Truyện Cổ Phật Giáo
Tập 2
Thích Minh Chiếu
Sưu tập
---o0o---
Người đẹp gieo cầu
^
Cái tin “Người đẹp gieo cầu” loan đi rất chóng. Thế là hai vị
Quốc vương ở nước lân bang chưa lập Hoàng hậu, và tám vị Ðông cung của tám
nước chư hầu, thêm vào nhiều vị Hoàng tử đa tình với một số Vương tôn hiếu
sắc đều xao xuyến cả lên.
Kinh đô xứ Ma Kiệt Ðà mấy tháng nay vô cùng náo nhiệt. Bộ
kiến thiết xuất ra một số ngân quỹ lớn, để dựng lên những ngôi nhà mỹ lệ
trang ngiêm chờ tiếp quý khách bốn phương.
Mùa đông, gió mưa đã lặng lẽ rút lui, trăm thứ hoa lan bắt đầu
chớm nở để đón mùa Xuân về, kinh thành Ma Kiệt Ðà cũng rộn lên như trăm
hoa vậy.
Rồi những đoàn lạc đà lông mướt như cỏ non, oai dũng tiến vào
kinh đô, từng đoàn ngựa tốt yên cương toàn bạch ngân rầm rầm tiếp đến, và
đây là đoàn bạch mã, hãnh diện trong những bộ yên cương vàng thắm như son.
Nhưng người ta chú ý đến đoàn kỵ mã vào sau, có một đặc biệt làm dân chúng
chú ý là phải. Một đoàn kỵ mã võ trang oai phong hùng dũng, tiếp đó là
một thớt bạch tượng sắc trắng như tuyết, mướt như nhung, cổ bạch tượng đeo
chuỗi anh lạc toàn thất bửu, bốn chân đeo nhiều lục lạc vàng mới y.
Trên lưng bạch tượng, một thiếu niên anh quân, đây là vua
nước Câu Ðà Thi Lợi cũng có một danh từ đặc biệt của dân chúng tặng là:
Hoàng Ðế Tam Ða (đa trí, đa tham, và đa tình) từ khi mưu giết được anh,
rồi lên ngôi Hoàng đế, ông có tài dụng binh rất giỏi nên các nước đều sợ
oai, danh ông lừng lẫy bốn phương. Mặc dù nhà vua là một bậc anh hùng tái
thế, nhưng phải cái bệnh cũng đa tình hiếu sắc. Khi nghe đồn con gái nhà
vua Ma Kiệt là trang tuyệt sắc thì nhà vua mê mệt, và ước ao cưới được
nàng sẽ sắc phong Hoàng hậu.
Vua cho sứ thần đem nhiều lễ quí qua cầu hôn. Sứ đi vua hồi
hộp đợi chờ như trẻ con mong mẹ về chợ vậy. Nhưng anh hùng cái thế cũng
phải toát mồ hôi, khi nghe tin công chúa từ hôn, vì cái lịch sử của mình
không được đẹp (giết anh đoạt ngôi). Tuy chưa hề gặp mặt, nhưng chữ khuynh
thành đã ám ảnh nhà vua, nên ông thề thế nào cũng cưới cho được nàng mới
nghe.
Bỗng nay, cái tin Công chúa sẽ làm lễ gieo cầu, làm ông đặt
nhiều hy vọng.
Trước khi lên đường, vua vỗ về bạch tượng: Phiền khanh chuyến
này thật không phải vì tham đất nước nữa, chỉ mong khanh làm thế nào giúp
trẫm, đoạt được quả cầu của mỹ nhân trẫm sẽ trọng thưởng.
Hôm nay là ngày lễ thần Phạm Thiên, trên lầu hoa cao, trước
bàn thờ thần, bộ nghi lễ trang hoàng cực kỳ lộng lẫy. Người ta cắm trăm
thứ hoa tươi xông một trăm thứ bông quý, đốt trăm nén hương thơm, thắp
trăm đôi bạch lạp. Trăm đồng nữ xiêm y rực rỡ, trăm vị Phạm Chí lễ phục
oai nghiêm v.v… Ở đây thứ gì cũng phải đủ số trăm để tượng trưng cầu “Bách
niên giai lão”.
Các nhà danh cầm trong nước, đã vỗ nhiều bản nhạc đầy ý nghĩa:
“Loan phụng hòa minh” hay “Sắc cầm hòa hiệp” v.v…
Ban nhạc cử lên, trăm em đồng nữ múa xong điệu, rồi rẽ ra hai
bên tượng hình Song Hỷ, tiếp đó trăm vị Phạm Chí vào làm lễ cầu nguyện
xong. Công chúa Vô Song trong phòng hoa đài các bước ra, kính cẩn quỳ
trước tượng thần. Hai trẻ thanh y quỳ hai bên, dâng cao hộp ngọc đựng quả
cầu, và bình pha lê đựng nước hoa thơm. Thanh y nghiêng bình pha lê rưới
vào đôi bàn tay ngọc, rồi mở tráp dâng quả cầu, Công chúa nâng cao quả cầu
lên đảnh (đây là quả bóng tròn, lớn bằng quả cam, ngoài bọc gấm quý, trên
thắt trăm vòng dây kim tuyến) quả cầu chỉ có thế, nhưng đã mang lại một sứ
mạng trọng yếu, nghĩa là tất cả cuộc đời của Công chúa, hạnh phúc an vui,
hay bẽ bàng đau khổ, đều do quả cầu này định đoạt.
Nàng kính cẩn quỳ trước tượng thần rất lâu, khấn vái kỹ càng:
ngày sanh, tháng đẻ, họ hàng làng nước v.v… cẩn thận nàng tha thiết cầu
thần linh dun dủi, quả cầu gieo trúng người được nàng yêu, sẽ yêu nàng mãi
mãi.
Những bản nhạc chúc mừng tiếp tấu du dương vừa dứt, hàng vạn
âm hưởng lao xao đều ngừng bặt. Tất cả chú ý nhìn lên lầu hoa, Công chúa
mặc lễ phục toàn sắc trắng tinh, đính nhiều hạt trai thêu thành trăm hoa.
Trên đầu là một tràng hoa kết bằng kim cương. Toàn thân nàng là cả một
tượng nữ thần kỳ công của nhà điêu khắc danh tiếng, hay một bức tranh mỹ
nhân do bàn tay họa sĩ tuyệt tài. Thật không biết cái đẹp của hằng nga thế
nào, nhưng ta cũng tạm mượn để ví với Công chúa Vô Song khi ở trong lầu
hoa lộng lẫy bước ra. Nàng đứng hẵn ngoài bao lơn nhìn khắp một lượt. Thế
là hàng trăm quả tim đứng đợi đoạt cầu, tuy không hẹn nhau mà đồng thời
hồi hộp. Nhất là Hoàng đế Tam Ða, khi nhìn rõ Công chúa, ông kiêu hãnh và
tự nghĩ: tài này sắc ấy thật xứng đôi, nếu ta đoạt được cầu thì ta thề sẽ
thờ nàng trọn đời.
Công chúa nhìn khắp một lượt rồi dồi cao quả cầu tung lên giữa
hư không…
Ôi! Bóng hạnh phúc, bóng hạnh phúc hiên ngang lơ lững giữa hư
không, làm cho Quốc vương, điện hạ, sứ quân… ngớp ngớp chụp bắt. Nhưng làm
sao bắt được bóng hạnh phúc???
Quả bóng vô tư gặp luồng gió nhẹ, và trên quả cầu có chùm kim
tuyến, nên trăm mối chỉ xòe trông rất đẹp, nó cũng không rơi xuống ngay
được. Vì thế quả cầu cắc cớ lơ lửng giữa không trung, chợp chờn trớ trêu
trong khi trăm lòng mơ ước.
Bỗng người ta nghe có tiếng người la to: Á ông Sa môn, ông Sa
môn ơi! Quả cầu vướng vào tích trượng của ông kia kìa.
Thế là trống kèn trổi dậy, để chúc mừng vị tân phò mã. Song vị
Sa môn vẫn khoan thai từ bộ, hình như người không biết có việc gì xảy ra.
Ðại phàm cái gì có tương đối mới tương tranh, còn cái không
ngờ thì thật lòng cũng không nghĩ đến ganh ghét kịp. Như cuộc gieo cầu
này, nếu có một vị trong trăm vị Quốc vương đại thần… mà đoạt được quả
cầu, thì chắc chắn có cuộc chiến tranh không khỏi. Nhưng đằng này quả cầu
trớ trêu vướng tòn ten trên đầu tích trượng, thành thử trăm lòng như một,
họ đều chưng hửng và rồi vì đồng cảnh thất vọng như nhau, nên họ thông cảm
nhau rất dễ.
Phải chăng bóng hạnh phúc vô tình vướng vào đầu tích trượng
hay tại Thần lãng tai nghe khấn lộn, chớ ai nỡ đem cái ân ái buộc cho
người xuất gia ly dục bao giờ?
Không, không phải vậy. Thật ra khi Công chúa đứng trên lầu
hoa, nàng đã thấy trăm quả tim rộn lên vì sắc đẹp của mình, nàng nghĩ
thầm: Ôi! Chỉ vì một chút nhan sắc của ta, mà làm hao phí biết bao nhiêu
của dân của nước… Ừ! Tim kia đã rộn ràng lên vì sắc đẹp thì sẽ có ngày
lạnh lùng vì tuổi già. Và nếu một người trong số trăm người này đoạt được
quả cầu thì ta e không khỏi xảy ra chuyện chẳng lành cho dân cho nước.
Ðương bâng khuâng suy nghĩ, rồi nàng phóng tầm mắt nhìn xa và nàng đã
thấy. Nàng thấy một vị Sa môn uy nghi trong bộ áo cà sa tay cầm tích
trượng xa xa tiến lại, Sa môn từ bộ thản nhiên giữa đám người đang rộn
rịp.
Ôi! Người đâu mà đẹp thế? Oai nghiêm như một vị thần linh ứng,
từ bi như một bà mẹ dịu hiền và đĩnh đạt như một vị thầy
mô phạm.
Tâm quan thanh tịnh của người ly dục phát ra một sắc đẹp
phi thường. Công chúa sững sờ nàng cảm thấy tràn lòng yêu kính. Nàng nói
một mình: Chỉ có quả tim này mới không rộn ràng trước sắc đẹp và chỉ có
quả tim này, mới không lạnh lùng trước tuổi già.
Công chúa nhắm ngay vị Sa môn… tung mạnh quả cầu
vào người mặc dù trống dục còi thổi, nhạc trổi, người kêu. Vị Sa môn vẫn
bất động, người cứ đi, và quả cầu cứ tòn ten trên
đầu tích trượng.
Một toán ngự lâm quân phóng ngựa chạy theo: “Kính tâu tân
phò mã. Xin người hãy dừng chân, xin phò mã hãy
dừng chân lại…”.
Lạ thay người đi vẫn ung dung, mà ngựa chạy theo không kịp.
Vua quan tân khách và dân chúng đều lao xao cả lên.
Ðoàn ngự lâm quân phóng ngựa theo Sa môn, không biết đi về phương nào mà
trông hoài không thấy.
Trên lầu hoa, cả hoàng gia ngồi chờ tin tức, nhưng mãi đến
chiều tối, mới có một người trong đoàn ngự lâm ban sáng, bơ phờ trở về tâu
lại mới hay, vị Sa môn ấy là Thái tử Tất Ðạt Ða con vua Tịnh Phạn nước Xá
Vệ và Ngài đã xuất gia, thành Phật hiệu “Thích Ca Mâu Ni” Ngài và đồ chúng
vừa đến hôm qua, hiện nay đang trú tại rừng Tân Tần Già. Còn đoàn ngự lâm
theo Ngài lúc ban sáng nay cũng theo Ngài cạo đầu
xuất gia học đạo hết rồi.
Vua ngao ngán nhìn con gái yêu: Không biết con tôi khấn khứa
thế nào mà ra nông nỗi này. Con ơi! Sa môn là người ly dục, lòng đã sạch
ái ân, quả cầu con rơi lạc hướng rồi con ạ!
Công chúa như người trong mê, nàng còn biết nói sao, khi lòng
mình đã vướng một mối tình bâng quơ. Nàng nghe danh Thái tử đã lâu, không
ngờ hôm nay nàng được gặp và nàng đã yêu nhưng nay nàng mới biết nàng yêu
như thế chỉ tự mình đem muôn mối tơ thương, quấn bậy giữa hư không, hư
không đâu có dính mắc?
Song nàng cố trấn tĩnh tâu với Phụ
vương: Tâu Phụ vương và Mẫu hậu, con tưởng theo kỷ luật gieo cầu của nước
ta từ xưa đến nay, bất luận người sang kẻ hèn, hễ ai trúng cầu thì được
vợ, vì đây là lương duyên do thần định đoạt, nay quả cầu con gieo trúng
Thái tử rõ ràng, thì con xin tình nguyện theo Ngài để sửa bát nâng y trên
đường hóa độ. Vậy xin Phụ hoàng và Mẫu hậu hãy cùng con đi đến chỗ Thái tử
xem sao?
- Thì đành vậy, chỉ còn cách đi đến điều đình với Phật chứ
biết sao?
Thế là sáng sớm hôm sau cả Hoàng gia đưa con gái đến ra mắt
Phật. Tin ấy loan ra, rồi tất cả một trăm phò mã hụt cũng tình nguyện đi
theo, mặc du đều là tín đồ của phái Bà La Môn.
Sáng nay Ðức Phật bảo chúng Tăng đình việc đi khất thực lại,
và vân tập để nghe Phật thuyết pháp. Phái đoàn Bà
La Môn đến vừa lúc Ðức Phật thuyết pháp xong.
Vua và Hoàng hậu đi trước, đến Công chúa kế đó là các vị Quốc
vương… xứ lạ, lần lượt tiến vào.
Ðức Phật ngự trên pháp tòa cao, oai nghi đồ sộ như núi Tu di,
thân tượng chiếu ra một sắc đẹp lạ lùng. Hai bên hàng ngàn Tăng chúng ngồi
im phắc như ngàn pho tượng vậy.
Vẻ oai nghiêm của Phật, sự yên lặng của chúng Tăng, đánh mạnh
vào tâm khảm mọi người… Vua không đảnh lễ Phật, vì ông nghĩ dù là Phật
song sẽ làm rể mình, không lẽ mình lạy rể? Vua phán:
- Kính Ngài, theo kỷ luật gieo cầu của nước chúng tôi, thì ai
trúng cầu là được vợ. Hôm qua con gái tôi gieo cầu trúng Ngài, thế là Thần
linh định lương duyên rõ ràng nên con tôi cũng tình nguyện theo Ngài trên
đường hóa độ, phòng khi “nâng bát sửa y”.
Ðức Phật nhìn Công chúa, Ngài yên lặng một lúc Thế Tôn mỉm
cười… bỗng trong kim khẩu phóng ra một đạo hòa quang xanh chiếu lên đỉnh
đầu Công chúa, nàng toát mồ hôi, tụ thấy trên đầu rần rần ngứa, mồ hôi
giọt xuống trán, xuống cổ, nàng lấy khăn lau rồi gãi, thì đụng một con gì
mà xưa nay nàng chưa thấy cũng chưa biết tên, nàng len lén bỏ xuống đất
(con chí đấy).
Phật lại phóng một đạo hào
quang vàng vào đôi mắt Công chúa, nàng thấy xốn xang khó chịu, nước mắt
tuôn ra, vừa lấy khăn lau, thì khóe mắt đọng hai cục ghèn khá lớn.
Phật phóng một đạo hào quang trắng, chui thẳng vào mũi, nàng
hắt hơi năm bảy cái mũi chảy ròng ròng.
Rồi một đạo hào quang lục, tuôn vào trong miệng, Công chúa
ngáp luôn một dây, tiếp ho luôn một chuỗi, nàng nghe trong miệng có mùi
thối ghê.
Ðức Phật phóng thêm một đạo hào quang đỏ, chiếu vào thân Công
chúa, làm nàng ngứa ngáy khắp người, gãi chỗ này
chưa kịp đã ngứa chỗ khác, vừa lau ghèn thì mũi chảy, toan lau mũi thì chí
cắn, nàng ho nàng ngáp, ụa, hắt hơi túi bụi, Công chúa nhăn nhó khổ sở,
bao nhiêu vẻ yêu kiều diễm lệ biến đâu mất hết, nàng hoảng kinh như một
người điên. Tất cả pháp hội, nhất là đoàn Bà La Môn đều rùng mình khiếp
sợ.
Nhưng may thay, Ðức Phật đã nhiếp thần lực thâu hào quang lại.
Công chúa và tất cả pháp hội như vừa thoát cơn mê dữ, nàng lấy lại bình
tĩnh, sữa lại áo xiêm rồi quì
mộp xuống đất, thôi thì vua quan chi cũng dẹp hết kiêu căng đồng quì
xuống một loạt.
Nhân đấy Ðức Phật thuyết pháp: “Tứ Niệm xứ” cho cả đoàn nghe.
- Hỡi các thiện nam thiện nữ nhân: Công chúa Vô Song, xưa nay
nổi tiếng kiêu căng vì ỷ mình có nhan sắc, nhưng không biết sắc đẹp chỉ
tạm bợ một thời gian, dù có lấy phấn son nhung gấm ngọc ngà, bao bọc ở ngoài
cũng không che được mắt người trí tuệ. Vừa rồi Như Lai phóng quang để
trong pháp hội nhận rõ, thân người là bất tịnh, dù đương buổi niên hoa,
nhưng không tắm thì hôi, đại tiểu vẫn thối, ghèn đờm mũi dãi, mồ hôi huyết
khí tim gan phèo phổi v.v… mỗi chổ lại có vô số vi trùng rúc rẩy, phá hoại
hoành hành thân thể chúng sanh trong từng sát na, thân thể chỉ là một đống
nhơ nhớp đáng ghê tởm đối với người có trí tụê, ta lại quán sát do sáu căn
xúc đối với sáu trần, lảnh thọ cảnh đẹp thì sanh tâm ưa, ưa thì muốn tất
cả cái ưa về mình; lãnh thọ cảnh xấu lại sanh tâm ghét, ghét thì muốn đùa
cái ghét cho người, nhưng mới ưa, thì ưa khó đến, đuổi ghét thì ghét không
đi. Chung qui không ngoài khổ vui đối đải.
Như Lai thấy chúng sanh trong tam giới,
ngồi bàn chuyện khổ vui, thật không khác hai tù nhân nói chuyện khổ vui
trong lao ngục. Chỉ có khi nào ra khỏi lao ngục lấy lại được tự do mới
thật vui vậy. Cũng như thế, chúng sanh còn ở trong lao ngục tam giới thì
không thể nói chuyện khổ vui được, chỉ khi nào thoát khỏi lao ngục tam
giới mới gọi là an vui chân thật.
-
Này các thiện nam tử, thiện nữ nhân:
Ta lại quán sát các pháp là vô ngã, phân tể đầu số (chia
chẻ quán sát) từ nhân sanh đến vũ trụ, đều do nhân duyên kết hợp mà thành,
thật không có cái “ngã” thật thể, không có cái ngã tồn tại, người trí tụê
quán vạn pháp đều như huyển nên không đắm trước…
Và ta lại quán tâm thức (vọng, tâm, ý thức) là vô thường, khi
thương khi ghét, lúc giận lúc vui đều do ý thức phân duyên rồi phân biệt
chấp trước điên đảo, vì vậy mà kiếp luân hồi trong biển sanh tử.
Như Lai vì quán sát: Thân bất tịnh, tâm vô thường, thọ thị
khổ, pháp vô ngã… nên đoạn trừ được ân ái, dứt bỏ
hẳn lợi danh, vào núi tuyết tu khổ hạnh và chứng được bốn đức Niết Bàn:
“Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”
Cảnh yên lặng trong chúng hội, tiếng phát âm của Phật du dương
như một bản đàn vô huyền (không dây) thảnh thót như tiếng chim Ca Lăng,
tất cả vua quan trong pháp hội mắt thấy tai nghe thân tâm vô cùng thanh
thoát.
Công chúa Vô Song nhứt thời viễn trần ly cấu liền chứng quả
dự lưu (Tu đà hoàn).
Riêng Hoàng đế Tam Ða, ông suy nghĩ nhiều trong lời Phật dạy:
Ôi! Ta với Phật Thích Ca đều con vua cả, nhưng Thái tử Tất Ðạt đáng làm
vua mà người chán nhàm ngôi báu, có vợ đẹp mà Ngài xa lánh yêu thương… còn
ta chỉ vì đói danh lợi, khát tình yêu nên gây nhiều tội lỗi. Ôi! Ðều từ
một con người nhưng Thái tử đã trừ tận cùng thú tánh, để vươn mình lên địa
vị Thánh nhân, còn ta! Ta chỉ vì không ngự trị được lòng tham nên tự gieo
mình vào địa ngục… Ôi! Dục vọng! Chỉ kết quả trong đau khổ, trong nguy
hại…
Trong lúc ông quan sát và thành thật ăn năn tội lỗi của mình,
nên tâm khai ý giải rồi ông xin tình nguyện đầu Phật xuất gia.
Phật bằng lòng, vào bảo Tôn giả A Nan trao y bát cho ông, lại
cả cây tích trượng hôm qua nữa. Ông kính cẩn quì
thẳng nhận lãnh pháp bảo, khi ông thấy quả cầu còn treo lủng lẳng trên đầu
tích trượng bất giác ông mỉm cười: Ừ, bóng hạnh phúc! Rồi ông ôm chặt y
bát vào lòng. Chỉ có hạnh phúc này, mới là hạnh phúc chơn thường bất biến…
Ðưa mình và người đến nơi an lạc vĩnh viễn.
Thể Quán
“Tìm
hạnh phúc trong vật dục cũng như người đã khát nước lại còn ăn thêm đồ
mặn.”
Con sư tử trọng pháp
^
Ðầu đời mạt pháp về thời Ðức Phật Tỳ Bà Thi, tại sứ Ba La Nại có
một hòn núi tên là Tiên Thánh Sơn. Trong núi thường
có các vị Sa môn Bích Chi Phật tu hành. Thường thường có các loài cầm thú
hay đến gần gũi để nghe thuyết pháp. Có một con sư tử tên là Kiên Thệ,
lông ánh sắc vàng, sức mạnh địch trên một ngàn con. Một khi rống lên thì
chim bay phải rớt xuống, loài thú phải ẩn nấm sợ hãi.
Một hôm sư tử Kiên Thệ gặp một vị Sa môn Bích Chi Phật oai
nghi thanh tịnh, tâm sanh hoan hỷ, nên ngày thường đến thân cận nghe tụng
kinh và thuyết pháp.
Lúc bấy giờ có một người thợ săn thấy sư tử có lông vàng, nên
muốn mưu giết, lột da dâng cho vua để lãnh thưởng. Người thợ săn nghĩ
rằng: “Con sư tử này là vua các loài thú, cung tên không thể hại, lưới bãy
không thể sập được, chỉ có cách là giả dạng vị Sa môn, chờ con sư tử nghe
quen thời lấy tên độc mà bắn. Nói đoạn liền cạo đầu, mạo hình Sa môn, vào
núi ngồi dưới một gốc cây”.
Lúc ấy, con sư tử Kiên Thệ thấy vị Sa môn, liền vui mừng đến
liếm chân quấn quít một bên để nghe thuyết pháp. Người thợ săn dùng tên
độc nhắm bắn. Con sư tử bị trúng tên đau quá rống ngược lên, muốn nhảy tới
vồ giết vị Sa môn giả kia, nhưng lại nghĩ rằng: “Người này đã mặc áo cà sa
là thứ biểu hiện của các Ðức Phật Hiền Thánh trong ba đời, nay ta sát hại
thời không khó gì, nhưng tức là ta sát hại biểu tượng của các Ðức Phật”.
Nghĩ vậy bèn nuốt giận chịu đau.
Một lát sau, thuốc độc ngấm dần, đau đớn quá, sư tử lại
muốn nhảy tới vồ nát người thợ săn, nhưng lại nghĩ rằng “Nay ta vồ giết
thời không khó gì, nhưng ta sẽ bị các Ðức Phật quở trách và làm người đời
không thể phân biệt người lành kẻ ác. Người thợ săn độc ác âm mưu hại ta,
nếu ta không nhẫn sẽ bị mọi người oán ghét, phiền não sẽ tăng trưởng.
Phiền não tăng trưởng thời sanh tử tăng trưởng, sanh tử tăng trưởng thời
sẽ sanh vào các chỗ hiễm điạ, sanh vào chỗ hiểm địa
thời rời xa bạn lành, xa bạn lành thời không được nghe chánh pháp, không
được nghe chánh pháp thời mê mờ nghi loạn, mê mờ nghi loạn thời không được
vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vậy ta nên quyết
không khởi ác tâm. Nghĩ vậy con sư tử liền nói bài kệ rằng:
Nguyện tự chịu bỏ thân mạng,
Trọn đời không khởi ác tâm.
Hại người mặc áo hoại sắc.
Nguyện tự chịu bỏ thân mạng,
Trọn đời không khởi ác tâm.
Ðối với các bậc xuất gia.
Nói bài kệ xong liền ngã xuống chết. Người thợ săn cầm dao
lột da sư tử đem về dâng vua. Nhưng khi vua nghe đầu đuôi câu chuyện, thấy
rõ ác tâm của người thợ săn và rất cảm động trước lòng trọng Tam Bảo của
con sư tử, bèn sai chém người thợ săn và đem xác con sư tử làm lễ Trà Tỳ
xem như một vị Sa môn vậy.
Sư tử Kiên Thệ là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca.
Minh Châu
“Không
thiên ma ngoại đạo nào có thể phá hoại đạo ta được, duy chỉ người mặc áo
của ta, mới phá hoại đạo ta được mà thôi.”
Nên thận trọng lời nói^
Thuở xưa tại Kinh đô Ba La Nại có
một người hai chân bại xuội, nhưng anh ta có tài búng sạn thật giỏi. Do
đó, những trẻ em trong thành thường đẩy xe chở anh ta ra ngoài cửa thành,
để anh dưới gốc cây biểu anh lấy sạn búng lá cây thành hình thú này thú nọ
chơi, rồi cho anh tiền.
Một hôm, đức Vua ngự chơi vườn thượng uyển đi ngang qua
chỗ ấy, những đứa trẻ kinh sợ bỏ chạy chỉ còn anh què ở lại. Ðức Vua trông
thấy bừa bãi dưới đất những lá cây lủng lỗ có hình thú rất ngộ nghĩnh mới
phán hỏi quan hầu cận. Quan ấy biết rõ, mới tâu qua mọi lẽ.
Ðức Vua đòi anh què đến hầu rồi phán:
- Này gã kia! Trẫm có một vị quân sư, có tật ham nói, khi
trẫm muốn nói điều chi, thì quân sư cướp lời nói hết, Trẫm không nói gì
được. Ngươi có phương kế chi làm cho ông không nói nhiều được không?
- Tâu Hoàng thượng! Nếu có vài cân phân dê, hạ thần có
phương kế làm được.
Ðức vua truyền đem anh què về triều, để anh ngồi một bên
ngai, sau một tấm màn có khoét một lỗ và để gần anh một cân phân dê khô.
Ðoạn, Ngài hội triều thần bàn luận việc nước.
Vị quân sư quen tật cướp cả lời nói của mọi người. Khi ông
há miệng thì bị anh què dò theo lỗ rèm búng một viên phân dê khô vào
miệng. Nhưng vì ham nói quá, ông nuốt riết viên phân dê để nói nữa.
Ðến chừng Ðức vua trông thấy anh què đã búng hết cân phân,
Ngài mới bảo Quân sư:
-
Này Quân sư! Vì tật ham nói, nên khanh nuốt hết một cân
phân dê khô mà vẫn chưa biết mình. Dạ dày của khanh không thể tiêu hóa
được cân phân ấy, vậy khanh về nên uống thuốc xổ đi! Quân sư cả thẹn ra
về. Từ ấy không còn nói nhiều nữa.
Ðức vua mới phán:
- Nhờ người bại này, mà lỗ tai của Trẫm đỡ bực bội.
Sau đó Vua ban cho anh què thâu thuế một làng rộng lớn vài
ngàn dân số để sinh sống…
Sau một thời gian, có một người đến học nghề với anh bại
nói trên. Sau khi học rành nghề, người ấy muốn thử tài mình, mới suy nghĩ,
nếu mình búng sạn mà nhằm búng thử vào bò, heo, dê, ngỗng cùng gà vịt của
người thì sợ bị họ đền, và sợ mình bị phạt.
Một hôm gặp Ðức Phật Ðộc Giác, anh chàng bèn nghĩ: “Nếu ta
thử tài với người khác, sẽ bị cha mẹ vợ con anh em họ kiện thưa, còn người
này cô độc, là kẻ vô thừa nhận dầu ta thử mà có chết cũng không sao!”.
Nghĩ thế, anh mới búng một viên sạn vào lỗ tai Ðức Phật
Ðộc Giác, viên sạn đi xuyên qua lỗ tai bên này thấu qua lỗ tai bên kia,
theo như người thường phải chết tại chỗ, nhưng Ðức Phật Ðộc Giác dùng
thuyền định về đến tư thất mới nhập diệt.
Anh ta tìm đến tư thất của Ngài để xem thử kết quả, thấy
tính đồ bận lo hỏa táng và than khóc, anh mới khoe:
-
Mấy người biết không? Ngài mà chết đấy là do tài búng sạn
của tôi!
Tưởng khoe như vậy người ta khen mình, nào ngờ tính đồ tức
mình lôi anh ta ra đánh chết. Vì tội giết chết Ðức Phật, anh ta bị xa vào
địa ngục A Tì…
Thông
Kha
“Các
ngươi thường tự giữ
gìn lời nói,
đừng nói lời vô nghĩa, nên nói hợp thời hợp pháp, những lời nói ngoài việc
lợi ích cho người, dù là nói chơi cũng không nên nói.”
Bán nghèo^
Thuở xưa, ở nước Ấn Ðộ, có một trưởng giả giàu nứt đố đổ
vách nhưng hết sức keo kiệt, thường cắt cổ, lột da thiên hạ với cách cho
vay nặng lời. Tánh ông lại còn hung tợn, tàn ác nữa. Thật đúng với câu:
“Vi phú bất nhân” ông không có chút từ tâm. Mỗi khi có những kẻ mang công
thiếu nợ không lo trả nổi theo lời hứa hẹn, thì ông sai lũ gia nhân đánh
đập một cách tàn nhẫn, thậm chí ông còn đối đãi với kẻ ăn, người ở trong
nhà một cách hết sức tệ bạc, xem họ như loài thú vật không hơn không kém.
Trong nhà có một bà lão bộc, làm công việc nhà quần quật
suốt ngày không có một lúc hở tay. Nhưng không phải chỉ vậy mà thôi đâu,
mỗi khi có sơ sót, hay lỡ tay làm hư hỏng việc gì, thì ông chủ miệng chửi,
tay đánh không mảy may thương xót. Áo quần không đủ để che kín tấm thân
gầy, cháo cơm không đủ làm no dạ dày lép xẹp. Lại còn tuổi già sức yếu mà
phải chịu bao nỗi nhọc nhằn, vất vả, vì sức chịu đựng của con người có
hạn, cho nên bà thường bị đau yếu luôn. Có lẽ vì đau khổ quá, cực nhọc
quá, nên nhiều khi bỗng không bà rơi nước mắt, rồi bà khóc thực sự, khóc
cho thân thế bị bày vò, khóc cho tình đời đen bạc, trọng phú khinh bần.
Có một hôm nọ, nhân lúc mang bình ra mé sông múc nước,
được ít phút rảnh rang khỏi cặp mắt gầm gừ của ông chủ, bà yên tâm tạm
ngồi nghỉ chân dưới cội cây bàng. Trong đầu óc bà lúc ấy lại thoáng hiện
ra những sự hành hạ, đập đánh, chửi rủa, tàn nhẫn vô lương tâm của ông
chủ. Trong một phút suy ngẫm về giá trị đời sống, bà bỗng rùng mình. Tội
nghiệp bấy giờ bà chán sự sống lắm, một ý nghĩ đen tối thoáng hiện trong
óc bà, bà muốn quyên sinh. Bà nghĩ bà phải chết đi, chết để giải quyết tất
cả mọi nỗi đau khổ loài người đen bạc đã cố ý đày đọa bà. Bà nghĩ những
nỗi nọ niềm kia, nghĩ đủ thứ, nước mắt hai bên khóe
tự nhiên ràn rụa tràn ra, lăn dài xuống hai má hóp. Bà để mặc cho hai dòng
lệ tự do tuôn chảy không buồn chậm lau. Bà vẫn cố muốn khóc cho thật
nhiều, khóc cho hết nưóc mắt để rồi bà chết, phải rũ hết nợ đời, chớ sống
mà thân xác cũng như linh hồn bị dày vò đày ải quá sức, thì thà chết đi
còn hơn.
Bà khóc mùi mẫn cho đến đỗi Tôn giả Ca Chiên Diên đi đến
tận bên, bà cũng không hay biết gì. Mãi đến lúc Tôn giả cất tiếng hỏi bà
mới giật mình.
- Sao thế? Sao bà khóc lóc quá như thế? Ai ăn hiếp bà, ai
hành hạ đánh đập bà?
Bà lao vẫn còn nghẹn ngào, không nói được ra lời để đáp
lại những câu hỏi của Tôn giả. Bà chỉ giương đôi mắt mờ lệ nhìn Ngài.
- Tội nghiệp quá, xem bà nghèo khổ, gian truân quá, nhưng
tình cảnh nhà bà ra sao? tại sao bà lại ngồi đây một mình mà khóc, bà cho
tôi biết đi, bà nói hết nỗi khổ của bà cho tôi nghe đi, may ra tôi có
phương chước gì để giúp ích phần nào cho bà.
- Bạch Ngài, Ngài xem tôi từng này tuổi mà vẫn phải làm
tôi mọi cho người ta, công việc làm việc vất vả suốt ngày thâu đêm, lại
còn bị chủ nhà ác nghiệt, bó buộc, đánh đập hành hạ khổ sở. Thân thể già
yếu, nay đau mai mạnh, thế hằng ngày cơm chẳng đủ no, áo không đủ ấm, thì
làm sao mà sống cho nổi!
Bà vừa nói vừa khóc trông thảm thiết lắm.
- Tội nghiệp bà nghèo từng này tuổi mà còn phải làm tôi tớ
cho người để bị nhiều điều cơ cực, đau đớn, sao bà không bán quách cái
nghèo đi, để đeo nó theo làm gì cho thêm khổ sở?
- Trời ơi! Sao Ngài bảo lạ thế? Ai thèm mua nghèo mà hòng
bán?
- Bà ạ! Tôi nói thật đấy, nghèo có thể bán được như thường
tôi thấy bà khổ sở, tôi khuyên bà bán ngay nó đi, tôi thương bà, tôi bảo
thật đấy. Tôi nói gạt bà có ích lợi gì cho tôi đâu?
Nghe giọng nói quả quyết và trông gương mặt hiền từ, thành
thật của Tôn giả, bà già hết sức ngạc nhiên, nhìn Tôn giả trân trân, hồi
lâu mới thốt được lời:
- Nếu Ngài có phương kế gì bán được cái nghèo, mong Ngài
thương xót chỉ cho, tôi xin ngậm vành kết cỏ, cảm đội ơn đức suốt đời,
không lúc nào quên được.
- Ðược, tôi xin hứa chắc với bà và nếu bà thật tình muốn
bán, thì tôi bảo thế này, bà phải làm đúng y như vậy mới có kết quả tốt
đẹp được.
Bây giờ bà hãy xuống sông tắm cho thật sạch sẽ, thân thể
bẩn thỉu quá có thể sinh ra nhiều bệnh tật, lại ai
cũng chán mà chẳng dám đến gần.
Bà già vâng lời tôn giả xuống sông tắm rửa sạch sẽ xong
xuôi, bà liền đến bên bạch rằng:
- Bây giờ Ngài dạy tôi cách nào để bán?
- Bây giờ bà phải bố thí. Vì Phật đã dạy: pháp bố thí là
để cho người vượt khỏi lòng tham lam, mà tham lam là cái nhân bần cùng khổ
sở. Tôi đã dùng huệ nhãn quán sát thấy bà nhiều kiếp về trước tánh tình
tham lam keo kiệt, nên kiếp này bà phải chịu quả báo cơ cực nghèo cùng. Vì
vậy muốn hết nghèo cùng bà phải dứt lòng tham lam, còn phải thật hành
phương pháp bố thí. Nhân nào thì quả nấy, chắc chắn không sai.
- Ðất ơi! Ngài bảo tôi bố thí, bố thí để giứt lòng tham,
nhưng tôi có tham hồi nào đâu? Tại tôi nghèo cùng đến nỗi giơ xương, lòi
da như thế này, tôi phải đào đâu ra của để mà bố thí.Thưa
Ngài, Ngài bảo cách nào dù thiên lao vạn khổ gì, già này cũng có thể cố
gắng làm được, chớ còn điều này thì xin chịu. Tôi không biết làm cách nào
để làm cho được vừa lòng Ngài. Đây hiện giờ trong tay chỉ có cái bình này
của chủ thôi, tôi mang đi để múc nước về, nếu có thể bố thí được thì tôi
xin bố thí ngay, bất quá về nhà chủ đánh chút thôi, không đến nỗi gì, quen
rồi chả sợ. Miễn giờ đây có thể làm đủ theo ý muốn của Ngài là tôi vui lắm
rồi.
- Ấy chết! Của chủ bà đem cho đi, về nhà mất bình chủ bà
đánh chửi chịu sao nổi?
- Không sao, thưa Ngài! Già đã chịu đựng quen rồi, không
đến nỗi gì, mà già cũng nghĩ liều mạng bất quá chết là cùng.
- Cũng được, miễn có lòng thành kính là được, không luận
ít nhiều. Bà hãy đem bình tìm chỗ nước thật trong
và thật sạch múc đầy bình đem về đây cho tôi.
Tôn giả Ca Chiên Diên tiếp nhận bình nước sạch do tự tay
bà lão múc đem về dâng. Ngài chú nguyện cho bà, lại dạy bà lão nên ăn
chay, niệm Phật, làm các công đức v.v… đoạn Ngài hỏi:
- Bà có chỗ ở nào thật sãch sẽ không?
- Tội nghiệp quá nhưng bà về nên cố gắng giữ lòng, lo trọn
bổn phận, không nên hiềm hận điều gì cả. Tối đến, đợi khi trong nhà ngủ
hết, bà hãy lén mở cửa lên nhà trên, vào trong ngồi xếp bằng ngay ngắn
niệm Phật, tâm đừng nghĩ gì khác chỉ nên nhất tâm tưởng Phật mà thôi. Bà
nên nhớ thế.
…Bọn đầy tớ nhà ông Trưởng giả rạng ngày mở cửa, cả sợ,
tri hô lên. Ông Trưởng giả hốt hoảng ba chân bốn cẳng vừa chạy vừa quát
“Mẹ tớ này sao hôm nay lại trốn lên được đây ngồi chết? Từ trước đến giờ
không bao giờ mụ được lên đây cả, thế sao hôm nay… Bây đâu, hãy đến gần rờ
xem bà ta chết đã lâu chưa? Nếu thiệt chết, bây cột chân kéo xác bỏ vào
rừng cho quạ kên ăn quách đi là xong chuyện. Mau lên! Không tao đập chết
cả lũ bay nữa bây giờ. Mau lên, mau lên.
Bọn đầy tớ lúi húi tìm dây cột chân làm theo lời ông chủ,
nhưng ra khỏi ngõ chúng lại lôi tấm bố đã giấu được đem ra đắp điệm cho
bà, xong rồi chúng ráp nhau khiêng xác đem bỏ trong rừng lạnh.
Có ai ngờ đâu, lúc bấy giờ bà lão tuy tồi tàn thế, nhưng
thần thức của bà đã được sanh lên cõi trời Ðao Lợi, do nhờ sự chú nguyện
của Tôn giả Ca Chiên Diên và nhờ sự cố gắng niệm Phật của bà.
Bấy giờ ở trên cõi Ðao Lợi có một vị Thiên tử vì hết phước
báo nên phải hoàn sanh nhân gian, bà lão nhờ sức trì giới, niệm Phật và
công đức bố thí mà được thế vào địa vị ấy. Nhưng vì ham vui chơi theo
khoái lạc của thiên báo mà quên nguyên do gì mình được sanh làm Thiên tử.
Song vị Thiên tử này (bà lão bộc) trước đã gây phước lành,
kết duyên Phật pháp, nên cảm đến lòng từ của Tôn giả Xá Lợi Phất, Ngài bèn
đến lân la dọ hỏi để kích thích đạo tâm sẵn có của vị Thiên tử.
-
Phàm việc gì có ra đều có nguyên nhân cả, hẳn Ngài đã biết
mình từ đâu đến và do nhân duyên gì mà được cảm quả báo làm Thiên tử như
hôm nay chứ?
Vị Thiên tử cùng các quyến thuộc còn đang ngơ ngác chưa
hiểu ra làm sao cả, thì Ngài Xá Lợi Phất liền
truyền đạo nhãn cho vị Thiên tử xem. Như chiêm bao chợt tỉnh, vị Thiên tử
rối rít tỏ lời cảm tạ ơn Ngài Xá Lợi Phất đã khai thị cho, đồng thời họp
cả năm trăm quyến thuộc lễ Ngài, rồi cùng nhau mang hương hoa sang ngay
hàn lâm, xông hương, rải hoa cúng dường tử thi.
Ánh sáng của Chư Thiên chiếu khắp cả khu rừng có tử thi
của bà lão bộc làm cho mọi người hết sức kinh dị, nhà ông Trưởng giả cũng
hay, cùng kéo nhau đến xem.
Lấy làm lạ, có người đến gần hỏi: “Ðây là người tớ già của
nhà chúng tôi vừa chết, thân thể đã sình trương dơ nhớp, khi bà còn sống
người ta còn ghê tởm ít dám đến gần thay, phương chi nay bả đã chết rồi có
gì quý lạ mà quý vị đến đây rải hoa cúng dường? Nghe hỏi vị Thiên tử bèn
ứng tiếp đáp lời thuật rõ ngọn ngành, vì nhân duyên gì mình được bỏ thân
tôi tớ, sanh làm trời hưởng phước báo vô lượng. Ðoạn vị Thiên tử xây mặt
về phía tịnh xá tưởng nghĩ đến Tôn giả Ca Chiên Diên, rồi vì Chư Thiên
quyến thuộc của mình và một số người trần có mặt hôm đó giảng pháp mầu đã
lãnh thọ được cho nghe, nào là: Luận về pháp bố thí, giữ giới, niệm Phật,
lìa dục v.v…
Nghe xong, năm trăm vị trời ấy tâm được xa lìa trần cấu,
chứng nhãn thanh tịnh, đồng bay về thiên cung.
Bấy giờ những người trần có mặt tại đó thảy đều tỉnh ngộ,
ông Trưởng giả bấy giờ mới sáng mắt và mới nhận được cái giá trị của con
người không phải ở vật chất mà chính ở tinh thần vậy. Thế là bà lão đã bán
được cái nghèo với một giá cao hết sức tưởng tượng: làm thân trời.
T.P
“Người
ta ở đời nghèo gì mà đến nỗi không có một chút bún để bố thí cho một con
kiến.”
Lỗi không phải tại thầy thuốc
^
Xưa có một chàng thanh niên đau nặng, đã hết phương cứu
chữa mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Các thầy thuốc danh tiếng trong
vùng đều bó tay, nên chàng ta thất vọng đau khổ lắm.
Nhưng may thay, một hôm có một vị lương y tìm đến thăm
bệnh cho chàng rồi nói: “Bệnh anh trầm trọng lắm rồi, chỉ còn một phương
thuốc cứu chữa mà thôi, thuốc ấy tuy khó tìm, nhưng cố gắng sẽ tìm được.
Thứ thuốc ấy là thứ thịt chim trĩ, anh phải tìm mua cho được mà ăn, thì
bệnh sẽ lành. Anh cứ y theo lời tôi thì một thời gian sẽ thấy hiệu quả
ngay. Bây giờ tôi phải đi nơi xa để cứu chữa cho những người khác”.
Chàng ta nghe qua lấy làm mừng rỡ, liền mượn một người
hàng xóm đi mua hộ chim trĩ. Người hàng xóm thấy tình cảnh của chàng và
lấy làm thương hại nên cố gắng đi tìm mua giùm. Ði tìm mãi mua được một
con về cho chàng. Sau khi ăn xong thấy bệnh tình thuyên giảm nhiều, chàng
rất sung sướng và tán tụng vị lương không ngớt.
Nhưng tiếc thay, anh chỉ ăn một con rồi không ăn nữa, nên bất ngờ bệnh
tình trở lại như cũ. Chàng lại than phiền thuốc không hay thầy không giỏi.
Thời gian sau, vị lương y trở lại hỏi:
- Bệnh bớt chưa?
Chàng đáp:
- Dạ thưa không bớt gì cả. Trước kia Ngài bảo tôi mua chim
trĩ ăn thì hết bệnh sẽ lành, tôi y theo lời mượn người mua được một con
đem về ăn. Khi ăn xong thì bệnh có giảm một đôi phần, nhưng trải qua vài
ngày thì bệnh trở lại như cũ.
Vị lương y nói:
-
Sở dĩ bệnh của anh không lành là không phải lỗi vì tôi,
cũng không phải tại thuốc không hay, mà lỗi tại anh. Vì bệnh của anh là
trọng bệnh cần phải ăn nhiều chim trĩ mới có thể lành, chứ mới ăn một con
mà mong lành bệnh sao được. Nghe ra chàng ta tự giận và trách mình quá dại
khờ nông nỗi…
Câu chuyện này Ðức Phật ví dụ cho chúng sanh bị khổ trầm
luân sanh tử nhiều đời nhiều kiếp, Ðức Phật ra đời chỉ cho phương pháp
thoát khổ nhưng chúng sanh biếng nhác không chịu y theo giáo pháp tiếp tục
tinh tấn tu hành, nên vẫn bị sanh tử luân hồi mãi không giải thoát, trở
lại trách Phật không độ, Phật pháp không nhiệm mầu…
Thiên
Chơn
“Ta
như thầy thuốc hay
biết bệnh cho thuốc, uống hay không
uống không phải tại thầy, ta như vị chỉ đường dạy con đường phải, nghe mà
không đi,
lỗi không phải tại người chỉ đường.”
---o0o---
Tập 01 |
Tập 02 | Tập
03 | Tập 04
- o0o -
| Mục lục Tác giả || Tủ
Sách Phật Học |
---o0o---
Vi tính: Tịnh
Hương, Tịnh Tâm
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-12-2003