngày mỗi đông. Ăn ngủ không yên, bởi dòng suy
tưởng chi phối. Bà mong có phương pháp thần hiệu để hạ uy tín đức Phật.
Ðêm hôm ấy, trằn trọc
mãi không ngủ, bà đánh thức các môn đồ dậy lo cho bà ăn thật sớm.
Thấy nỗi thắc mắc và lo
toan hiện rõ trên nét mặt của bà, các môn đồ hỏi lý do. Bà cho hay là sáng
ngày bà sẽ đi sỉ nhục đức Phật. Bà khuyên môn đồ giữ vững đức tin. Bà hứa
với họ rằng, bà sẽ cầu xin đấng thần minh ban phước cho bà triệt hạ uy tín
đức Phật.
Cơm nước xong, không
gian đang mù tỏa ban đêm, bà hăm hở lên đường trong niềm hy vọng. Vài giờ
sau, mặt trời vừa xuất hiện, soi sáng trần gian bà đã đến nơi đức Phật
thiền định, bà la rầy khiêu khích dùng lời thô tục mắng nhiếc đức Phật.
Mặc cho bà quát tháo, đức Phật vẫn ngồi yên lặng.
Thật là hai thái cực!
Thấy Phật không trả lời,
bà nghĩ là Ngài đã thua cuộc và chứng tỏ rằng ngài quá ương hèn trước áp
lực của người khác. Như thế, Ngài là người không đáng cho mọi người kính
trọng và tôn thờ. Do đó bà càng làm già hơn nữa. Nhưng lúc mặt trời vừa
đứng bóng, bà mệt lả, vì bụng đói, khát nước và rát cổ. Bà ngồi phịch
xuống đất và suy gẫm. Sau cùng thua buồn thua kiện, bà đến hỏi đức Phật:
-
Ông kia,
sao tôi la rầy ông từ sáng sớm đến giờ mà ông không nói gì cả. Thường
thường tôi mắng ai, tôi một thì họ mười. Trái lại tôi chưa gặp ai như ông,
mặc cho người khác nguyền rủa.
Cơ duyên đã đến, đức
Phật xuất định, dịu dàng cất tiếng:
-
Ta xin hỏi
ngươi một điều này: một hôm nọ, nhà ngươi có giỗ, ngươi mang bánh cho hàng
xóm, nhưng họ không nhận, thế thì bánh ấy về ai?
-
Ồ! Nghe
thiên hạ đồn, ông là bậc giác ngộ, trí tuệ tuyệt vời, song giờ đây nghe
ông hỏi, tôi nghĩ buồn cười quá, tôi mang cho hàng xóm, nhưng họ không
nhận vậy thì tôi mang về. Tôi giữ lại cho gia đình tôi ăn chứ nó về ai nữa
mà hỏi. Ông thật là điên rồ!
Vẫn bình tĩnh, dịu dàng,
đức Phật lại nói:
-
Ngươi mang
bánh cho hàng xóm nhưng họ không lấy thì ngươi mang về, cũng như thế, từ
sáng đến giờ ngươi biếu ta không sót một tiếng gì nhưng ta không lãnh, vậy
những cái ấy tự trở về với ngươi tất cả. Ðiều ấy có khác gì kẻ cầm đuốc đi
ngược gió, tất sẽ cháy tay, kẻ đứng ngược gió vãi bụi tất sẽ lấm mình,
hoặc kẻ ngửa mặt lên không trung mà nhổ nước miếng tất nước miếng sẽ rơi
vào mặt.
Suy gẫm một hồi, bà ta
xác nhận rằng, mình hại người, tội lỗi về sau phải chịu đó là thứ vô hình
mình không thể thấy, song hiện tại mình quá ư lỗ lã. Xưa nay mình không ăn
sáng, nay phải mất một bữa cơm, đó là điều lỗ thứ nhất. Sáng nay bỏ mất
một buổi làm ăn, đó là điều lỗ thứ hai. Khát nước, bụng đói, rát cổ, nhưng
trưa nay về không thể nuốt được cơm nước, đó là điều lỗ thứ ba. Với sự mệt
mỏi, dầm sương phơi nắng từ khuya đến giờ, thế nào cũng mang bệnh. Nếu
bệnh tất phải bỏ làm ăn tốn thuốc men, phiền lụy đến thân thuộc, đó là
điều lỗ thứ tư. Sau phút suy gẫm bà cảm thấy đức Phật là một bậc có sức
mạnh vô song khôn hơn mọi người, bà hết sức khâm phục và trở nên hòa dịu.
Bà đến qùy trước đức Phật cầu xin sám hối lỗi lầm, xin quy y làm môn đệ và
nguyện sau khi trở về sẽ dẹp thần tượng, hướng dẫn môn đồ trở về con đường
chân chánh.
Trên đường về, người đệ
tử của đức Phật – bà thủ lãnh của đạo quỉ thần miên man nghiệm lời Phật
dạy. Ðể dằn sự hung bạo quen thói của mình, đồng thời để nói lên ý nghĩa
của lời Phật dạy, bà ta lặp đi lặp lại:
“Gieo gió, gặt bão”.
MINH TUỆ
“Mặt trời còn mọc, quả đất còn xoay, thì Ðức Từ
Bi Trí Tuệ bao giờ cũng thắng bạo tàn độc ác... Chân lý sẽ đánh tan tà
thuyết, bóng tối sẽ tiêu diệt trước ánh sáng huy hoàng của bình minh”.
Truyện
chàng Lương Cầu
(^)
Ðời nhà Minh, ở tỉnh
Quảng Ðông, làng Huỳnh Cang, có một danh sĩ tên là Lương Cầu, cha mẹ mất
sớm, gia tư chỉ có hai khoảnh đất đủ tự cung cấp.
Ngày đêm ông chuyên đọc
kinh sử và dạy học, kiếm được bao nhiêu tiền thì mua chim cá phóng sanh,
cư xử đúng câu châm ngôn của ông là “HÀNH THIỆN CHỈ ÁC, GIỚI SÁT CẤM DÂM”
mà ông viết trên giấy và dán bên chỗ ngồi.
Có người bảo ông theo
đạo Phật. Ông cãi nói: “Ðạo nho cũng giới sát và cấm dâm như đạo Phật
vậy”. Xưa vua Thang đi săn, mở lưới một mặt cho cầm thú, vua Văn Vương vét
ao thả cá và lập vườn nuôi chim, Ðức Khổng Tử chỉ câu làm vui chớ không
thèm móc lưỡi, còn Thầy Mạnh cấm lưới chài, chẳng cho bắt cá trong hồ ao.
Ðó là về giới sát, còn về cấm dâm, thì sách nho há không nói: “Vạn ác dĩ
dâm vi thủ”, “Lên án tội dâm, tức là cấm đó”.
Có người lại hỏi vặn:
“Không gần đàn bà thì không con nối hậu” nhà Nho không sợ bất hiếu sao ?
Lương Cầu đáp: “Xưa Sào Phủ, Bá Di, Thúc Tề, Hứa Do đều vô hậu cả” nhưng
đến nay thiên hạ còn khen, hoặc xưng “Tỵ thế cao nhơn” hoặc xưng: “Thanh
phong thiên cổ”. Còn vua Nghiêu, vua Thuấn có con mà là những con ngỗ
nghịch, thì thử hỏi chỗ nào hiếu, chỗ nào không hiếu”.
Ðến đời Khương Hi năm
thứ 9, tháng 6, đêm mồng 8, ông chiêm bao thấy quỉ sứ đến bắt. Ông nói:
“Tôi không sợ chết và cũng chẳng tiếc thân”. Nhưng sách có nói: “Nhân Từ
giả thọ” người có lòng nhân từ thì sống lâu tôi là người dứt ác làm lành,
không sát sanh mà còn lại phóng sanh, cớ sao tuổi tôi mới 41 mà phải chết?
Vậy xin phiền hai ngài về tấu với Diêm Vương coi ngài định lẽ nào?”.
Hai quỉ sứ nghe lời ra
về, rồi cách vài bữa sau trở lại cho Lương Cầu nằm mộng và đáp rằng: “Diêm
Vương phán thế gian chỉ biết lẽ “Thiện ác quả báo” trong một đời hiện tại
mà thôi, chớ biết lẽ “Thiện ác quả báo” trong ba đời là quá khứ, hiện tại
và vị lai. Vì chỗ đó cho nên Phật có dạy: “Muốn biết kiếp trước tạo nhân
thế nào, thì xem quả báo đời này, còn muốn biết quả báo kiếp sau thế nào,
thì xem những nhân tạo ở đời này”. Lương Cầu kiếp trước không có làm lành,
chỉ tạo những tội sát sanh, nên kiếp này chỉ hưởng thọ chừng đó thôi”.
Lương Cầu nghe mấy lời,
bèn theo quỉ sứ đi. Trong chốc lát thấy đường gai gốc, chỗ cao chỗ thấp,
thực nguy hiểm gập ghềnh, ông hỏi quỉ sứ có đường nào khác dễ đi hơn
không? Quỉ sứ đáp chỉ có một đường dễ đi mà lại gần, tên là “Báo oan
cảnh”, nhưng người có tội đến đó sẽ bị cầm thú làm trở ngại và sách nhiễu,
e không tiện. Nghĩ mình vô tội, Lương Cầu xin dẫn đi đường ấy. Quả thật,
khi đến nơi, cầm thú trông thấy Lương Cầu thì lật đật nhường đàng tránh,
con thì ngoắt đuôi, con thì chớp cánh. tỏ vẻ hoan nghênh còn những ai phạm
giới sát sanh thời bị chúng lấy sừng mà chém, lấy chân mà đạp, hay mổ mắt,
xé da, rứt thịt, v...v...
Qua khỏi nơi đây là một
cái chợ, kẻ bán người mua nhộn nhịp như cảnh thế gian. Quỉ sứ dẫn ông vào
quán và mời ông ăn gỏi uống rượu. Ông từ chối nói không quen uống rượu.
Quỉ sứ khen ông là bực thiện sĩ.
Ra khỏi chợ là trời vừa
tối, chợt thấy một tòa cổ miếu rất tôn nghiêm, bông hoa rực rỡ, thực là
thắng cảnh. Trước cửa có treo một bảng vàng khắc mấy chữ “Sắc phong Long
Mẫu miếu”.
Quỉ sứ dắt Lương Cầu vào
đó nghỉ. Ðến độ nửa đêm ông thấy một nàng ngọc nữ, tay trái xách một lồng
đèn, ngọn sáng ngũ sắc, tay phải cầm một cái kim bài đề hai chữ “Thỉnh
nhập”. Ngọc nữ cất tiếng truyền “Lịnh Thánh Mẫu mời thiện sĩ vào hậu viện
dạy việc”. Lương cầu vâng lời đi theo vào đến sau thì thấy một vị Thánh
Mẫu cho phép ngồi và hỏi : “Bình nhật thiện sĩ ở trên dương thế học đạo
nào và tập nghề gì?”.
Lương Cầu thưa: “Tôi học
đạo nho và dạy học trò, làm điều lành lánh điều dữ và giới sát cấm dâm,
chỉ bấy nhiêu đó thôi”.
Long Mẫu khen nhưng hỏi
tại sao đã giữ giới được như thế mà không qui đầu về Phật pháp. Lương Cầu
xin cho biết lợi ích của Phật pháp.
Long Mẫu đáp: “Ðạo Phật
là một đạo tối tôn vô thượng, kẻ nào không biết qui về Phật pháp ví chẳng
khác con voi lội xuống bùn, càng lội xuống càng sâu. Còn người nào biết
theo về với Phật thì chẳng khác mặt trời mọc trên biển, càng cao càng
sáng, chẳng những khỏi đọa vào nghiệp Tam đồ, mà còn thoát khỏi miền Tam
giới”.
Lương Cầu bèn than: “Nay
Diêm Vương đã tróc mạng tôi xuống đây, làm sao trở về dương thế mà tu hành
cho được?”.
Long Mẫu dạy: “Như người
có lòng quy đầu về Phật pháp thì đứng giữa đây, chấp tay niệm “Nam Mô A Di
Ðà Phật, nguyện cho kiên cố, rồi đến điện Diêm Vương phải trần tình thiệt
tấu, thì chắc Ngài hoan hỷ mà cho ngươi cải tử hoàn sanh”.
Lương Cầu nghe lời, bèn
đứng dậy chắp tay niệm Phật. Long Mẫu khen và lấy chén vàng, rót nước
trong bình lưu ly, sai thị tỳ phụng cho Lương Cầu uống. Bà lại khuyên:
“Ngươi uống chén nước đó thì tâm thần khỏe khoắn trí tuệ mở mang, coi đâu
nhớ đó, thiệt nên lợi ích”. Lương Cầu tiếp chén nước uống vào quả nhiên
tinh thần sảng khoái, quên đói quên mệt.
Khi ấy, trước viện đã
rựng sáng, quỉ sứ vào giục đi. Ông đứng dậy từ tạ Long Mẫu, rồi theo chân
quỉ sứ. Ði một hồi lâu, thấy một tòa thành quách nguy nga, lâu đài quảng
diệm. Quỉ sứ dắt ông vào thì đây là điện vua Diêm Vương, hai bên tội nhân
chật ních, kẻ gông người xiềng, ra dáng khổ cực không kể xiết.
Bỗng đâu ông nghe có
tiếng dạy dẫn ông đến trước Diêm Vương, bảo tra sổ bộ thì Phán Quan thưa
Lương Cầu được 41 tuổi, trong bộ ác thì chỉ có hai việc nhỏ nhất, còn
trong bộ thiện thì đủ 10 điều lành. Vua khen: “Như thế thì thật là người
thiện nhân đáng sanh về thiên giới. Vậy dẫn chàng đến tạm trú nhà Thiên
Ðường, đợi trên Ðao Lợi sai tiên Ðồng, Ngọc nữ xuống rước”.
Lương Cầu nghe phán, quì
xuống tâu rằng: “Nay tôi chưa được 41 tuổi thì tôi cũng được an mạng,
nhưng tôi còn một đại nguyện chưa xong, xin Ðại Vương mở lượng từ bi cho
tôi cải tử hoàn sanh đặng về dương gian làm cho mãn nguyện, rồi tôi sẽ
xuống. Vua hỏi chuyện chi, Lương Cầu đáp: “Nguyện quy đầu Phật Pháp”.
Vua cười: Ngươi ở dương
thế đã 41 năm, sao không tu, để nay xuống âm ty rồi lại xin trở về? Lương
Cầu đem sự thật trình bày là lúc ở thế chỉ học đạo Nho mà chư hiền đều
công kích đạo Phật, chỉ mới đây nhờ Long Mẫu dạy bảo mới hiểu Phật Pháp là
con đường duy nhất nên theo.
Vua phán: “Thế thì phúc
đức nhà ngươi lớn lắm. Ngươi đã phát nguyện quy đầu Phật Pháp thì chư Phật
và Bồ Tát đều hoan hỷ. Ta đây cũng hoan hỷ luôn, tăng thọ cho ngươi một
giáp nữa đặng về dương gian mà tu học”.
Lương Cầu tạ vua rồi
theo Phán Quan dạo khắp các tư hình, lật án này, dở bộ nọ, xem đâu nhớ đó,
không quên một chữ, không sót một câu. Xong xuôi, Phán quan giao ông cho
quỉ sứ dắt về dương gian.
Hồn nhập vào xác, Lương
Cầu ngồi dậy, tinh thần khỏe khoắn, dường như chiêm bao mới tỉnh.
Cách vài bữa sau, ông
sắm đủ trầm trà và hoa quả, bèn thiết một đàn tràng giữa nhà mà tạ ơn bà
Long Mẫu, rồi cạo đầu nhuộm áo, bỏ nhà vào núi ẩn tu. Sau ông thành một vị
Cao Tăng, sống thêm được 52 năm nữa, ở tu tại tỉnh Quảng Ðông. Do việc của
ông mà trong làng Huỳnh Cang, nguyên quán của ông, có câu tương truyền: Bỏ
nho theo Phật.
MINH TỊNH
“Ta đã chết
nhưng chẳng bao giờ mất
Theo luân
hồi cũ, mới bấy nhiêu thân?
Trong lục
đạo nghiệp duyên qua xứ xứ
Lành hay
hung tùy những nghiệp xoay vần”.
Hạt cơm cúng
Phật
(^)
Ngày xưa, ngoài thành Xá
Vệ có một nhà nữ Phật tử thuần thành, nhưng bà ta lại gặp một người chồng,
không tin có đạo đức, nhân quả, tội phước, dù bà ta nhiều lần giảng giải.
Một hôm Ðức Thế Tôn,
mang y ôm bát đến nhà bà khất thực, gặp lúc chồng bà vắng nhà, bà mang đồ
ăn ra cúng dường Ðức Thế Tôn, rồi đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, Ðức Phật chú
nguyện cho bà: “Gieo một gặt mười, gieo mười gặt trăm, gieo trăm gặt ngàn.
Nhờ công đức bố thí bát cơm này, thí chủ sẽ được vô lượng phước báu”.
Trong lúc Thế Tôn đang
thuyết giáo, thì người chồng từ thành Vương Xá trở về. Nghe Ðức Phật nói
như vậy, chẳng hiểu nghĩa lý gì cả, anh sấn tới trước Ðức Phật:
-
Này Sa Môn
Cù Ðàm, làm gì mà được nhiều như vậy? Sa Môn nói láo, Sa Môn nói không
thật! Sa Môn hãy đi khỏi chỗ này đi.
Dù anh ta ăn nói lỗ
mãng, nhưng Ðức Thế Tôn vẫn mỉm cười. Ngài ôn tồn bảo:
-
Này anh,
anh từ đâu, mà về đây?
-
Từ trong
thành về.
-
Anh đi
ngang qua khu rừng, có thấy cây Ni Câu Loại không?
-
Thấy.
-
Anh thấy
nó bao cao?
-
Cả hàng
trăm thước.
-
Mỗi năm nó
cho được bao nhiêu trái?
-
Ồ không kể
hết, chỉ có đem thúng mà lường thôi.
-
Này anh,
đầu tiên chỉ có một hạt bé tí mà sanh ra cây Ni Câu Loại cao hàng trăm
thước, cành lá sum suê chiếm một khoảng rừng rộng lớn, mỗi năm nó cho ta
hàng trăm ngàn quả. Này anh, đó là loài vô tri còn như vậy huống là thí
chủ hoan hỷ cúng dường cho Như Lai một bữa ăn, phước đức ấy không thể đo
lường được.
Nghe Ðức Thế Tôn thuyết
giảng, anh chàng hồ đồ ấy trong tâm bừng tỉnh, rất lấy làm ăn năn hành
động thô ác của mình vừa rồi, liền đến quỳ dưới chân Thế Tôn cầu xin sám
hối.
-
Kính bạch
Thế Tôn, kính mong Thế Tôn từ bi tha lỗi cho con, từ đây con xin quy y
Phật, Pháp và Tăng mong Thế Tôn nhận cho con làm Ưu Bà Tắc.
-
Lành thay
cư sĩ.
Ngay tại chỗ, hai ông bà
đều chứng quả Dự Lưu.
GIỚI ÐỨC
“Cái gì tôi
đã tiêu xài, bây giờ không còn nữa.
Cái gì tôi
đã mua sắm, bây giờ tôi phải để lại cho ngườI khác.
Chỉ có cái
gì tôi đã cho là còn thuộc về của tôi”.
Vakkali
(^)
Vakkali là một thanh
niên Bà La Môn ngụ tại thành Xá Vệ. Thời niên thiếu và thanh xuân của
chàng trôi qua bình thản trong tình yêu của cha mẹ và các bạn hữu đồng
trang lứa. Cho đến một hôm, tâm tư của chàng trẻ tuổi bỗng dưng bị xáo
động vì hình bóng của một Sa Môn áo vàng. Tư thái uy nghiêm, cốt cách cùng
tướng hảo vô song của vị tu sĩ khiến chàng trai vô cùng kinh ngạc. Vakkali
đứng ngây người ra chiêm ngưỡng phong cách vị tu sĩ và cảm thấy lòng nhen
nhúm một niềm yêu kính vô bờ đối với con người xa lạ đó. Chàng nghĩ thầm:
-
Quái lạ!
Không ngờ trong cõi đời này, lại có người đẹp trai lạ lùng đến thế. Ôi!
Ước gì ta được ở kề cận bên người để nhìn cho thỏa thích.
Vakkali dọ hỏi và được
biết rằng vị Sa Môn ấy xưa kia là một ông Hoàng vương giả, đã từ bỏ ngai
vàng đi tầm đạo và đã giác ngộ. Người ta thường gọi Ngài là Sa Môn Cồ Ðàm
và hàng đệ tử thì cung kính gọi Ngài là Thế Tôn.
Vakkali bèn xin xuất
gia vào Tăng đoàn sống đời khất sĩ. Vì mục đích xuất gia của chàng không
lấy gì làm cao xa cho lắm nên hàng ngày, ngoài những giờ đi bát cần thiết,
Tỳ kheo Vakkali luôn luôn tìm một chỗ ngồi thuận tiện để được chiêm ngưỡng
từ dung đức Ðạo Sư cho thỏa thích. Thầy chẳng quan tâm gì đến việc học
kinh tọa thiền hay những bổn phận của một chú tiểu sơ cơ. Ðấng Ðạo Sư biết
rõ tâm niệm của Vakkali nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi, như chờ đợi ngày
trăng đến rằm thì tròn vậy. Và ngày ấy đã đến.
Một hôm đức Ðạo Sư quay
lại bảo Vakkali, khi chàng đang say đắm nhìn Ngài:
-
Này
Vakkali đâu có gì thích thú khi nhìn ngắm một hợp thế bất tịnh gọi là thân
ta? Chỉ khi nào Vakkali nghe lời Như Lai dạy, thấy được pháp sinh diệt thì
mới được gọi là thấy Như Lai.
Nhưng bất kể lời khuyên
của Phật, Vakkali vẫn giữ nguyên tâm niệm và thái độ cũ, chàng không thể
nào buông tầm mắt khỏi đức Ðạo Sư. Cuối cùng đức Ðạo Sư đành rời Xá Vệ và
cấm không cho Vakkali đi theo.
Ba tuần trăng trôi qua,
Vakkali không được nhìn thấy hình bóng và nghe pháp âm của đấng Ðạo Sư
lòng sầu khổ vô hạn, chàng tự nghĩ rằng:
“Mình đã từ bỏ gia đình
đổi lớp áo cao sang của một chàng công tử danh gia để vào cuộc sống bần
hàn khất sĩ, chỉ với một mục đích duy nhất là được gần gũi chiêm ngưỡng
đấng Ðạo Sư. Thế mà Ngài lại hất hủi ghét bỏ mình, trong khi Ngài rất mực
từ bi dịu dàng đối với tất cả chúng sinh chí đến con sâu cái kiến.”
Một hôm quá sầu não,
Vakkali nảy ra ý định quyên sinh. Chàng leo lên một đỉnh núi cao, định
buông mình xuống vực sâu cho rảnh nợ đời. Biết được ý định ngông cuồng của
người đệ tử trẻ tuổi, đức Ðạo Sư hiện thân đến gần Vakkali và cất tiếng
gọi:
-
Nầy
Vakkali hãy đến đây với Như Lai.
Vakkali run lên vì vui
mừng:
-
Có thật
chăng ? Có thật là Thế Tôn gọi con, Ngài không xua đuổi con nữa ư?
Và dưới bóng mát của một
cội cây rừng bên tảng đá, đức Ðạo Sư ôn tồn bảo:
- Nầy Vakkali! Tại sao
con có ý định quyên sinh?
-
Bạch Thế
Tôn! Vì con cảm thấy quá sầu não, quá phiền muộn. Con không tìm thấy niềm
vui nào trong đời sống khất sĩ đạm bạc nầy, ngoài việc chiêm ngưỡng tướng
mạo phi phàm của Thế Tôn.
-
Nầy
Vakkali! Niềm vui nào rồi cũng phải úa tàn. Sắc thân của Như Lai, dù là
phi phàm đi nữa rồi cũng phải chịu sự chi phối của già, bệnh, chết. Bất cứ
pháp gì trên đời nầy có sinh đều phải có diệt. Ðó là một định luật đương
nhiên. Nếu biết rõ điều ấy, ta có nên đặt hết lòng hy vọng bám víu vào
những sinh diệt ấy, để mưu cầu một hạnh phúc vĩnh cửu không bị tàn phai
chăng?
Vakkali im lặng cúi đầu,
đấng Ðạo Sư giảng trạch thêm cho chàng về tính chất phù du, tạm bợ của cái
hợp thể gọi là sắc thân Ngài. Sau thời pháp Vakkali xúc động thưa:
-
Bạch Thế
Tôn! Con đã hiểu rồi. Từ lâu con đã chạy theo những bóng dáng phù du do
tâm thức con phóng chiếu ra, lấy đó làm niềm vui độc nhất của mình. Khi
nguồn vui ấy bị cản trở con đâm ra buồn phiền, sầu khổ. Con quá si mê
không biết rằng cái gì có sinh cũng phải có diệt. Sắc thân Như Lai tuy đẹp
đẽ vô song thật, nhưng trước kia không, nay có thì thế nào cũng sẽ trở về
không. Nguồn vui của con cũng chỉ là một cảm xúc nhất thời nếu không được
nuôi dưỡng thì nó cũng phải lụi tàn. Con đã hiểu rồi và con cũng xin hứa
với Thế Tôn là từ nay Vakkali chỉ thực hành những lời giáo huấn của Như
Lai thay vì chiêm ngưỡng từ dung của Ngài như dạo trước.
-
Hay lắm!
Nầy Tỳ kheo! Nếu lòng con đầy hỷ lạc đầy niềm tin nơi lời dạy của Như Lai
thì chẳng bao lâu con sẽ đạt được hạnh phúc tối thượng.
Và thế rồi, Vakkali từ
giã đức Ðạo Sư độc cư thiền định ngay trên đỉnh núi mà chàng định quyên
sinh dạo nọ. Ðúng như lời tiên đoán của đấng Ðạo Sư, chẳng bao lâu Vakkali
đắc quả A La Hán. Từ đó đức Thế Tôn xếp Vakkali vào hàng môn đệ có lòng
tin chân thật nhất. Lời dạy của Ngài cho Vakkali trên đỉnh núi dạo nọ cũng
được kết tập vào Kinh tạng, thành câu Pháp Cú 381, lưu truyền cho đến ngày
nay:
“Thầy Tỳ
kheo nào tâm đầy hoan hỷ,
Thành tín
theo lời Phật dạy
Sẽ đạt đến
cảnh giới an lạc
Giải thoát
khỏi các hành”.
“Bởi
giấc mơ tiên con lỡ say
Lòng con
mến Phật tự bao ngày.
Ðêm nay
chuông gọi hồn con tỉnh
Phủ sạch
trần ai con đến đây”.
- o0o -
| Mục
lục tập 04 |
- o0o -
Tập 01 |
Tập 02 | Tập
03 | Tập 04
- o0o -
| Mục lục Tác giả || Tủ
Sách Phật Học |
---o0o---
Vi
Tính: Tâm Hòa, Hải Hòa
Cập
nhật : 01-10-2002