Truyện Cổ Phật Giáo
Tập 3
Thích Minh Chiếu
Sưu tập
---o0o---
Phần chín
Con trâu
(^)
Bác nông
phu vác cày lên rồi đánh trâu ra đường, vừa đi bác vừa nhẩm tính: “Còn 3
hôm nữa là ta cấy mạ”.
Bác sung
sướng vì năm nay bác được mùa, bây giờ bác còn mong đợi ở thắng lợi ở mùa
trái nữa, bác cười thầm, tay bác vụt mạnh mấy roi vào hông trâu. Bị thúc
dục trâu bết bải bước gấp trên con đường gồ ghề của nông thôn. Làng này
nằm một bên đồi hẻo lánh và hiện giờ đang ở trong cảnh yên lặng tịch mịch
của ban đêm.
Màn sương
vén dần, vừng đông vừa nhô lên khỏi đồi núi, những tia sáng đầu tiên lung
linh xuyên qua đám mây trắng, lấp lánh chiếu trên mấy rặng thông. Trước
mặt bác là cánh đồng phì nhiêu chạy dài đến tận chân đồi xa thẳm, thỉnh
thoảng đôi rạch nước ánh lên vì nắng sớm.
Tắc hò!
Tắc hò! Miệng bác nông phu lanh lảnh, con trâu nặng nề kéo, chân bác ấn
mạnh lên lưỡi cày, đất bị xẻ từng đường dài uốn cong ra hai bên, như những
lượn sóng rẻ ra trước mũi thuyền. Xa xa vài người đang cuốc lên nền trời
trong. Năm bảy con ác là khấp khểnh đớp mồi trên những sóng đất cày. Từ
phía rừng tiếng chim rải rác và gà rừng vang lên trong rừng lá rậm. Mặt
trời càng lên cao, người và trâu nướng mình trong nắng. Lưỡi trâu le dài
và nước bọt ràn rụa, mắt trâu lờ đờ vì nắng thiêu, đuôi trâu phe phẩy như
vang lơn ngọn roi vun vút của bác.
Trâu tuy đã già, nhưng sức
còn khỏe. Gia đình bác mỗi ngày mỗi lên, một phần lớn là nhờ trâu. Con
trâu này là người bạn quý hóa của bác, rất tận tụy với bác, đã cùng bác
vật lộn với cuộc sống và chịu dầm mưa giải nắng để đưa gia đình bác lên.
Bác nông phu trìu mến trâu lắm, nhưng vì quá ham công tiếc việc nên đôi
khi bác quên nghĩ đến sức khỏe của trâu cũng như sức khỏe của bác.
Cày hết
đám này, bác cày tiếp đám khác, con vật cần cù ấy vẫn hì hục theo mệnh của
bác. Cánh đồng bây giờ hoang vắng, gió bắt đầu đổi chiều. Bổng sầm lại. Từ
phương đông mây đen nghịt nặng nề kéo đến khuất mặt trời, rồi đổ mưa
xuống. Trâu và người vẫn thản nhiên cặm cụi làm việc trong mưa gió. Gió
mỗi lúc mỗi mạnh, những hàng tre ngửa nghiêng, chớp sáng loáng, sét rầm
vang. Một giờ sau mây tan dần mưa thưa hạt, rồi trời tạnh hẳn. Mặt trời
lại rực rỡ xé toang màn trời cũ. Khí nóng, hơi bốc lên làm mờ những lũy
tre trong làng. Bên kia đồi một vài con chim hót rời rạc.
Bác nông
phu thấy choáng váng đầu, người hơi tê lạnh, mắt loa lên, thả cày xuống
lần vào gốc cây đa, nằm xuống bác thiếp ngủ.
Một hồi
lâu đứng đợi mệnh lệnh, trâu không thấy bên sau cử động gì ngoảnh đầu lại
thì thấy chủ đã nằm sóng sượt dưới gốc đa, và một con cọp từ đồi mon men
đi xuống. Biết chủ mình lâm nguy, trâu vùng vằng một lúc hất văng dù một
bên đường ruộng chạy bay vào cứu chủ. Thấy trâu hung hăng cọp lui vào bụi
rậm. Trâu nhìn mãi không thấy b óng cọp, vui mừng đến húc chủ dậy. Bác
nông phu mở mắt, trâu chỉ biết ngước mặt lên phía đồi… Ðầu bác còn choáng
váng, thấy trâu đến húc mình, bác tưởng trâu thù bác, vùng dậy bác bẻ cây
đánh trâu túi bụi, chịu đựng không nổi trước những ngọn roi vô lý ấy, trâu
bỏ chạy mà không muốn phản kháng. Bác nông phu mệt lừ, vất roi bác thở hổn
hển rồi mê đi bao giờ không hay.
Trên nền
trời lam biếc, từng đám mây trắng đuổi nhau không ngừng. Gió hiu hiu thổi.
Bác nông phu ngủ ngon lành. Không dằn được lòng háo sát, một lần nữa cọp
ra khỏi bụi rậm, lần mò xuống đồi. Nãy giờ trâu buồn rầu đứng nhìn ngơ
ngác giữa đồng ruộng, bỗng quay về phía rừng, trâu hoảng hốt, vì cọp đã
đến gần gốc đa. Trâu không nhớ những giọt roi tàn bạo, mà chỉ nghĩ đến bổn
phận của mình.Trâu chạy đến như bay, cọp nhún mình định vồ lấy bác nông
phu, nhanh như chớp, bốn chân trâu nhẹ nhàng, bước đến phủ lên mình bác.
Cọp tức giận phồng mang trợn mắt, phóc qua nhảy lại cố vồ cho được mồi
ngon. Nhưng vô hiệu, mắt trâu đăm chiêu theo mọi hoạt biến của cọp để
trương sừng đối phó.
Trong khi
đó bác nông phu vẫn mê man ngáy đều đều, trong bầu không khí xâm chiếm và
kháng cự yên lặng. Cầm cự một hồi lâu, thấy không thể tấn công được nữa,
cọp nguýt trâu lần cuối, rồi trở về núi rừng. Trâu sung sướng rống lên một
tiếng mừng chiến thắng. Ðang ngủ say sưa bác nông phu giật mình tỉnh dậy,
thấy mình nằm dưới bụng trâu, bác khủng khiếp, lồm cồm, vừa bò bác vừa la:
- Làng
xóm ơi! Cứu tôi với, hắn giết tôi!
Trâu nghe
bác la vang trời, tưởng bác mừng thoát chết, không ngờ bác lấy cây roi
nguy hiểm khi nảy… Trâu vẫn thản nhiên đứng nhìn và chịu đựng những hành
động phủ phàng của bác. Vừa đánh đập vừa nhiếc mắng:
- Ðồ
phản chủ! Tao đánh chết mày.
Trên
đường về Tịnh xá, từ xa Ðức Phật đã nhìn thấy hành động độc ác gây nên
bởi sự hiểu lầm của người và nỗi oan ức của vật. Ði nhanh đến, Ðức Phật đỡ
cây roi và bảo:
- Thôi đừng
đánh nó nữa, ngươi cho ta cây roi nầy, vất roi xuống đất, Ðức Phật vuốt ve
mình trâu:
- Thế là
con hết đánh rồi.
Trâu như hiểu
lời Phật dạy cảm động, nước mắt ràn rụa.
Ðức Phật
đưa tay thoa nhẹ vào các lằn roi rướm máu trên mình trâu, Ngài ôn tồn bảo:
- Trâu ơi
con đau khổ lắm không? Nhưng thôi con đừng buồn tủi nữa, ta đã biết rõ nỗi
lòng của con – lòng trung thành mà con đã được trả lại những ngọn roi oan
khuất của chủ con.
Ðức Phật
mãi mê an ủi con trâu như quên cả bác nông phu đứng bên cạnh, Ngài nói
tiếp:
- Trâu ơi,
một lần nữa ta khuyên con đừng buồn chán và con nên biết rằng không những
một mình con, mà chính ta cũng đã nhiều lần nếm qua nỗi niềm chua chát ấy.
- Con ạ,
ta vì thương nhân loại nên ra đời cứu khổ, thế mà có lắm người không thấu
rõ lòng ta, họ đã và đang lăm le phá hoại và sỉ nhục ta. Nhưng trâu ơi, ta
không nản lòng và không cho đó là sỉ nhục, mà những điều đáng sỉ nhục là
khi nào không làm tròn phận sự của ta và không đem lại lợi ích, an vui vho
mọi người. Con cũng thế, ta khuyên con vui lên, tiếp tục chân thành giúp
đỡ khi an cũng như lúc nguy cho chủ con và cho tất cả mọi người, thì đó
chính là một phần thưởng an ủi lớn lao cho đời con. Còn chủ con thấu hiểu
lòng con hay không, điều đó không đáng kể lắm!
Nói xong
Ðức Phật xây qua bác nông phu:
- Luôn
hai lần cọp đến định vồ ngươi, mà đều được trâu chống cự để bảo vệ tính
mạng cho ngươi. Thế mà vì hiểu lầm, ngươi đã đánh đập trâu. Không tin
ngươi hãy nhìn dấu chân cọp, vừa nói Ðức Phật vừa đưa tay chỉ những dấu
chân cọp còn lại.
Giật
mình bác nông phu vang lên:
- Lạy Ngài con
không biết.
Bác chạy
đến ôm lấy trâu khóc nức nở:
- Trâu ơi.
Con hiếu nghĩa quá!
Một lần
nữa Ðức Phật thoa nhẹ mình trâu và bảo:
- Thôi ta
đi, con ở lại, con hãy làm tròn bổn phận của con nhé!
Từ giả
bác nông phu, Ðức Phật khoan thai xuống đồi. Trâu lẫn người bốn mắt ngậm
ngùi nhìn theo.
Châu Ðức
Ðốt nén tâm hương trước Phật đài,
Phổ Hiền hạnh nguyện đừng sai.
Hóa than vô số làm muôn việc,
Cứu khổ sanh linh khỏi lạc loài.
Sư
bác quản tượng
(^)
Thuở ấy,
có một chàng quản tượng rất sành nghề, bỏ nhà đi tu, gia nhập Tăng đoàn và
đi khất thực trên những con đường mà ngày xưa thầy vẫn thường cỡi voi đi.
Một hôm, dừng bước thọ thực bên bờ sông Aiiravati, thấy một gã quản tượng
non tay đang cố gắng điều phục một chú voi con, nhưng không thành công,
thầy vọt miệng nói với mấy huynh đệ đồng hành:
Luyện voi
bằng cách đó thì còn lâu nó mới nghe theo. Phải đánh nó mấy chỗ nhược da
non như chỗ này… chỗ này… thì nó mới sợ.
Gã quản
tượng nghe lọt tai, mới làm theo và quả nhiên con voi chịu phép.
Khi trở
về tịnh xá, các thầy Tỳ kheo vui miệng kể cho chúng bạn ở chùa nghe và câu
chuyện đến tai Phật. Phật gọi ông sư quản tượng đến, hỏi:
- Có phải
ông đã mách nước như thế không?
- Thưa
phải.
Phật quở:
- Này ông
thầy vô tích sự! Ông làm như vậy, nào có ích gì. Ðâu phải nhờ cỡi thú mà
người ta có thể đi đến nơi giải thoát. Chỉ có người nào biết tự huấn luyện
mình, người đó mới đến bờ giải thoát. Ông nên tự luyện mình, đừng có làm
cái trò luyện thú như vậy.
“Chẳng phải nhờ xe hay
ngựa mà đến được cảnh giới Niết Bàn. Chỉ có người tự huấn luyện mình mới
đạt được thôi”
(Pháp cú 323)
Thích Nữ Như Thủy – Như Ðức
“Nhhững ai thấu chánh pháp
Tự điều phục thân tâm
Thanh tịnh không não hại
Mới đáng gọi thượng nhơn”
Cây táo núi Thiết Sơn
(^)
Xưa, trên
núi Thiết sơn có một cây táo to lớn không biết mọc từ thời nào, chỉ biết
rằng từ xưa tới nay, chưa ai hề trông thấy cây đó có quả, dù là quả rất
nhỏ. Vì thế, nhân dân ở chung quanh vùng đều đặt tên là “bất quả thọ”.
Chí Hiếu
- một tiều phu ở miền kế cận, ngày ngày đem tấm thân gầy gò yếu đuối, lên
núi kiếm củi bán lấy chút tiền mua rau cháo về phụng dưỡng mẫu thân.
Mẫu thân anh là một bà già
hình vóc mảnh mai, tuổi ngoài lục tuần và chỉ sanh hạ ra có một mình anh.
Ít tháng nay, bà cụ bất hạnh bị đau mà nhà nghèo không có tiền thuốc thang
chạy chữa nên dần dần hóa chứng tê bại nằm liệt trên giường, khiến cho Chí
Hiếu ngày đêm nung nấu, phần thương mẹ già bệnh hoạn, phần buồn cho mình
số hẩm hiu không lo tròn bổn phận làm con.
Một tối
kia, vừng trăng hiền lành từ từ nhô lên khỏi khu rừng và tỏa đầy ánh sáng
vào gian nhà ọp ẹp của anh. Trên chiếc chõng tre, lúc này, anh đang kể
chuyện hầu mẹ để mẹ khuây khỏa nỗi niềm đau khổ, bỗng anh thấy cụ bà im
bặt không trả lời, nghe hơi thở của mẹ đều đều phát ra, anh đoán chắc hôm
nay bệnh của mẹ anh có vẻ dể chịu hơn, nên mẹ anh đã ngủ giấc ngon lành.
Nghĩ như thế, anh thấy l òng anh tràn ngập hân hoan liền khe khẽ đứng dậy
khép cửa phòng và nhẹ nhàng bước ra nhà ngoài nơi có kê chiếc giường của
anh nằm và cũng là cái bếp để thổi nấu.
Ðộng tác
đầu tiên của anh là mở toang cánh liếp chắn cửa cho ánh trăng thỏa sức
chiếu vào, anh giương to lồng ngực hít lấy không khí thì ít mà hít lấy ánh
trăng thì nhiều, anh cảm thấy khoan khoái quá bất giác thốt lên:
- Cha chả!
Ðêm nay trăng đẹp làm sao!
Nhất là khi
nhìn đến mảnh vườn sạch sẽ trước sân đương tắm dưới ánh trăng vàng, khác
nào như rải lên trên cảnh vật một tầng kim cương bảo thạch xem thấy vừa
mát mẻ vừa mỹ lệ. Những giọt sương lấm tấm bám đọng vào lá cỏ ngọn cây
lóng lánh như sao sa trông nào kém gì những hàng ngọc châu quý giá. Anh
nghĩ: “Giả thử mẹ ta được mục kích cảnh tuyệt mỹ này của tạo vật an bài
chắc người hoan hỷ không biết đến chừng nào?” Vừa nói anh vừa phóng tầm
mắt nhìn về nẻo xa, bỗng một đạo quang trắng xóa qua ánh trăng êm đềm và
bắn thẳng vào mắt anh. Hào quang đó quay mấy vòng rồi rơi xuống ngay chỗ
trước mặt anh đứng.
Chí Hiếu
định thần nhìn ra thì chao ôi! Bạch hào quang là một vị Lão Hòa Thượng!
Vị Lão
Hòa Thượng này xúng xích trong chiếc áo dài trắng tinh và điểm thêm một
chòm râu phất phơ đến rún, trắng như bạc. Chí Hiếu hoảng sợ quá, tóc gáy
dựng ngược và khắp mình gai ốc nổi đầy. Anh run lên cầm cập lưỡi líu lại
không nói được câu gì chỉ biết trố mắt sợ hãi nhìn vị lão Hòa Thượng.
Vị Hòa Thượng ôn tồn cất
tiếng bảo rằng:
- Chí
Hiếu! Con chớ có sợ hãi! Bần đạo là Hòa Thượng núi Thiết sơn lại đây với
mục đích chữa bệnh cho mẫu thân con, vì lòng hiếu thảo của con đã cảm động
Tam Bảo, nhất là lòng ấy đã phát ra từ một người con nghèo nàn như con
không tìm ra tiền thang thuốc cho mẹ già thì lại đáng cứu lắm!
Chí Hiếu
nghe xong trong lòng xiết bao hoan hỷ, liền quỳ xuống bái tạ vị Hòa Thượng.
Hòa Thượng đỡ anh dậy và vui vẻ an ủi:
Con khỏi lo ngại cho bệnh
tật của mẹ già! Hãy mau lên đỉnh núi Thiết Sơn, tìm đến cây táo cổ thụ mà
hái cho kỳ được một trái đem về dâng mẹ ăn thì bệnh chi cũng khỏi liền.
Với sự
bán tín bán nghi anh ấp úng một hồi rồi cung kính thưa cùng Hòa thượng:
- Bạch
Hòa thượng, cây táo này đã từ bao đời chưa hề có bói một quả nào thì ngày
nay có chi để hái?
Hòa
thượng hồn nhiên nhắc lại:
- Không,
hãy nghe lời bần Tăng, đừng nghi ngờ gì cả!
Chí Hiếu
bản tính chất phác chậm hiểu nên vẫn còn hồ nghi, liền hỏi lại Hòa thượng:
- Thật có
trái táo như lời Hòa thượng vừa nói không? Nếu vậy thì sung sướng quá!
Hòa
thượng vẫn vui vẻ xác nhận:
- Bần đạo
đâu có nói dối ai bao giờ! Cây táo đó sở dĩ lần này có trái là vì cảm
thông lòng hiếu của con đối với mẹ già. Vậy con nên mau mau hái trái táo
về chữa cho thân mẫu đi!
Chí Hiếu
cuống quýt , thụp lạy Hòa thươợng hai ba lần không ngớt, khi ngẩng đầu lên
thì Hòa thượng đã biến đi đâu mất.
Ðêm đó,
anh hồi hộp quá không sao ngủ được, mặc dầu anh đã cố nhắm mắt hằng giờ.
Khi gà gáy sáng lượt đầu, như chiếc máy, anh bật nhổm dậy, nhảy xuống khỏi
giường rồi xăm xăm mở cửa, đi một mạch lên đỉnh núi Thiết sơn, nơi có cây
táo “bất quả thọ” xem có trái nào chín đỏ như lời Hòa thượng đã mách bảo
đêm qua?
Khi đến
chân núi, anh sực nhớ lúc đi đã quên không sang xin phép mẹ và nói để mẹ
hay câu chuyện Hòa thượng hiện hình, anh chỉ sợ mẹ anh ở nhà, lúc thức dậy,
không thấy anh thì sốt ruột sanh ra lo ngại. Tuy nhiên, việc đã lỡ rồi,
anh đành cố mau chân đến đỉnh núi để chóng thu được kết quả đem về.
Phong cảnh núi Thiết Sơn
lúc này sương lam còn phủ kín dầy đặc, vạn vật như ngừng lại trong vũ trụ
im lìm, các loài muông rừng ra săn mồi ban đêm hầu như đã rút hết vào hang
núi, hay gốc cây không còn con nào đi lảng vảng nữa. Ðàn chim sơn ca cũng
còn nằm yên trong tổ ấm, hoặn chíu mỏ vào cánh, để cố níu thêm một đôi
chút yên tĩnh trước khi thần thái dưong le lói hiện hình. Cả đến con ong,
con bướm, con kiếm, con sâu, giống nào, giống nấy cũng e lệ sương mai làm
ướt bộ cánh mỏng manh, hoặc làm dính bộ chân mềm yếu nên chưa con nào chịu
nhúc nhích ló hình ra vội, duy có dòng thác vô tư bên sườn núi không quan
tâm gì đến ngày đêm lưu chuyển, nên cứ rù rì thả một điệu nhạc trầm trầm
giữa cảnh núi vắng rừng hoang.
Mặc dầu
trời chưa sáng rõ, nhưng đôi chân Chí Hiếu, với nhịp bước không ngừng, vẫn
xuyên qua đèo ngang, rồi đến khe dọc, kế đến ghềnh đá, tới khi mặt trời
vượt khỏi đỉnh non sông, thì anh đã leo đến lưng chừng sườn núi. Anh chỉ
còn nỗ lực một phen nữa là tới đỉnh tức là nơi có cây táo: “bất quả thọ”
đang chờ đón anh theo như lời Hòa thượng đêm qua.
Ngặt vì khoảng núi này
ghềnh đá cheo leo, cây mọc rậm rạp, anh cố leo hết những phiến đá nhô ra
như tai mèo,thì vấp phải những tấm quái thạch sừng sững như vách dựng.
Nhưng với tâm thành nồng nhiệt và một chí nguyện hăng hái, anh cũng đã leo
được đến đỉnh núi. Lúc đó, mặt trời vừa đứng giữa đầu.
Anh ngữa mặt lên cây táo,
quả nhiên là một cây cổ thụ rườm rà, trong đám lá xamh, lộ ra trái táo to
bằng vóc tay và chín đỏ như son chẳng khác gì vừng thái dương mọc ở giữa
từng mây dày đặc. Anh reo lên:
A ha ! Quả táo đây rồi.
Hòa thượng quả nhiên không nói gạt ta! Trăm lạy Hòa thượng, người thật vì
kẻ khổ, kẻ bệnh, kẻ nghèo mà mở đường cứu vớt.
Anh vừa
nói vừa tán dương công đức Hòa thượng thì trên cành cây táo bỗng nhiên
thấy nhiều quả táo xuất hiện đồng thời, và chỉ trong phút chốc quả nào quả
ấy cũng vừa to vừa chín đỏ ối làm cho cành cây nặng trĩu phải rũ xuống
thấp lè tè.
Anh mừng
quá, hai tay ôm chặt lấy thân cây và đôi chân ngoành ra đằng trước lấy sức
đẩy mạnh người lên trên cao như con nhái bầu ôm sát bụng vào cọc tre leo
lên giàn. Khắp người anh mồ hôi nhễ nhại tuôn ra, làm ướt cả áo quần. Cũng
may, cây mọc ở trên cao nên có khí trời trong gió mát, nhờ đó làm giảm
được sự trèo leo vất vả một vài phần.
Khi anh
trèo được lên cây rồi, lòng tham lam bắt đầu mở rộng, anh trẩy hết cành
này đến cành khác, tích được một số khá nhiều, anh liền cởi áo buộc lấy,
rồi thoăn thoắt đi thẳng một mạch về nhà, anh vào ngay phòng mẹ nằm, đặt
bọc táo trước mặt mẹ cười cười nói nói:
- Mẹ! (anh
vừa nói vừa mở táo ra) Mẹ ăn đi! Ăn rồi sẽ hết mọi bệnh, mẹ ạ!
Mẹ anh mở to mắt nhìn
thẳng những quả táo và hỏi:
- Ồ! ở
đâu có của quý hóa thế này con? Ai cho con? Hay đi hái trộm của người ta?
Mẹ chắc con chả làm gì có tiền mua được nhiều táo quý đến như thế!
- Mẹ ăn
đi! Rồi con sẽ kể lai lịch để mẹ nghe.
- Không!
Mẹ không ăn đâu, nếu chưa biết rõ của này từ đâu có. Nếu là của phi nghĩa
thì không nên ăn con ạ!
- Con đã
nói là mẹ cứ ăn đi, con cam đoan không phải là của ăn trộm ăn cắp đâu mà
sợ!
- Vậy con
kể mẹ nghe mau lên! Gớm, sáng nay con tự nhiên bỏ nhà đi, mẹ gọi mãi không
thấy con thưa, làm cho mẹ lo hết vía.
Chí Hiếu
liền đem các chuyện xảy ra kể lễ: Nào vị Hòa thượng cây táo Thiết Sơn hiển
hiện ra như thế nào, cùng chuyện đi lấy táo trên cây “bất quả thọ” ra sao,
nhất nhất nói cho mẹ nghe một lượt. Mẹ anh nghe rồi hết sức ngạc nhiên,
hai tay cứ chấp lại vái lạy và miệng thì luôn luôn miệng Phật.
Bà cụ tạ
ơn vị Hòa thượng trên núi Thiết Sơn, rồi cầm quả táo đưa lên miệng thấy
một mùi hương ngào ngạt xông lên, khi miếng táo lọt vào mồm rồi bỗng tiết
ra một thứ nước cam lồ vừa mát vừa ngọt, tưởng chừng như nước đó chạy khắp
cơ thể đem theo một thần lực thấm nhuần làm cho khoan khoái các cơ quan
trong người, khác gì ruộng khô mà được mưa tưới. Chỉ trong phút chốc bà mẹ
của anh, nằm liệt giường hằng mấy tháng, bỗng nhiên ngồi nhỏm dậy và tập
tễnh từng bước nhỏ lê được ra đến cửa ngoài.
Tin này đồn đi, trong vài
ngày khắp vùng đều biết tiếng. Cả đến thị trấn lân cận cũng lũ lượt kéo
nhau đến nhà Chí Hiếu xin ban trợ cứu cho. Người đem cha mẹ lại, người đem
anh chị hay vợ con lại, tấp nập đầy nhà, mà toàn là những bệnh kinh niên
hiểm nghèo, mười phần chết hết chin. Chí Hiếu liền đem một phần số táo
chia cho mọi người, quả nhiên ai ăn xong cũng đều khỏi bệnh.
Từ đấy,
nhà Chí Hiếu hết toán này đến toán khác vào, Anh nghĩ bụng: “Tại sao ta
không bắt bệnh nhân mỗi người phải đóng một phần tiền phí tổn về công phu
của ta đi hái táo? Thiết tưởng làm như vậy cũng hợp lý chứ có sao đâu?
Nghĩ rồi, anh liền yêu cầu mọi người phải trả tiền thì anh mới cho táo.
Thế mà số người đến mua vẫn đông, cứ vài ngày anh lại bí mật lấy táo về
bán.
Chí Hiếu
nhờ đó, thu vào rất nhiều tiền, tiền càng vào thì anh càng mở thêm rộng
lòng dục vọng. Trước còn thu gấp đôi gấp ba giá đã định, sau thu gấp năm
gấp sáu, rồi đến gấp chín, gấp mười. Lúc này để chóng làm giàu, chứ không
dòm ngó chi đến cảnh ngộ của người bệnh túng nghèo, nghĩa là có đưa đủ số
tiền mới bán táo. Và chỉ thấm thoát trong vòng mấy tháng, một anh tiều phu
nghèo nàn bỗng nghiễm nhiên trở nên một vị giàu có nhất vùng, khiến cho
nhiều người phải lác mắt.
Một hôm
có người con gái tiến vào quỳ mọp dưới đất cấu khẩn van lơn anh, mỗi lời
nói là một hàng lệ giàn giụa:
- Trăm
lạy ông! Ngàn lạy ông! Xin ông bố thí cho tôi một trái táo thần để về dâng
mẹ, mẹ tôi đang hấp hối, chỉ còn trông đợi ở táo thần của ông cứu mạng mẹ
tôi!
Chí Hiếu
lên mặt đạo đức chậm rãi nói:
- Nghe
lời nói tôi cũng thấy thương. Chỉ còn lâu nay táo ít quả quá, nếu cô không
trả tiền thì khó mà bố thí cho cô được! Nói xong, anh cất bước đi vào nhà
trong, mặc cho thiếu nữ nức nở khóc than kêu cầu, nước mắt cứ chảy như mưa,
nhưng thủy chung anh vẫn giữ một mực không có tiền là không cho táo. Thiếu
nữ không biết làm sao được đành thất vọng đứng lên đi về.
Ðêm hôm
đó, trên đỉnh Thiết Sơn, dưới bóng trăng soi vằng vặc tạo nên quang cảnh
rất nên thơ, tân phú ông Chí Hiếu đứng dưới gốc cây táo thần, ngửa đầu lên
ngắm nghía tàn cây xanh tươi, bất giác bật lên một giọng cười khanh khách
tỏ vẻ đắc ý, bỗng có một đạo hào quang vút qua rồi hiện sừng sững trước
mặt anh: Vị Hòa thượng áo trắng râu bạc ngày trước. Nhưng vị Hòa thượng
lần này không tươi cười mà trái lại hiện ra với sắc mặt nghiêm nghị bảo
anh:
- Hỡi Chí
Hiếu! Người thiếu nữ đến nhà ngươi ngày hôm qua thật có hoàn cảnh đáng
thương! Sao ngươi không thỏa mãn lời ai cầu của kẻ nghèo nàn mà cứ nhất
định đòi nhiều tiền mới bán táo cho? Như vậy ngươi quả là người không có
tâm từ mẫn mà chỉ muốn mở rộng lòng tham lam dục vọng thôi! Từ nay, cây
táo này không cấp quả cho ngươi nữa và bao nhiêu những gì ngươi đã hưởng
từ trước, nhất nhất phải thu về!
Nói xong
vị Hòa thượng lấy tay rút cây táo lên khỏi mặt đất và ném thẳng ra bể Ðông
.
Chí Hiếu
sợ hải quá, lủi thủi ra về, trong lòng tuy buồn nhưng yên trí rằng nhà đã
giàu có, dù có mất cây táo cũng không sợ. Kịp khi về đến nhà thì bỗng lạ
thay! Cửa nhà đã hiện nguyên hình là một túp lều tranh với chiếc lá bẹp
nát y nguyên như khi trước, còn những lâu đài mới xây cất tráng lệ thì
không biết biến đi đâu mà tuyệt nhiên chẳng còn lưu lại một vết tích gì cả!
Ngay chiếc áo cẩm đoạn bằng thứ vóc đắt tiền mà anh mặc trên mình lúc này
cũng chỉ còn là một cái áo vừa rách vừa vá của anh vẫn mặc khi xưa! Anh
đứng ngắm nghía cơ nghiệp đã mất đành chùi nước mắt mà hối hận cho cuộc
đời trở lại nghèo nàn của anh.
Than ôi!
Tiền của ở đời,
Ðã xui
lòng thế bao người tham sân.
Nghĩ gì
hái quả trồng nhân …
Chí Hiếu
biết hối thì thân đã tàn!
Thôi còn
chi nữa mà than?
Cơ hàn,
giờ lại cơ hàn như xưa!
Phạm Ngọc Khuê
“Càng được càng thấy thiếu,
Càng trì niếu càng thấy chơi vơi”
Chàng ngốc
(^)
Sau lũy
tre xanh kia, là gia đình đôi vợ chồng son. Chị buôn bán đảm đang, anh
siêng chất phác. Tuy gặp nhau đã tám, chín năm mà chưa có con cái gì cả,
song vợ chồng rất hòa thuận và tin yêu nhau hết lòng. Nhờ sự đồng tâm nhất
chí, lại biết cần kiệm dành dụm nên không bao lâu anh chị được giàu to.
Ðại phàm khi lùi xùi thì không nói, chứ đã giàu mà thiếu chữ “sanh” sao
coi không được. Vả lại phương ngôn có câu: “Vợ ngoan làm quan cho chồng”
chị liền đem vàng mua cho anh hai chữ “Bá hộ”. Thế thì khi có đình đám đâu,
anh cũng có áo địa xanh, khăn chữ nhất, bệ vệ đi trước. Chị vợ thì tóc
đuôi gà, giày hàm ếch đủng đỉnh theo sau.
Người ta
thường bảo “Phước bất trùng lai” (phước không khi nào đến hai lần) nhưng
anh chị nhà này đã “cách mạng” câu nói ấy. Vì sau khi ăn khao Bá hộ được
ít lâu, thì chị sanh hạ một cậu con trai. Vì hiếm hoi nên vợ chồng đặt tên
con là “Cái ngốc”. Ngốc siêng ăn, chóng lớn, dễ nuôi, thấm thoát thế mà đã
lên mười rồi đấy, vợ chồng cho con nhập học ở ngay trường làng. Xưa nay hễ
phú quý thì sanh lễ nghĩa, nên anh chị nuôi một chú bé cũng trạc tuổi con
để ngày hai buổi ôm trác hầu cậu đến trường. Tưởng đặt ngốc chơi ai ngờ
ngốc thật, thầy hét ầm rát cổ, chữ nhất cũng không vô. Một tráp đựng đầy
nghiên với bút, mà trong lòng chẳng có chút văn chương. Tuy đọc chậm,
nhưng lớn mau. Cái Ngốc đã thành cậu Ngốc, một thanh niên mười tám tuổi.
Một hôm
cha mẹ cho dinh chơi phố. Cậu Ngốc ngỡ ngàng như mọi về thành nội, thấy
cái gì cũng đẹp, cũng ưa. Khi đi ngang một tòa biệt thự thì cậu đứng nhìn
sững.
- Ồ nhà
ai đẹp quá! Ba tầng cao ngất, hai tầng dưới thì còn đẹp vừa, chỉ có tầng
trên hết là đẹp nhất, có bao lơn rộng, có chậu hoa to, trang hoàng mát mẻ
mà nghiêm lệ.
Cậu bảo
tên tiểu đồng:
- Không
biết ai làm ngôi nhà này mà đẹp quá!...
Có anh
thợ nề đi qua, tình cờ nghe thế, liền đứng lại bảo:
- Nhà này
là của quan Thượng thư thuê tôi làm năm trước đấy.
Cậu Ngốc
mừng quýnh, liền mời anh thợ cùng về với mình, để xin cha mẹ cất cho một
tòa lầu như vậy.
Thợ cũng
mừng quýnh, liền theo ngay cậu Ngốc về quê. Ngốc thưa cha mẹ công chuyện
và bảo thợ vẽ bản đồ nhà ấy cho cha mẹ xem. Khi trù giá tiền thì thấy đắt
quá, cậu Ngốc cầm ngay bút quẹt hai tầng dưới, bảo:
- Thôi
hai tầng dưới này không cần bác ạ, bác chỉ lằm cho tôi cái tầng thứ ba kia.
Thấy bác
thợ ngơ ngác, cậu Ngốc giải thích:
Nếu làm
cả ba tầng thì nhiều quá, mà hai tầng dưới xấu tôi không ưng, vậy bác chịu
phiền làm ngay tầng thứ ba cho tôi thôi.
Bác thợ
tưởng món bở bỏ việc theo cậu Ngốc về, nay nghe cậu Ngốc nói ngớ ngẩn bác
thợ chưng hửng, tức quá bác “xì” một cái thật dài rồi đi thẳng. Bác về kể
chuyện lại mọi người đều cười lăn ra.
Câu
chuyện này Ðức Phật ví dụ với những người đệ tử Phật, chịu bỏ dữ làm lành,
giữ gìn ba nghiệp v.v… đã vậy còn chê những quả vị thấp (Tu Ðà Hoàn) mà
muốn bước ngay lên địa vị A La Hán, nên bị người đời chê cười, cũng như
cậu Ngốc trong câu chuyện này vậy.
Thể Quán
“Không có kẻ thù nào có thể gây tai hại cho ai
nhiều bằng những tư tưởng sân hận, si mê, tham ái của chính mình”.
Mãnh lực lời nguyền
(^)
Một hôm,
sau khi khất thực, thọ trai xong trở về Kỳ Viên tịnh xá, đức Thế Tôn được
báo cáo có một vị tân Tỳ kheo (Tỳ kheo mới thọ giới) lâu nay bỗng đâm ra
thẩn thờ, biếng nhác, không chịu đi khất thực, không tọa thiền , không ăn
uống. Phật đi đến am thất của vị Tỳ kheo ấy, thì thấy Ðại đức râu tóc mọc
dài, mặt mài tiều tụy hốc hác, Phật biết ngay đó là tình trạng của một
người đã bị con hỗ cái hốp hồn. Ðấng từ bi khẻ ngồi xuống cạnh giường
người bệnh, ôn tồn tham hỏi. Vị đệ tử sa nước mắt thú thật với Ngài:
- Bạch
Thế Tôn, mong Thế Tôn cứu vớt con, thật sự là con đã bị nữ sắc lôi cuốn.
Con cố chống cự mà dường như vô hiệu, hình ảnh “nàng” mãi ám ảnh tâm tư
con, làm cho con đau khổ. Con thật không xứng đáng là Tỳ kheo. Con muốn
chết.
Ðức Phật
mỉm cười an ủi:
- Con hãy
tình tỉnh lại. Mê gái là chuyện thường. Ðiều cốt yếu là con phải sáng suốt
vượt qua, không có gì là trầm trọng cả.
- Bạch
Ðức Thế Tôn, làm sao con vượt qua được, khi mà hình ảnh mĩ miều khả ái của
nàng cứ ám ảnh con hoài?
- Ðó là
con mới nhìn qua một lần, mà không nhiếp tâm quán sát. Con chỉ thấy một
cái đẹp mà chưa thấy những cái xấu, và nguy hiểm của đàn bà. Nếu con thấy
được toàn diện như thế, thì con sẽ thoát ra sự đam mê. Ðối với sắc, cần
phải quán ba điều: vị ngọt, nguy hiểm, và sự xuất ly của sắc.
Rồi Ðức
Thế Tôn kể cho vị Tỳ kheo một ký ức tiền thân, Ngài cũng đã từng bị nữ sắc
mê hoặc, nhưng nhờ sáng suốt mà Ngài đã vượt qua.
Thuở ấy,
Ngài làm một vị vua trẻ đẹp, tài đức vẹn toàn.Vì ham việc nước, vua chưa
nghĩ đến việc tuyển hoàng hậu. Giúp vua trị nước có quan Tể tướng, phong
tư tài mạo tuyệt vời cũng chưa có vợ. Tình vua tôi tuy lễ độ mà rất tương
đắc.
Bấy giờ
trong lãnh thổ cai trị của vua có một nhà tỷ phú có cô con gái sắc nước
hương trời, xa gần đều biết tiếng. Cô có một sắc đẹp mê hồn, làm cho thanh
niên nào thấy cô ta là “tá hỏa tam tinh”, hồn siêu phách lạc, té ngửa
người ra bất tỉnh nhân sự. Cũng may cho những thanh niên, cha cô ấy quý cô
như lá ngọc cành vàng, và theo phong tục Ấn Ðộ thời đó, đàn bà con gái ra
đường phải che mặt lại bằng tấm voan mỏng (chỉ chừa hai con mắt để dòm ra
cho thấy đường khỏi vấp té) cho nên ít người đàn ông nào có dịp thấy cô
mà phải tán đởm kinh hồn.
Vì sao cô
gái ấy lại có một số phận kỳ quái như vậy? Ðó là do mãnh lực của một lời
nguyền của nàng từ kiếp trước.
Tiền thân
nàng là một cô gánh nước mướn nghèo khó. Một hôm đi gánh nước, cô gặp một
bà mặc chiếc “Sari” (kiểu áo của phụ nữ Ấn, chỉ là một tấm vải rộng quấn
quanh mình, phù cả đầu, chừa cái mặt) bằng katê vàng rất đẹp, cô ao ước đ
ược có một chiếc Sari như vậy, và hỏi: Bà đã mua nó bao nhiêu tiền. Bà ta
cho biết một giá tiền kinh khủng, nhẩm tính ra cô phải gánh nước thuê
những mười năm mới đủ tiền sắm nó. Nhưng vì quá yêu thích chiếc áo đẹp, cô
nhất định phải có nó. Bà kia thấy cô khao khát như vậy, bèn đề nghị cô
đến làm nô tỳ ba năm bà sẽ cho một cái áo giống hệt bà đang mặc. Cô gái
đồng ý ngay.
Mãn hạn nô tỳ ba năm, cô
được xấp hàng mới đem về, trở lại với cuộc sống tự do gánh nước mướn. Khi
cầm xấp hàng đi giữa đường, cô gặp một vị Tỳ kheo người quấn toàn lá chuối
khô để che thân, ngạc nhiên cô hỏi: thì biết được vị ấy đi đường bị kẻ
cướp đoạt hết y phục nên bây giờ phải quấn tạm lá chuối khô như vậy. Ðộng
lòng trắc ẩn, cô dâng cả xấp hàng cho vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo đi vào bụi
rậm trút bỏ lá chuối khô, khoác lên mình chiếc y vàng ấy. Khi Ðại đức từ
trong bụi bước ra, người con gái bàng hoàng sửng sốt trước vẻ đẹp sáng
chói của Ngài, tưởng như Phật vừa giáng thế. Nàng quỳ xuống phát nguyện:
Mong rằng nhờ phước đức
dâng y này, kiếp sau con sẽ được một sắc đẹp siêu phàm, làm cho nam nhi
thấy con thì phải mê mẩn, rụng rời tay chân (như là con thấy Ngài vậy!).
- Con sẽ
được toại nguyện.
Vị Ðại
đức chúc lành cho cô rồi bỏ đi.
Lời
nguyện quái ác của của gái được thành tựu. Nhờ công đức bố thí đó, kiếp
hiện tại cô được sanh vào nhà giàu có, nhưng cũng do lời nguyền, cô được
cái sắc đẹp làm mê mẩn hồn người như một bà phù thủy.
Bấy giờ
trong triều, quan Tể tướng và đình thần bàn nhau:
Ðấng minh
quân của chúng ta đã đến lúc nên tuyển ngôi chánh cung để sanh con nối dõi.
Không biết cặp mắt xanh của Ngài đã để ai lọt vào chưa?
Quan Tể
tướng nói:
- Tôi
thường gần vua, thấy Ngài chỉ lo việc dân việc nước, không màng tới việc
ấy.
- Vậy thì
quan Tể tướng nên khuyên vua để chúng ta tuyển chọn một số mỹ nhân trong
nước, xem Ngài vừa ý ai thì xin Ngài đặt lên ngôi chánh cung đi. Tục ngữ
có câu: Trai không vợ như ghế ba chân.
Quan Tể
tướng bằng lòng. Gặp lúc cùng vua nhàn tản, ông mở lời:
- Tâu bệ
hạ, bọn hạ thần có trộm bàn chuyện bệ hạ nên sớm yên bề gia thất.
Vua mỉm
cười:
- Bộ các
khanh đã có mỹ nhân vừa ý, toan kén chọn cho ta ư?
Quan Tể
tướng tâu:
- Dạ, tâu
bệ hạ, bọn hạ thần nghe tục ngữ nói: “Trai không vợ như ghế ba chân” nên
bàn nhau xin bệ hạ cho đi tuyển về một số mỹ nhân để mắt rồng chọn lựa.
Vua cười
xòa:
- Các
khanh muốn vậy cũng được. Nhưng nếu không kén chọn được người ngọc như ý
thì ta thà ở góa thôi.
- Xin bệ
hạ yên lòng, chúng thần sẽ ra sức tìm kiếm. Nghe đồn có một tỷ phú ở
phương bắc có cô gái nước sắc hương trời.
- Sao
khanh không chọn nàng cho khanh đi? Khanh cũng đồng tuổi như ta, mà sao
mắt xanh chưa để ai vào cả.
- Tâu bệ
hạ, kẻ hạ thần muốn lo việc bệ hạ trước, kẻ hạ thần tính sau cũng không
hại gì.
Ðược lịnh
vua, triều đình mở cuộc sơ tuyển mỹ nhân khắp nước. Tụ họp lại thì quá
đông, họ bè yết bảng khắp nơi và cho người đi rao bằng ống loa rằng, nhà
ai có gái đẹp hãy nộp hồ sơ bằng một tấm hình, các chi tiết về người đẹp
như bề cao, cân nặng, vòng ngực, vòng eo, lưng ong, lưng tôm hay lưng ếch,
giọng kim hay vọng thổ, đi chân chữ bát hay chữ nhất… Chỉ trong vòng hai
tuần lễ, hồ sơ mỹ nữ gởi đến triều đình tới tấp như bươm bướm. Xem trong
mấy ngàn tấm hình họa mỹ nhân, nhà vua không vừa ý người nào cả. Quan Tể
tướng cũng đồng ý với vua là không có người nào xứng đáng trong số đó. Ông
bỗng sực nhớ ra, trong số mấy ngàn hồ sơ không hề thấy hồ sơ của cô con
gái nhà tỷ phú nọ. Ông bàn với vua:
- Tâu bệ
hạ, kẻ hạ thần xin cử một phái đoàn của triều đình gồm những quan giỏi
tướng số đi đến nhà tỷ phú ấy, xem tướng cô gái ấy đẹp như thế nào, nếu
quả xứng đáng vừa ý nhà vua thì xin tuyển làm chánh cung.
Nhà vua
chấp thuận đề nghị ấy. Quan Tể tướng bèn chọn mười viên quan giỏi về nhân
tướng và lý số đi đến nhà tỷ phú xem mặt cô gái. Người thì có biệt tài xem
tướng mặt, người xem tướng lưng, người xem tướng gò má, người xem tướng đi
tướng đứng tướng ngồi, tướng giọng nói mắt nhìn…sao cho tất cả con người
của cô biểu lộ cung cách của một vị hoàng hậu xứng đáng với đức vua đẹp
trai phong nhã tài tình của họ. Sắp đặt xong xuôi, triều đình báo tin cho
ông tỷ phú sẽ có phái đoàn về xem tướng con gái ông để tuyển làm hoàng hậu.
Cô gái rất kiêu hảnh về sắc đẹp của mình nên không thèm nộp hồ sơ,cô biết
cuối cùng ngôi chánh cung sẽ về tay cô, bởi vậy cô không thèm bận tâm về
việc đó. Khi nghe cả đoàn mười vị quan triều đình đến nhà để xem tướng cô,
cô cảm thấy tự ái nổi lên dữ dội, định bụng sẽ cho các quan này một phen
sĩ nhục ê chề. Cô trang điểm lộng lẫy, chờ khi các quan vào phòng khách,
cô từ nhà trong xuất hiện, đưa cặp mắt sắc như dao phay liếc qua liếc qua
liếc lại một lượt các ông quan. Bỗng các quan đều đứng ngẩn người ra như
phổng đá nhìn trừng trừng vào sắc đẹp ghê hồn của cô. Cô cất gìọng oanh
vàng thỏ thẻ:
- Xin mời
các quan ngồi. Dám hỏi các quan đến có điều chi dạy bảo?
Các quan
cũng không nhúc nhích. Cô gái bỗng đổi giọng đanh thép giận dữ nói:
- Nghe
đồn triều đình hôm nay phái người về xem tướng ta. Tưởng là người, hóa ra
là một lũ ngợm thế kia à?
Rồi quát
gia nhân túm từng người ném ra sân. Cô gái thi hành xong việc trả đũa đủng
đỉnh đi vào nhà đóng cửa lại. Khi các quan không còn, trông thấy bóng dáng
cô gái thì ma lực của sắc đẹp nàng cũng tan biến, họ lồm cồm ngồi dậy đứng
lên phủi áo ra về, rất tức giận cô gái và quyết trả đũa. Khi trở về họ tâu
vua:
- Tâu bệ
hạ, cô gái ấy là một mụ phù thủy có bùa ngải, bệ hạ không nên rước cái của
nợ ấy về nguy lắm!
Nhà vua
dễ dãi cười xòa:
- Vậy thì
hãy thôi. Tự các khanh bày đặt, chứ ta đâu biết gì đến chuyện ấy. Về phần
nhà tỷ phú, khi chờ mãi không thấy nhà vua để cập đến tuyển con gái mình
làm hoàng hậu, ông bàn với con:
- Ta sẽ
gả con cho quan Tể tướng, con chịu không?
Cô gái
làm bộ e lệ đáp:
- Tùy ý
cha.
Thâm tâm
cô cũng nghĩ đó cũng là thượng sách để trả thù ông vua kêu căng không
thèm đối tới cô. Tể tướng chỉ dưới vua một bực, không được làm hoàng hậu,
nhưng được làm mệnh phụ phu nhân thì cũng tốt số lắm rồi.
Ông tỷ
phú cho người môi giới đến nói với quan Tể tướng, ông muốn gả con gái cho
người. Quan Tể tướng thấy việc nhà vua lơ là với việc vợ con, nên không
dám gượng ép Ngài nữa. Lâu nay quan cũng muốn để dành mỹ nhân cho vua, bây
giờ sau vụ xem tướng, cái nhân duyên giữa vua và nàng kể như đã lỡ. Quan
bèn chấp thuận cưới cô gái vì quan cũng không muốn làm “ghế ba chân” mãi,
lỏng chỏng thế nào!
Thế là
đám cưới xảy ra giữa quan Tể tướng và cô con gái nhà tỷ phú. Nhờ tục lệ
che mặt, nhà vua tuy có dự đám cưới cũng không thấy mặt nàng nên khỏi bị
thơ thẩn thần hồn. Chỉ mình quan Tể tướng sau khi cưới về mới ngơ ngẩn
trước sắc đẹp siêu phàm của vợ (chỉ một lúc đầu thôi, sau quen mắt thì
không sao). Quan từ đấy cẩn thận khóa cửa mỗi khi vào triều để cho bà vợ
có sắc đẹp mê hồn khỏi bị ai thấy, mà phải bấn loạn tinh thần.
Tể tướng
phu nhân vẫn ôm lòng thù hận nhà vua, và muốn vua phải thấy mặt mình một
phen, cho bị điên đảo cho bỏ ghét. Bà để tâm chờ cơ hội.
Hôm ấy
gặp ngày mừng quốc khánh. Quan Tể tướng vào triều sớm dặn nàng.
- Hôm nay
có xe loan của Hoàng thượng đi ngang đường mình để về cung sau khi xem
duyệt binh.Vào giờ xe vua đi ngang em hãy lánh mặt kẻo vua nhìn thấy,
không hay cho Ngài.
Phu nhân
giả bộ vâng lời:
- Thưa
lang quân, vâng ạ!
Nhưng
trong lòng mừng khấp khởi vì được dịp báo thù. Ðúng giờ vua đi ngang bà
trang sức lộng lẫy, ra đứng ở bao lơn cầm sẳn một rổ hoa bốc từng nắm tung
xuống xe hoa của vua đang chầm chậm diễn qua dưới đường trước tiếng tung
hô vạn tuế của dân chúng. Những cánh hoa tươi thơm ngào ngạt mưa xuống đầy
long bào nhà vua, vua ngẩng lên nhìn thì chao ơi! Ngài bủn rủn cả tay chân,
tâm thần tán loạn không còn biết gì nữa… Ðôi mắt mỹ nhân đắm đuối theo dõi
nhà vua mãi như một oan hồn. Trở về cung, vua leo lên long sàn nằm dài,
không còn thiết gì ngủ nghỉ, ăn uống, hình tướng mỹ miều của Tể tướng phu
nhân như dán chặt trước mặt nhà vua. Ðau khổ, vua thở dài thườn thượt.
Quan Tể
tướng đã biết rõ sự tình, bèn đi vào bên vua tâm sự:
- Tâu bệ
hạ, kẻ hạ thần xin nhường lại cô vợ cho bệ hạ đó. Xin bệ hạ hãy hồi tỉnh
lại để lo việc nước việc dân.
- Khanh
tốt bụng quá, làm cho ta thấy hổ thẹn. Không bao giờ ta nỡ đi cướp một báu
vật của khanh.
- Tâu bệ
hạ, đối với kẻ hạ thần, chỉ có Hoàng thượng là kho báu của cả muôn dân. Ðể
bảo vệ mạng sống của Ngài, thì dù có mất mạng của kẻ hạ thần cũng vui lòng,
huống hồ chỉ là một người con gái.
Nhà vua
vẫn tư lự u sầu không thuận lời đề nghị hiến dâng ấy. Quan Tể tướng bèn
đánh một đòn mạnh hơn.
- Thôi
thì kẻ hạ thần sẽ viết tờ khai trừ bà vợ, cho nàng về lại nhà cha mẹ. Bệ
hạ muốn thì tuyển nàng vào cung, mà không muốn thì thôi kẻ hạ thần cũng
nhất quyết ly dị.
Nhà vua
giật mình ngồi dậy mở mắt lớn nhìn quan Tể tướng:
- Nàng có
tội gì mà khanh nở dứt tình như vậy?
Quan Tể
tướng thấy nhà vua trúng kế của mình, bèn làm tới:
- Nàng có
tội rất lớn, đã đem sắc đẹp mê hoặc nhà vua, làm cho nhà vua, cột trụ của
muôn dân phải tiêu ma chí khí, thân bại danh liệt. Tội ấy đáng tru di.
Nghe mấy lời ấy, nhà vua
như bị một gáo nước lạnh dội từ trên đầu dội xuống, làm cho ngài tỉnh hẳn,
khỏi ma lực của nữ sắc. Ngài cười xòa đứng dậy:
- Tể
tướng, thôi ta đã hiểu. Mọi sự chỉ vì ta mê muội lú lẫn trong chốc lát.
Khanh sẽ thấy, cũng đã thấy, là ta không phải là hạng mê gái tới chết đâu.
Khanh hãy yên tâm ra về. Bùa lực của nàng đã tan biến nơi ta.
Kể xong
chuyện, đức Thế Tôn cho biết nhà vua là tiền thân của Ngài, còn quan Tể
tướng chính là A Nan tôn giả ngày nay.
Thích Nữ Trí Hải
“Người ta lấy lửa thử vàng, lấy vàng thử đàn bà,
và lấy đàn bà thử đàn ông”.
|
Mục Lục Tập
03 |
(^)
--o0o--
Tập 01 |
Tập 02 | Tập 04
- o0o -
| Mục lục Tác giả || Tủ
Sách Phật Học |
---o0o---
Vi tính :
Diệu Mỹ
Cập
nhật : 01-07-2002