-
Con Trâu Đất
-
Một Biểu Tượng Độc Đáo của Tuệ Trung
TT. Thích Đức Thắng
---o0o---
Hình ảnh biểu tượng con
trâu là một hình ảnh cụ thể sống động, đã từng được đức Phật sử dụng
trong những ngày cuối cùng để dạy các đệ tử của Ngài; nhằm canh giữ cái
tâm của họ, cũng như canh giữ một con trâu. Đức Phật dạy: "Y như chăn
trâu, cầm gậy canh chừng, không để nó buông lung phạm vào lúa mạ của
người." (kinh Di giáo). Và cũng từ đó, hình ảnh con trâu được các nhà
Đại thừa, và các nhà Thiền tông Trung hoa sử dụng một cách linh động
triệt để hơn. Như ngài Mã tổ-Đạo nhất hỏi Thạch củng:
"Ông làm cái gì đây?"
Đáp:
"Chăn trâu."
Lại hỏi:
"Chăn như thế nào?"
Đáp:
"Mỗi khi nó chạy a vào
đồng cỏ, thì xỏ muĩ kéo nó lại, thế là người chăn giỏi."
Hoặc như ngài Phước
châu-Đại an hỏi ngaì Bách trượng:
"Tôi khát khao muốn hiểu
Phật pháp, việc đó như thế nào?"
Bách trượng đáp:
"Hệt như cỡi trâu tìm
trâu!"
Hỏi:
"Hiểu rồi như thế nào?"
Đáp:
"Như người cỡi trâu về
nhà."
Hỏi:
"Rồi làm sao giữ cho
trước sau khế hợp?"
Đáp:
"Như người chăn trâu
cầm roi giữ trâu mình, đừng cho phạm vào lúa mạ của người."
Hay, Lặc đàm hỏi Linh
thao:
"Trước khi chưa xuất gia
ông làm gì?"
Linh Thao đáp:
"Chăn trâu."
Lặc đàm hỏi:
"Chăn như thế nào?"
Linh thao đáp:
"Sáng sớm cỡi đi, chiều
tối cỡi về."
Lặc đàm bảo:
"Ông thật ngu si quá cỡ!
Nhờ đó mà Linh thao đại ngộ."
Hay, ngài Đại An dạy
chúng rằng:
"Đại an ba mươi năm
ở Qui sơn, ăn cơm Qui sơn, đại tiểu tiện Qui sơn, mà chẳng học Thiền
Qui sơn. Ngày đêm chỉ xem chừng một con trâu nước đen. Nếu nó đi lạc
vào trong cỏ mạ, liền nắm mũi kéo lại. Vừa mới xâm phạm đến ruộng
lúqa người ta, liền đưa roi ra quất. Thật đáng thương! Trâu bị điều
phục lâu ngày trở nên thuần thục, vâng lời người dạy mắn. Giờ đây
trâu đen đã hóa thành trâu trắng, sờ sờ rõ ràng trước mặt, trọn ngày
đuổi cũng không đi."
Hay, ngài Động sơn hỏi
hòa thượng Long sơn:
"Hòa thượng thấy đạo lý
gì mà trụ núi này?"
Long Sơn đáp:
"Ta chỉ thấy hai con
trâu bùn húc nhau rồi chạy xuống biển. Từ đó đến nay vẫn chưa thấy
tin tức gì cả."
Và ngài Bạch vân-Nghĩa
đoan hỏi Quách công phụ rằng:
"Trâu thuần chưa?"
Và cứ như thế pháp chăn
trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn.
Mãi về sau này người ta mới vẽ thành tranh, và được gọi là: "Thập Mục
Ngưu Đồ." Tranh vẽ thập mục ngưu đồ này tuy nhiều, nhưng có thể xếp
thành hai loại: Loại theo khuynh hướng Đại thừa, và loại theo khuynh
hướng Thiền tông. Loại theo khuynh hướng Đại thừa vẽ lại quá trình công
phu tu tập của hành giả. Trước hết phải tự thắng bản năng mình, sau đến
tự tri, và cuối cùng đạt đến tự tại; còn khuynh hướng Thiền tông trình
bày bước tiến tâm linh theo hình vẽ qua ba giai đoạn: sai tâm bắt
tâm-tâm vô tâm-tâm bình thường.
Qua hình ảnh biểu tượng
con trâu được trình bày. Từ hình ành biểu tượng một con trâu Aᮠđộ sang
hình ảnh biểu tượng một con trâu Trung hoa, chúng ta thấy không có gì
sai khác về hình thức cũng như nội dung trong việc "hàng phục tâm mình"
mà con trâu là một biểu tượng. Như ở đây về mặt biểu tượng hình thức,
chúng cũng có những nét độc đáo xuất hiện qua con trâu bùn của Long sơn.
Tuy nhiên chúng không nói đến tiến trình tâm linh, mà chúng chỉ được sử
dụng như một nghi án cho một công án. Nhưng từ hình ảnh biểu tượng con
trâu đó, khi sang Việt nam trên mặt hình thức, chúng chỉ còn là một con
trâu đất, con trâu bùn hay con trâu đá không hơn không kém.
Vào cuối thế kỷ mười ba,
người chăn giữ con trâu đầu tiên trong văn học Thiền Việt nam chính là
Thượng Sỹ Tuệ trung. Ông đã chăn con trâu chính ông, mà ông đã phát hiện
từ Qui Sơn Trung Hoa chòm xóm. Đây, chúng ta hãy theo dõi bài thơ Tuệ
Trung viết:
"Ngẫu hướng Qui sơn đắc
đệ lân,
Hoang vu cam tác mục
ngưu nhân;
Quốc vương đức trạch
khoan nh7 hải,
Tùy phận ta ta thủy thản
xuân."
Dịch:
"Chợt hướng non qui được
thảnh thơi,
Đồng hoang đành vậy giữ
trâu chơi;
Nhà vua đức rộng như
sông biển,
Tùy phận xuân về nước cỏ
tươi."
(Trúc thiên dịch)
Ở đây, chúng tôi không
làm cái việc bình thơ như thông tục, mà chúng tôi chỉ làm cái việc theo
dõi bước tiến tâm linh con trâu đất của Thượng Sỹ Tuệ trung. Từ khi ông
chợt thấy con trâu của Đại An ở Qui Sơn chòm xóm; cũng từ đó ông cam
chấp nhận làm kẻ chăn trâu cho chính mình, và biến hình ảnh biểu tượng
con trâu ban đầu thành con trâu đất Việt nam. Ông luôn luôn chạy theo nó,
cho dù nó ở dưới bất cứ hình thức nào trong cát bụi, ông vẫn một mực là
kẻ chăn. Chúng ta hãy theo dõi Thượng Sỹ viết:
"Thiều thiều khoát bộ
nhập trần lai,
Hoàng sắc mi đầu đảnh
đảnh khai;
Bắc lý ưu du đầu mã phúc,
Đông gia tán đản nhập lư
thai.
Kim tiên đả sấn nên ngưu
tẩu,
Thiết sách khiên trừu
thạch hổ hồi;
Tự đắc nhất triêu phong
giải đống,
Bách hoa nhưng cựu lệ
xuân đài."
Dịch:
"Vào vòng cát bụi nhịp
chân đưa,
Vàng óng đầu mi chớp
chớp đùa;
Xóm bắc rong chơi gieo
bụng ngựa,
Nhà đông vui bước nhập
thai lừa.
Roi vàng đuổi mất trâu
bùn chạy,
Gậy sắt lôi về cọp đá
thua;
Rồi một ngày mai băng
giá hết,
Trăm hoa như cũ rộn xuân
xưa."
Trên tay ông có roi vàng
luôn luôn sẵn sàng giáng xuống, nếu trâu chạy bậy. Nhưng trâu nào chịu
khuất phục, chỉ vì duyên bên ngoài quá hấp dẵn và lôi cuống nó, nên nó
luôn luôn chạy bậy vào vùng đất cấm và, roi kia bỗng trở thành bất lực.
Không cách nào khác hơn để khuất phục nó, chỉ còn có cách "Xỏ mũi dắt về
chẳng nghỉ ngơi"mới có thể khuất phục được nó. Chúng ta theo dõi Thượng
Sỹ điều phục con trâu của chính mình:
"Nhất thân độc thủ nhất
nê ngưu,
Đằng tỵ khiên lai vị
khẳn hưu.
Tương đáo Tào khê đô
phóng hạ,
Mang mang thủy cấp đả
viên cầu."
Dịch:
"Một mình cố giữ con
trâu đất,
Xỏ mũi dắt về chẳng nghỉ
ngơi.
Vừa đến Tào khê buông
xuống hết,
Mênh mông nước chảy
cuống bọt trôi."
Thế là con trâu đất của
Thượng Sỹ đã bị Thượng Sỹ điều phục, bằng cách xỏ mũi dắt về. Và cũng từ
đó, hai hình ảnh người chăn và trâu đất không còn ngăn cách nữa, đã trở
thành một. Chính cái một này nó được thể hiện là hai trong câu: "Tương
đáo Tào khê đô phóng hạ."Đây là hình ảnh "Nhân cảnh lưỡng câu đoạt"trong
TỨ-LIỆU-GIẢN của ngài Lâm tế. Chính giây phút đô phóng hạ này là giây
phút không giữ, mà không giữ thì có gì để buông, do đó không buông. Ở
đây, chính thái độ KHÔNG GIỮ KHÔNG BUÔNG này là thái độ TỰ TẠI, cũng là
hình ảnh: "Nhân cảnh câu bất đoạt."Đây chính là âm thinh của khúc hát VÔ
SINH của Thượng sỹ. Chúng ta hãy theo dõi "Người trâu đều không bị
đoạt"trong cuộc sống tự tại của Thượng Sỹ Tuệ trung qua bài thơ:
"Nhất khúc Vô sinh xướng
liễu thì,
Đảm hoành tất lật cố
hương qui.
Thượng đầu đả quá hồ hà
hữu,
Nhất cá nê ngưu nhậm đảo
ki (kỵ).
Dịch:
"Khi khúc vô sinh vừa
hát xong,
cầm ngang ống sáo về cố
hương.
Vượt qua tất cả không
chướng ngại,
Tự tại trâu bùn cỡi
ngược dong."
Qua hình ảnh biểu tượng
con trâu đất của Thượng Sỹ Tuệ trung, đã cho chúng ta thấy bước tiến tâm
linh của ông, từ khi mới phát hiện cho đến khi tự tại. Giờ đây chính là
giai đoạn Thiền sư thỏng tay vào chợ, sống với đời mà không bị đời lôi
kéo, an nhiên tự tại trong "Nhân cảnh câu bất đoạt"thể hiện qua bài ngâm
cuồng phóng, và bài ngâm bĩu môi của ông. Vì hai bài ngâm quá dài, nên ở
đây chúng tôi chỉ trích bốn câu cuối của mỗi bài cũng đủ nói lên cái tự
tại của "Nhân cảnh câu bất đoạt" trong cuộc sống của Thượng Sỹ Tuệ Trung.
Đây, chúng ta theo dõi bốn câu cuối của bài ngâm cuồng phóng:
"… Phóng tư đại hề, mạc
bả tróc,
Liễu nhất sinh hề, hưu
bôn mang.
Thích ngã nguyện hề, đắc
ngã sở,
Sinh tử tương bức hề, ư
ngã hà phương?"
Dịch:
"… Buông bốn đại chừ,
đừng nắm bắt,
Tỉnh một đời chừ, chớ
chạy rông.
Thõa nguyện ta chừ, đạt
điều ta muốn,
Sống chết bức nhau chừ,
làm gì được ta."
Và đây là bốn câu cuối
của bài ngâm Bĩu môi:
"… Đáo nhậm ma thì hề,
lý sự toàn chương,
Đề trì phóng quá hề, hà
tu nghĩ nghĩ.
Thạch ngưu dạ bán nhập
hải đông,
Tràng trước san hô
nguyệt như thủy.
Dịch:
"… Đến khi nao chừ, lý
sự rõ ràng,
Nắm giữ buông xuôi chứ,
cần gì lo nghĩ.
Nửa đêm trâu đá vào biển
đông,
Khua động san hô ánh
trăng như nước."
Chuyện bốn đại chừ đâu
còn can hệ chi với tâm trâu đất, và việc sống chết cũng chả làm được gì
nó; vì nó giờ đây không còn lệ thuộc vào nhân qủa, cho nó nó sống trong
nhân qủa đi chăng nữa. Vậy thì cái việc lý sự rõ ràng kia làm gì có được,
trong khi chúng dung thông vô ngại, và việc giữ buông có can hệ gì đến
Y. Y cứ như là một con trâu đất tự tại ra vào nào ai giữ được, cần gì
phải nửa đêm hay không nửa đêm?
Tóm lại, ai muốn thấy
được cái độc đáo trong con trâu đất của Tuệ trung, thì phải tham thấu
lọt qua công án này, mới mong thấy được BẢN LAI DIỆN MỤC cuủa chính mình.
Thí dụ có người hỏi Tuệ trung:
"Phật là gì?"
Thượng Sỹ đáp:
"Con trâu đất. (công
án của Đ.L.)"
Ở đây, nếu ai là người
lanh cơ, thì con trâu đất của Thượng Sỹ không còn đất đứng. Cũng có thể
có người bị con trâu đất ám ảnh, nghi ngờ, và từ đó tạo ra mối nghi tình.
Nếu họ biết cách đẩy mối nghi tình này đến chỗ cùng tột, không sớm thì
muộn con trâu đất của Thượng Sỹ cũng bị vỡ tung, và lúc đó mọi người mới
thấy được cái độc đáo của con trâu đất. Còn không thì qua mấy trang giấy
trên, quí vị sẽ không nhận ra chỗ độc đáo của con trâu đất đâu; vì chúng
chỉ là trò chơi của ngôn ngữ, chúng chỉ có khả năng làm mờ mắt thiên hạ
mà thôi.