Truyện Cổ Phật Giáo
Tập 2
Thích Minh Chiếu
Sưu tập
---o0o---
Dứt
bỏ ảo tình
(^)
Từ
khi Phật Thích Ca Mâu Ni lại thành Xá Vệ thuyết pháp, giáo hóa đại chúng
thì nhân dân toàn thành này trở nên có đạo đức có lễ độ lại biết thương
yêu giúp đỡ lẫn nhau, khiến cho nước Xá Vệ biến thành một cực lạc quốc.
Tin này
truyền đi gần xa, có một số người khác đạo ở nước La Kiệt Kỳ rất khâm phục
uy tín Ðức Phật, liền không quản đường xá xa xôi, cố tìm đến nước Xá Vệ để
cầu Phật dạy bảo. Nhưng trong khi chưa gặp được Ðức Phật thì bỗng xảy ra
một chuyện rất trái ý ở giữa đường.
Số là
nước Xá Vệ ở vào xứ nóng, thường có nhiều rắn độc, một khi rắn đã cắn phải
người thì người ấy tức khắc chết liền, không có cách nào cứu sống được.
Hôm đó,
người viễn khách vừa tới ngoài thành, ngồi nghỉ dưới bóng cổ thụ, nhìn
xuống bên đường, thấy hai người, một già một trẻ, đang cuốc đất. Bỗng đâu
có con rắn độc núp trong cỏ nhảy ra mổ chết người ít tuổi, người nhiều
tuổi bỏ cuốc chạy lại thấy người ít tuổi đã tắt thở thì hơi lộ nét buồn
rồi thản nhiên quay lại chỗ cũ cuốc đất.
Viễn
khách thấy thái độ ấy làm lạ, liền tiến lại bên cạnh ông già mà hỏi rằng:
- Này
cụ! Thanh niên vừa chết kia có là con cháu hay là gia nhân cụ?
Ông già
đáp cách tự nhiên:
- Hắn là
con tôi.
- Ủa,
lệnh lang bị rắn cắn chết sao cụ lại không kêu gào khóc lóc thảm thiết như
người xứ chúng tôi thường làm?
- Nó là
con trai tôi đó, nhưng bây giờ đã chết rồi, thiết tưởng dù có khóc than
chỉ là thêm phiền não mà cũng chẳng cứu sống lại được. Vậy khóc than có
ích lợi gì?... Trầm ngâm một lúc, ông lão nói tiếp:
- Ông
ạ! Con người ở đời trước sau thế nào cũng chết, khác nào như mọi sự vật,
có thành tựu thời phải có hoại không, đó là hiện tượng tự nhiên của tuần
hoàn, nếu mà lúc sống gây nhiều nhân thiện thì sau có báo ứng tốt, nhược
bằng gây nhiều nhân ác thì có ác báo không sai. Nay đã chết rồi, thì dầu
gì chăng nữa cũng là thừa.
Ông già
nói xong thấy khách suy nghĩ đờ đẫn người ra liền hỏi:
- Phải
chăng ông định tiến vào thành? Tôi muốn cảm phiền ông giúp cho một việc,
phỏng có được không?
- Có
việc gì xin cụ cứ nói!
- Thế
thì hay lắm! Ðây: nhà tôi ở ngay cổng thành đi vào, quẹo sang bên phải bỏ
gian đầu đến gian thứ hai ấy chính là nhà tôi. Vậy xin ông, khi đi qua,
ghé vào nói giúp với bà nhà tôi rằng: Ðứa con đã chết, vậy trưa nay chỉ
đem một xuất cơm cho tôi ăn mà thôi.
Viễn
khách nghe ông già dặn thì điếng người, vừa đi vừa tự nghĩ: Ông già này
keo quá, con đã chết mà còn đếm xỉa đến cả bữa cơm… Thật cả thế gian này
cũng không đâu có người cha đến như thế! Kịp khi qua cửa thành, quẹo sang
bên phải, cách hai nhà, quả nhiên thấy bà cụ vừa vặn đứng ở ngoài cửa.
Viễn khách liền thi lễ và nói:
- Thưa
bà, con trai bà bị rắn cắn chết, ông có nhắn tôi về bảo bà chỉ cần đem một
suất cơm cho ông thôi.
Bà nghe
khách nói xong thì tỏ vẻ buồn rầu thoáng qua nét mặt rồi trân trọng cảm tạ
khách, viễn khách lấy làm lạ lùng hết sức và tự hỏi: “Tại sao bà nghe tin
con chết mà không kinh hoảng hoặc té xỉu người đi???”. Liền hỏi luôn:
- Này
bà, xin thứ lỗi cho tôi hỏi câu đường đột: Bà không thương xót lệnh lang
hai sao?
Bà lão
thong thả đáp:
-
Thưa ông! Cái đạo con cái với cha mẹ là tự túc nhân nghiệp báo nên mới có
sự thác sinh vào nhà chớ không phải là do cha mẹ mời vào mà được, đến khi
họ chết, cũng là do mãn nhân, mãn nghiệp mà họ đi, nên cũng không thể lưu
họ lại. Cha mẹ khác nào như người chủ quán trọ chiều nay có khách lại ngủ
đỡ, sáng mai hay ngày kia khách lại ra đi, chủ quán không thể lưu lại. Ấy
sự liên quan giữa cha mẹ và con cái cũng thế đó. Vậy thì: Có thương tiếc
hay kêu gào khóc lóc liệu có thể cứu sống lại được người đã chết không?
Hay chỉ là gây thêm phiền não mà chẳng có ích gì?
Nghe
câu trả lời của bà cụ, khách rất hoang mang cho rằng vợ chồng ông già này
quả thật là xứng đôi vừa lứa. Cả hai đều có một tấm lòng sắt đá giống
nhau. Giữa lúc này, từ phía trong nhà, một người con gái đi ra, bà lão
giới thiệu là chị gái người vừa chết. Khách liền hỏi ngay:
- Em
trai cô vừa bị rắn cắn chết, chắc cô thương xót lắm nhỉ?
- Thương
xót là lẽ thường, nhưng thương xót có thể cứu người em sống lại được
chăng? Tôi tưởng: Chị em một nhà, khác nào như các cây gỗ ở rừng hạ xuống
đóng thành cái bè rồi thả vào nước cho trôi. Nếu sông hồ phẳng lặng thì bè
trôi mãi, bằng có cơn phong ba bão táp nổi lên đánh tan chiếc bè thì mỗi
cây trôi đi mỗi ngả, có bao giờ còn hy vọng lắp lại liền với nhau? Tình
chị em cũng thế. Ðó là nhân duyên kiếp trước hợp rồi sinh vào một cửa.
Tuổi thọ cũng tùy nghiệp báo, có người ngắn có người dài, và ngày chết
cũng là vô thường, không sao biết trước được. Nay em tôi chết, mặc dầu tôi
là chị hắn, nhưng tôi có làm gì được đâu? Huống chi là khóc với lóc, có
phải không ông?
Người
này đang nói, bỗng ở đằng sau, thấy một người đàn bà nữa tiến ra, khi nghe
cô chị nói xong thì kêu lên:
- Thế ra
chồng tôi đã chết rồi?
-
Ðúng đấy! Chồng bà đã bị rắn cắn chết ở ngoài đồng. Vậy bà đau buồn lắm
thì phải?
- Thưa
ông! Chồng chết ai không đau buồn, nhưng cái đạo vợ chồng ở đời khác nào
như đôi chim trong rừng, tối đến cùng ngủ một cành, sáng ngày lại bay đi
kiếm ăn, nếu có duyên thì trở về cùng nhau, nhược bằng gặp tai họa thì mỗi
con bay đi một ngả. Ấy nghĩa vợ chồng ở đời là thế, mỗi người có một số
mạng riêng, không làm sao mà nói được rằng: Chồng chết thay cho vợ, hay
vợ chết thay cho chồng. Như thế khóc lóc phỏng có ích gì?
Viễn
khách nghe lời mọi người trong gia đình này nói ra thì lòng sanh hoài nghi
cho thế tục nhân tâm ở xứ này, liền hối hận đã mất công tìm đến xứ này để
học cái hay cái tốt của Ðức Phật giáo hóa dân chúng; nào ngờ dân chúng như
thế hỏi còn học được cái gì ở đây? Chi bằng lui gót trở về quê hương xứ sở
là hơn. Nhưng hồi lâu lại nghĩ: Mình chưa được gặp Ðức Phật đã nóng nảy
phê bình một vài thái độ của dân, rồi vội vã quay về, như thế là hành động
nông nổi chưa chín chắn, chắc sau này có điều phải ân hận… Vậy ta phải đến
thẳng tịnh xá tại vườn Kỳ Viên, để được gặp Ðức Phật đã rồi sẽ hay. Nghĩ
rồi, khách đi thẳng một hơi tới Tịnh xá và được ra mắt Phật.
Khi thấy
Phật, khách khoan tay cúi đầu thi lễ, đoạn lui sang ngồi một bên, không
nói không rằng: Ðức Phật đọc rõ ý kiến trong lòng khách, nhưng cũng cất
tiếng từ bi hỏi:
- Tại
sao viễn khách có bộ dạng buồn rầu?
- Bạch
Thế Tôn, nhân vì con hy vọng một việc mà chưa được như ý nên trong lòng
con không được vui vẻ.
- Có
việc gì trái với bản tâm, tưởng cứ nói ra không nên để trong lòng phải ưu
sầu không thể giải quyết được việc gì hết!
Lúc
đó người khách mới thuật hết đầu đuôi câu chuyện đã gặp ở ngoài thành,
cuối cùng khách phê bình thái độ của gia đình nông dân ấy là trái với tình
đời.
Phật
nghe xong tủm tỉm cười dạy rằng:
- Ðiều
mà viễn khách cho rằng trái với tình đời là thuộc về “nhân tính”. Còn
chân lý thì không những không được thể hiện theo “nhân tính” mà còn phải
tước bỏ nhân tính cho đến hết. Ðó mới thực là điều khẩn yếu của kẻ tu hành
xuất gia.
Nghĩ
một chút, Ngài nói tiếp:
-
Viễn khách đây vì chưa hiểu chân lý, nên thấy gia đình nhà nông kia hành
động như thế thì vội cho là “phản tình đời”. Nhưng đứng về mặt chân lý mà
xét, thì những người ấy quả nhiên là không có hành động lỗi lầm, vì họ
biết rõ thế nào là “cuộc đời vô thường”, nghĩa là con người đời không thể
nào nắm giữ vĩnh viễn được cái “sắc thân” làm sinh mệnh bấy hủy bất diệt
của mình. Kìa xem từ xưa tới nay, dù là phàm hay Thánh, cũng không ai có
thể tránh được cái chết.
Nếu
vì một cái chết mà cả nhà theo nhau khóc lóc đến phát đau, phát ốm thì sự
khóc lóc ấy hỏi có ích lợi gì cho cả người sống lẫn người chết? Vả chăng,
con người ngay từ lúc sơ sinh, đã nắm chắc lấy cái chết trong tay rồi. Nay
thấy sự chết mà gây phiền não trong lòng quá đỗi thì ta “mê hoặc” chưa
hiểu cái lẽ sống chết. Nên biết rằng “sống” và “chết” là hai đầu mối luôn
luôn tiếp diễn và luân chuyển không lúc nào ngừng. Hễ đã biết rõ được như
thế là đã giải thoát rồi.
Viễn
khách nghe Ðức Phật giảng giải cho nghe một hồi thì lòng thoát nhiên tỉnh
ngộ. Liền nguyện xin ở lại làm đệ tử của Phật và qui y Phật pháp tức thì.
Viễn khách này sau trở nên một vị Tỳ kheo rất tinh tiến.
PHẠM NGỌC KHUÊ
Thân như bóng chớp chiều tà,
Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời
Sá chi suy thịnh việc đời,
Thịnh suy, suy thịnh, sương rơi đầu cành.
Chuyện bảy cái lọ vàng(^)
Ðời
quá khứ cách đây vô số kiếp, ở cõi Diêm Phù Ðề có một nước lớn tên là Ba
La Nại. Thuở đó có một người ham làm giàu đến nỗi không dám ăn no mặc đủ
hoặc bố thí giúp đỡ ai. Làm được bao nhiêu người đó mua vàng dần tích trữ,
dần dà đóng thành 7 lọ đem chôn giấu kỹ.
Chẳng
may một thời gian sau khi bệnh chết, vì tiếc của nên phải đọa làm rắn độc,
ngày ngày quanh quẩn ở xó nhà giữ vàng.
Năm,
tháng trôi qua, căn nhà mục nát sụp đổ, rắn ấy bị chết. Bởi tâm quá tham
tiếc nên lại đọa làm thân rắn một lần nữa để coi giữ trên đống đất chôn
vàng.
Cuối
cùng, quá chán ngán mệt mỏi rắn thầm nghĩ: “Thân thể ta xấu ác bởi vì tham
tiếc của, nay phải đem số vàng này cúng dường bố thí để cầu phước báo”.
Nghĩ xong, rắn bò men tới bên vệ đường, chợt thấy một người đi qua liền
gọi:
- Này
bác kia, lại gần đây tôi bảo!
Khách
qua đường thấy rắn liền đáp:
- Ngươi
độc ác như vậy gọi ta làm chi, có phải định hại ta chăng?
- Ừ,
ta ác đấy, nếu bác không nghe lời ta sẽ tác hại.
Nghe rắn
đe dọa, người đó sợ hãi vội lại gần. Rắn nói tiếp:
- Nhà
tôi có 7 lọ vàng, nay muốn nhờ bác đem đi cúng dường bố thí hộ cho.
Người đó
ưng thuận. Rắn dẫn ông ta về nhà chỉ chỗ chôn vàng và bảo ông ta bới lên
một lọ rồi dặn:
- Bác
đem vàng này về cúng Trai Tăng và định ngày nào thiết trai cúng dường thì
mang một cái gậy lại đây khiêng tôi đến.
Người ấy
mang vàng về chùa giao cho một vị Tăng, chức vụ Duy Na và kể rõ sự tình.
Ðến
ngày thiết trai, người đó trở lại chỗ rắn ở với một chiếc gậy. Rắn gặp ông
ta, vui vẻ hỏi han và quấn mình tròn vào chiếc gậy. Ông ta lấy cái khăn
chiên phủ lên trên và khiêng tới chùa. Ði nửa đường gặp một người khách lạ
hỏi:
- Ông
khiêng cái gì đẹp thế?
Khách
trịnh trọng nhắc tới ba lần câu hỏi đó. Ông ta vẫn cứ yên lặng rảo bước.
Rắn độc tức giận, ác tâm bộc phát muốn cắn chết ông nhưng lại thầm nghĩ:
“Người này vì ta làm phúc, ơn đã chưa trả thì ta nên nhẫn”.
Một lát
đi tới khu đồng vắng vẻ, rắn đòi đặt xuống đất và cực lực trách ông ta về
thái độ lạnh lùng lúc nãy đối với người khách. Ông ta hối hận và xin hứa
không bao giờ xử sự như thế nữa.
Khi đến
chùa, rắn độc được nằm trước mặt Tăng chúng. Rắn nhờ ông dâng hương. Rắn
tự lấy tín tâm cung kính quan sát không rời mắt. Chư Tăng chú nguyện và
thuyết pháp cho rắn nghe, rắn rất hoan hỷ nói:
- Bạch
Ðại Ðức! Xin mời Ngài tới chỗ tôi ở, còn 6 lọ vàng nữa xin dâng cúng dường
bố thí để cầu phước. Vị Tăng Duy Na theo rắn và người khiêng tới chỗ lấy
vàng. Cúng dường xong, rắn chết.
Cũng
do phước đức ấy rắn được sanh lên cõi trời Ðao Lợi.
Ở câu
chuyện trên, một hôm Ðức Phật nói với Ngài A Nan rằng:
- A Nan! Ông có biết người khiêng rắn lúc
bấy giờ là ai không? Chính là ta đó! Còn rắn độc thuở đó là ông Xá Lợi
Phất. Ngày ấy bị rắn trách mắng ta hổ thẹn và tự thề sanh tâm khiêm hạ đối
với mọi loài, mọi vật đều xem bình đẳng mãi mãi không thối chuyển…
Y HÀ
Tài thí trừ khổ về thân, pháp thí trừ khổ về tâm.
Tài thí cho tiền vô tận, pháp thí cho trí vô tận
Tài thí làm thân sung sướng, pháp thí làm tâm
sung sướng.
Tài thí người ngu ham muốn, pháp thí người trí
ham muốn
Tài thí đem vui hiện tiền, pháp thí đem vui Niết
bàn.
Lễ cúng dường cuối cùng của
Thuần Ðà(^)
Ở
nước Câu Di Na Kiệt có vị trưởng giả tên là Thuần Ðà, cùng 5000 vị trưởng
giả nghe tin Phật sắp nhập Niết bàn, liền đến đảnh lễ khóc lóc mà bạch
Phật rằng:
- Xin
Ngài từ bi thương xót chúng con. Xin Ngài ở lại lâu thế gian, đừng vội
nhập Niết bàn. Xin Ngài thọ lãnh lễ cúng dường này để chúng con được công
đức và sớm giải thoát.
Ðức Thế
Tôn bảo Thuần Ðà:
- Ta nay
vui lòng thọ lãnh lễ cúng dường cuối cùng của ông. Các ông chớ có sanh
lòng ưu não chính nên phải sung sướng hoan hỷ, đừng có thỉnh cầu Như Lai ở
lại lâu làm gì.
Các
ông thử quan sát mà xem, ở đời mọi vật đều vô thường, hết thảy chúng sanh
cũng lại vô thường. Dầu ở lâu trên đời rồi cũng có ngày diệt tận. Tuy sanh
trưởng thọ yểu, mạng sống cũng có lúc bị tổn hoại. Mạnh rồi sẽ bị bệnh bức
khổn, người sống rồi phải chết, đâu có thể thường tại lâu ngày, cho đến vợ
con, vàng bạc, voi ngựa cũng chịu luật vô thường chi phối. Những kẻ thân
thích nhất ở trên đời cũng phải chịu biệt ly, duy có bốn món họa lớn chi
phối con người là sanh, lão, bệnh, tử.
Thuần Ðà
nghe nói lại càng khóc lóc thảm thiết, khẩn cầu Như Lai ở lại. Ðức Phật
lại bảo:
- Ông
chớ nên khóc lóc làm loạn động tâm niệm. Hãy bình tĩnh suy xét. Nên biết
rằng tất cả pháp hữu vi đều không kiên cố chân thực.
Thuần Ðà
lại bạch Phật:
- Ðức
Như Lai không thương xót chúng con nên không ở lại trên đời. Thế giới này
mà không có Như Lai thời vắng vẻ trống rỗng như hư không, làm sao chúng
con lại không than khóc được.
Ðức Phật
lại phải dạy rằng:
- Ðức
Thế Tôn thật vì có lòng thương tưởng chúng sanh và các ông nên mới nhập
Niết bàn. Hết thảy Phật pháp đều vô thường, hết thảy pháp hữu vi cũng đều
vô thường…
MINH CHÂU
Nếu không có cái sanh, cái già, cái bệnh,
cái chết thì Ðấng Như Lai cũng chẳng giáng trần làm gì và Phật pháp cũng
chẵng có cơ hội để rải tủa ánh sáng siêu việt khắp trong thế gian.
Chiến công oanh liệt nhất(^)
“Trẫm
đang say danh lợi, sợ nghe pháp Phật lỡ tin thì bỏ giang sơn, sự nghiệp
cho ai”. Ðây là câu nói của Hoàng đế Vô Trách Niệm trả lời với đạo thần
Bảo Hải.
Vua
Vô Trách Niệm là một vị Hoàng đế danh tiếng lẫy lừng nhất trong thời xưa
ấy. Vua có tài dẹp giặc nên trăm trận trăm thắng, đi đến đâu thì các nước
đều qui phục, và người ta dâng vua rất nhiều mỹ nữ. Trong số tám ngàn cung
nữ, người được vua sủng ái nhất là Mai Phi và Lan Phi của hai nước đem
dâng trong khi làm lễ đầu hàng.
Nhưng có
lẽ “chiến công oanh liệt nhất” của vị Hoàng đế thanh danh ấy là một hôm
mải say sưa với phép dụng binh, để sửa soạn chinh phục thêm mấy nước, lại
đương triền miên trong dục lạc, thì vị cận thần của vua là Ngài Bảo Hải
đến mời vua đi nghe Ðức Bảo Tạng thuyết pháp. Vua cười: Trẫm đương say
danh lợi sợ nghe pháp Phật lỡ tin thì giang sơn sự nghiệp bỏ cho ai? Ðại
thần Bảo Hải làm thinh. Nhưng vua ngoảnh lại tìm người sắp sẵn xe giá để
vua đi hành lễ.
Thế
rồi tất cả đình thần, tám nghìn cung nữ chánh cung Hoàng hậu và Mai Phi,
Lan Phi cùng theo vua đi yết kiến Ðức Bảo Tạng Như Lai. Sau khi được nghe
pháp Phật xong, vua và Hoàng hậu phát tâm cúng dường Phật cùng Chúng Tăng
đầy đủ tứ sự trong 3 tháng.
Sau thời
gian 3 tháng cúng dường xong, Ðại thần Bảo Hải tâu vua: Trong tất cả các
pháp cúng dường Chư Phật, thì chỉ có pháp Bồ Ðề Tâm - Chỉ có phát triển
cái tâm trên cầu thành tựu quả Phật dưới nguyện độ tất cả chúng sanh mới
là hơn hết.
Trong
một tuần suy nghĩ kỹ, vua Vô Tránh Niệm quyết trường từ bảo vị trước Phật
Bảo Tạng Ngài xin xuất gia làm Sa môn. Trong một đời vua Vô Tránh Niệm
đánh đông dẹp bắc, trăm trận trăm thắng. Nhưng chỉ có trận giặc lòng này
mà ngài đã thắng mới là chiến công oanh liệt nhất.
Ngài
Pháp Tạng Tỳ Kheo (vua Vô Tránh Niệm) đối trước Ðức Phật Bảo Tạng mạnh mẽ
phát bốn mươi tám nguyện. Khi Ngài phát nguyện xong thì cả đại địa đều
rúng động, vì nguyện nào cũng chứa chan tha thiết một ý niệm cầu cho tất
cả chúng sanh thoát khổ được vui, vì thế Ðức Bảo Tạng thọ ký cho ngài, sau
này sẽ thành Phật hiệu A Di Ðà làm giáo chủ cõi nước Cực Lạc.
Phát
nguyện rồi Ngài tinh tấn lo tu phước đức. Trong thời gian tu phước, Ngài
đã làm tất cả những việc khó làm, nhẫn tất cả những việc khó nhẫn. Giữ gìn
thân khẩu ý thanh tịnh, thường hòa thân vào trong các loài, thọ dụng như
chúng để tiện bề giáo hóa. Cứ như thế trải vô lượng kiếp cần khổ, tích
lũy công đức, đến khi thành Phật thì được phước báo sống lâu vô lượng, nên
hiệu Ngài là: “VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT”.
Ngài lại
giữ gìn phạm hạnh, siêng tu thiền định nên trí tuệ càng ngày càng sáng
suốt, cho đến khi huệ tánh bao trùm cả thái hư thì ngài thành Phật niên
hiệu là “VÔ LƯỢNG QUANG”.
Từ
khi phát tâm ban đầu cho đến khi thành Phật, tất cả việc làm, lời nói, ý
nghĩ gì Ngài cũng hồi hướng về chúng sanh cả. Vì thế nên chúng sanh ở cõi
Ta Bà có rất nhiều duyên với Ngài, nếu nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Ngài
dù tối thiểu trong một ngày mười niệm, mà tha thiết cầu sanh về nước Ngài
thì hiện đời này sự sống sẽ yên ổn, khi lâm chung chắc chắn được vãng
sanh. Khi đã sanh về Cực Lạc thì sẽ được thần thông tự tại, có thể đi khắp
tam giới, thấy suốt mười phương và biết được trong ba đời, không còn bị
khổ, không có chướng duyên, nên ai đã được may mắn sanh về Cực Lạc thì dễ
tu chứng không còn sợ phải trở lại lăn lóc trong cõi Ta Bà này nữa.
Vua Vô
Tránh Niệm đầu tiên chứng được thiên nhãn thông, Ngài mới biết đại thần
Bảo Hải là thiện tri thức, nhờ thiện tri thức kích phát bồ đề tâm vua Vô
Trách Niệm mới thành Chánh Giác.
Ðại thần
Bảo Hải chính là tiền nhân của Ðức Thích Ca, Ðức Thích Ca là thiện tri
thức của Ðức Di Ðà, mà hiện nay Ngài là Minh Sư của chúng ta…
THỀ QUÁN
Ái ái hà là ngàn thước nước xao,
Muôn trùng biễn khổ sóng nhào thương ôi!
Muốn cho khỏi kiếp luân hồi,
Phải mau sớm niệm Nam Mô Di Ðà.
Sự tích bánh cốm(^)
Ngày xửa
ngày xưa, không biết từ đời nào, tương truyền ở tỉnh Hà Ðông, có một nhà
Phú ông nọ hay tu nhân tích đức đã nổi tiếng khắp vùng. Những người nghèo
khổ thường đến xin ông bố thí đồng tiền bát gạo, những người có cha mẹ từ
trần, mà túng bẫn quá, thường đến xin ông cấp cho quan tài, những người có
cha mẹ vợ con đau yếu, không tiền chạy chữa, thường đến xin ông cấp cho
đôi chút để cân thuốc thang. Cả những đứa trẻ mất cha, mất mẹ từ lúc nhỏ
cũng được ông đón về nuôi nấng cùng cho đi học. Nghĩa là cả vùng đó ai có
sự cần cấp là không quên đến gõ cửa nhà ông, mà chưa ai từng bị ra tay
không bao giờ. Do đó, mà thời bấy giờ hễ nói đến hai chữ “Tích Ðức” thì
không ai không trỏ vào nhà ông. Cho nên hai chữ này sau trở thành tên
riêng, khác nào cả dân chúng toàn vùng đã đặt cho ông vậy.
Một
hôm, ông Tích Ðức sau khi đi bố thí ở vùng lụt về, mệt quá ông ngồi xuống
chiếc tràng kỷ đặt bên cạnh lối ra vào để nghĩ ngơi, bỗng chốc có 6 vật
lạ, người chẳng ra người, ma chẳng phải ma, thấp thoáng đi lại chỗ ông
ngồi, và cất tiếng rụt rè có ý cầu khẩn ông.
- Thưa
ông, chúng tôi muốn lại nhờ ông dung nạp…
Ông
liền hỏi một cách bâng quơ:
- Các
bạn là ai? Có cần tôi việc gì xin cứ nói!
Lập tức
trong hư vô có tiếng trả lời:
- Chúng
tôi là Lục Tặc: Nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân, ý của Quốc vương hiện tại.
Nhân vì giả thân tứ đại của Ngài sắp tan rã, nên chúng tôi phải tìm chỗ
đầu thai để báo hiện thân Ngài. Bởi Ngài tuy có nghiệp căn tốt, nhưng hiện
mắc 6 điều tham:
1.
Mắt Ngài tham sắc, không lúc nào chán, cho nên bây giờ linh tính đó
phải thác vào địa ngục Noãn sanh (do trứng nở ra) biến làm loài chim có
lông đẹp khoác luôn vào mình để được thỏa mãn sự ngắm nghía.
2.
Tai Ngài tham nghe đàn ca du dương, lời nói uyển chuyển nên bây giờ
linh tính đó phải đọa vào địa ngục Thai sinh (do bào thai sinh ra) biến
làm giống lừa, ngựa, chó, mèo có nhạc đeo ở cổ để thỏa mãn sự nghe.
3.
Mũi Ngài tham ngửi mùi thơm cá thịt chiên xào, nên bây giờ linh
tính đó phải đọa vào địa ngục thấp sinh (sinh dưới nước) biến làm cua, cá,
lươn, tôm ở nơi đầy bùn dơ dáy hôi hám để thỏa mãn sự ngửi.
4.
Lưỡi Ngài tham ăn các vị ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén, hương cừ) nên
bây giờ linh tính đó phải đọa vào địa ngục hóa sinh (thay lột nhiều lần mà
sinh) biến làm muỗi rệp, gián, ve, rận, chí để được thỏa mãn sự hút máu
tanh hôi.
5.
Thân Ngài tham dâm dục, nên bây giờ linh tính đó phải đọa vào kiếp
gà, vịt, ngỗng, ngang để được thỏa mãn sự giao cấu thư hùng.
6.
Tâm Ngài châu báu, tiền của nên bây giờ linh tính đó phải đọa vào
kiếp lạc đà, la, lừa cả ngày chỉ chuyên chở đồ vật vàng bạc trên lưng để
thỏa mãn sự giàu có.
Nay
chúng tôi thấy nhà ông đây có đức, thường đối xử tốt với các loài người
lẫn loài vật, vả lại nhà ông có đủ mọi loài ở cạn cũng như ở dưới nước, dễ
bề đầu thai cho cả 6 đức chúng tôi, nên chúng tôi đến cả đây nhờ ông dung
nạp cho. Chúng tôi xin báo trước đêm mai, con lừa nhà ông đẻ, mà đứa con
nó là linh tính tham tài cuả nhà Vua thác sinh vào. Vậy sinh ông lưu tâm.
Bọn lục tặc nói đến đây, bỗng một cơn gió mạnh đập vào mành mành khiến ông
tỉnh dậy, hóa ra giấc mơ.
Suốt
ngày hôm sau, ông Tích Ðức thắc mắc cửa tin, nửa ngờ về chuyện báo mộng,
nên cứ trằn trọc tới nửa đêm vẫn chưa ngủ. Sịch có tên gia nhân thấy ông
còn thức thì hối hả vào báo: “Lừa nái vừa sanh lừa con” lúc đó ông mới yên
tâm tin là mộng đã báo đúng như sự thật. Tiếp luôn đến chiều hôm sau, có
tin: Quốc Vương thăng hà vào khoảng nửa đêm hôm trước, đúng là lúc con lừa
nhà ông đẻ, làm cho ông càng tin rằng quả có Lục Tặc đầu thai.
Từ đó
trở đi, mỗi lần linh tính nào của nhà Vua đầu thai làm vật gì trong nhà
ông, ông đều được báo trước cho biết. Ðến khi nhà Vua đầu thai hết 6 lần:
Làm lừa, làm cá, làm chim, làm muỗi v.v… thì ông cũng vừa 80 tuổi.
Cách
3 năm sau, một hôm tại nhà cụ Tích Ðức có thiết tiệc cơm chay long trọng
cúng dường Chư Vị Hòa Thượng và Chư Tăng. Hôm đó, trên bàn thờ Phật đủ cả
các lễ vật, hương hoa, lại có thêm một thứ bánh dẹp, hình vuông, gói trong
lá chuối xanh, có buộc lạt đỏ mà xưa nay chưa từng thấy.
Khi
cúng Phật xong, Chư Hòa Thượng và Chư Tăng vào thọ trai với tuần dâng hoa
quả bánh trái, bỗng mọi người ngạc nhiên thấy thí chủ đem lên những đĩa
bánh màu xanh như ngọc, chất mượt như tơ, khi bỏ vào miệng thấy có hương
vị xông lên như hương lúa đồng mà chất bánh thì dẻo quánh càng nhai càng
ngọt càng bùi. Thật là một thứ bánh đặc biệt.
Trong
khi mọi người đang ca ngợi thưởng thức, thì Hòa Thượng cao tuổi nhất từ từ
đứng lên hỏi thí chủ:
- Xin
cho bần đạo và Chư Tăng biết thứ bánh quý nầy, thí chủ đã mua ở đâu và gọi
tên là gì?
Thí Chủ
- Cụ Tích Ðức - trịnh trọng đứng lên, với giọng nói phào phào, cụ bạch rõ
câu chuyện đã thuật ở trên, từ chỗ Lục Tặc đầu thai cho đến chỗ Quốc Vương
thác sinh hết 6 kiếp, cụ nghỉ lấy hơi nói tiếp: Lần báo mộng cuối cùng Lục
Tặc có nói cho biết rằng:
- Thể
theo lời Quốc Vương lúc sắp thăng hà, có tỏ ý hối hận về lúc sống đã quá
mắc phải 6 điều tham xúi bẩy nên phải trụy lạc luân hồi. Nay quyết sám hối
tội lỗi và mong được biến hóa làm một vật gì vừa được giúp ích cho đời,
vừa được gần Phật, nên chỉ anh em chúng tôi đã hóa làm giống nếp hương,
hiện mọc tại cánh ruộng lúa nhà cụ. Vậy mong cụ cố gây giống lúa cho nhiều
thêm rồi lưu tâm sáng chế thành thứ bánh dâng cúng Phật và Chư Tăng để cho
Quốc vương sớm đoạn kiếp mà siêu sanh tịnh độ.
Do đó,
cụ Tích Ðức nói tiếp: “Già này không dám ngại công khó nhọc đã hết sức gây
giống lúa ấy cùng chế ra thứ bánh này, lấy tên là bánh Cốm. Nghĩa là lúa
còn non, để dâng Phật và cúng dường Chư Hòa Thượng và Chư Tăng ngày hôm
nay, không ngờ lại được từ âm quá khen, thật là sung sướng cho già này
không sao tả xiết! Mới hay tâm thành cũng thấu đến trời Phật”.
Cụ Tích
Ðức trình bày xong, các vị Hòa Thượng cùng Chư Tăng thảy đều hoan hỷ và
cùng công nhận bánh cốm là sản phẩm quý báu của nước nhà đang đứng vào
hàng trai phẩm cúng Phật.
Bắt đầu từ đó nước ta có bánh cốm ra đời.
Sau nhân sự phổ biến ngày một rộng lớn, và nổi danh khắp nơi, nên đời mới
đem bánh cốm dùng vào các lễ trọng của nhân dân như lễ ăn hỏi, lễ sêu tết,
lễ cưới và cả đến lễ táng cũng dùng bánh cốm thay cho bánh dầy, bánh
chưng.
PHẠM NGỌC KHUÊ
Ðến khi ta mãn phần, linh hồn ta nó tách đi một
mình, chừng đó, chỉ có những điều lành của ta đã tạo phò trợ
cho ta mà thôi
- o0o -
Tập 01 |
Tập 02 | Tập
03 | Tập 04
- o0o -
| Mục lục Tác giả || Tủ
Sách Phật Học |
---o0o---
Vi tính: Tịnh
Hương, Tịnh Tâm
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-09-2002