TÌM
DẤU CHÂN XƯA
"Discover
and Walk in the footsteps of the Great One"
Lê
Bích Sơn
---
o0o
---
Ngày 02 tháng 08 năm 2000
Trước
ngày khởi hành lòng tôi nôn nao khó tả. Sáng hôm ấy, Sư cô
Thoại Mẫn thức dậy, mở cửa đã thấy tôi đang ngồi
"suy tư" trên sân thượng trước cái "Lò
Thiêu số 2 Bình Hưng Hòa" [1]
quen thuộc mà hàng ngày tôi vẫn trú ngụ trong ấy. Cô hỏi:
"Hôm nay có điều gì là lạ khác mọi ngày?", tôi chỉ
mỉm cười. Thật ra tôi đã thức trắng đêm hôm ấy. Cũng lạ,
kể từ ngày đặt chân đến xứ sở "nhịn đói,
suy tư và chờ đợi" này,
không đêm nào tôi chợp mắt trước 3 giờ sáng, mọi việc
trong tôi dường như bị nhào lộn, không thứ tự gì cả. Mặt
trời ở Ấn Ðộ mọc từ lúc 5:30 sáng và lặn vào lúc 7:00
chiều, thời tiết ở đây nóng vô cùng, đêm về đường
dây điện trước nhà chạm vào nhau xẹt lửa làm tôi hoảng
kinh[2], những khó khăn cứ như chồng chất ngày càng cao dần
trước mặt, những món tiền phạt hơn cả ngàn rupees, nỗi
nhớ nhà- nhớ quê làm lòng buồn muốn khóc... tất cả những
thứ ấy hiện ra trong tâm thức mỗi lúc đêm về, khi chỉ
còn một mình với bốn bức tường đối diện: suy nghĩ, lo lắng
và khóc thầm. Thao thức đến 3, 4 giờ sáng mới chợp mắt,
5 hoặc 6 giờ phải dậy lễ Phật, tụng thời kinh sáng. Xong
thời kinh sáng người Ấn vẫn chưa bắt đầu một ngày mới,
mặt trời lên đã cao nhưng họ vẫn còn say trong giấc điệp,
cửa nhà vẫn còn đóng chặt (người Ấn thường bắt đầu
làm việc vào lúc 9:30 sáng), ngoài đường các chú bò thong
dong, nhởn nhơ, tự tại xếp thành từng hàng đi tìm những
thứ trái cây, bánh Chappati, bánh mì vụn, lá cây mà con người
cố tình đặt trước cửa nhà đêm qua. Phải chăng đó chính
là lúc chúng bình yên nhất trên những con đường không có
một sự đe dọa nào của cơ giới, con người? Mặt trời
đã lên khá cao, vẫn chỉ một mình, lại suy nghĩ và lo lắng,
rồi thiếp đi đến lúc chiếc đồng hồ đánh thức "chàng
sinh viên khốn khổ" dậy tiếp tục đi làm thủ tục
nhập học, lúc ấy mọi người trong cùng căn hộ tôi đã
khóa cửa và ra khỏi nhà không biết từ lúc nào. Ở Ấn,
người ta nâng cao khẩu hiệu: "Nhịn đói, suy tư và chờ
đợi", điều này tôi cảm nhận
rất rõ từ ngày đầu tiên đặt chân đến Delhi và những
ngày tiến hành thủ tục nhập học sau đó. Tuy nhiên, với
tôi vẫn còn thiếu một điều mà quý Tăng ni Việt nam đều
đồng ý cho những ai lần đầu đến Ấn Ðộ, tôi xin mạo
muội sửa câu khẩu hiệu ấy thành: "Nhịn đói, mất
ngủ, suy tư và chờ đợi". Tất
nhiên, còn nhiều điều mà khi còn ở Việt Nam ít ai có thể
tưởng tượng ra được.
Ðêm ấy, điện cúp cả mấy
tiếng đồng hồ, nằm trong phòng cứ như đang "xông
hơi", tôi đem chiếc ghế cũ
kỹ ra trước sân vừa làm ghế vừa làm giường, phòng tôi nằm
ở sân thượng, nên đương nhiên được "cai quản"
cả phần sân 9 mét vuông lý tưởng, dù rằng chẳng ai phân
công cả. Từ ngày đến Ấn Ðộ, nhờ cái sân này mà tôi biết
ngủ ngồi mỗi khi trời nóng hoặc cúp điện. Trời càng về
sáng càng nóng, tôi bắt đầu hình dung mọi thứ trong đầu,
tôi góp nhặt tư liệu mỗi nơi một ít: Trong các bộ sách lịch
sử Phật giáo Ấn Độ, những câu chuyện được nghe ai đó
kể lại, những góc độ hình ảnh về tháp Ðại Giác, về Bồ
đề Ðạo tràng mà tôi đã có lần xem qua. Tất cả những
chi tiết ấy được bộ nhớ nhỏ bé của tôi xử lý, thiết
kế một cách chủ quan, lộn xộn và không trật tự như nếp
sinh hoạt những ngày đầu của tôi ở Ấn: Hình ảnh về Bồ
đề Ðạo Tràng có những lúc hoa lệ với đầy những hoa
thơm cỏ lạ, đôi khi lại điêu tàn, đổ nát như dấu ấn bị
ngoại đạo tàn phá một thời. Những hình ảnh ấy cứ chập
chờn, xen lẫn vào nhau bên trong đầu óc nhỏ bé của tôi. Rồi
đến những diễn biến lịch sử của Bồ đề Ðạo Tràng
cũng chắp vá, vụn vặt như người ta đã đặt ra quá nhiều
giả thuyết về khu thánh tích này. Tôi cố gắng sắp xếp một
mạch các biến cố của vùng Bồ đề Ðạo tràng:
...Sau thời gian dài, Thái
tử Tất Ðạt Ða (Siddhattha) trải qua hết vị danh sư này đến
vị thầy khác học đạo, một ngày kia Sa môn Cồ Ðàm
(Gotama) cùng năm anh em Kiều Trần Như (Ajnata Kondanna) tìm đến
khu làng Ưu Lâu Tần Loa (Uruvela) bên cạnh dòng sông Ni Liên
Thiền (Nairanjana), nơi có rất nhiều đạo sĩ thực hành nhiều
hình thức ép xác: chỉ đứng một chân, treo mình trên cây
ngược đầu xuống đất, lấy cây gậy tự đập vào thân thể
đến khi bất tỉnh ngã xuống hàng ngày, chặt và đốt hết
các ngón tay dâng lên Phạm Thiên... Tất cả các hình thức khổ hạnh ấy nhằm vào mục đích: "Chế ngự các cảm
thọ của thân xác để có thể tập trung vào tâm linh mà hòa
nhập vào đại thể của Phạm Thiên". Sa môn Cồ Ðàm
cùng năm anh em Kiều Trần Như cũng gia nhập vào sự tu tập
hành xác khắc khổ ấy. Thời gian dần trôi hết năm này qua
tháng nọ, phong vũ tuyết sương đã làm yếu dần xác thân bậc
vương giả mang tên Tất Ðạt Ða, một ngày kia không thể chống
đỡ lại thân thể đã quá suy nhược, Người ngã xuống bất
tỉnh khi đang cùng các đồng tu thực hành pháp môn ép xác.
Khi tỉnh dậy, Người nghe ông lão hành khất đánh đàn với
đôi mắt mù lòa, vẫn hàng ngày qua lại trên sông, đang dạy
người học trò của mình: "Con không nên để dây đàn
chùng quá, cũng không làm dây căng quá, chùng quá đàn sẽ
không kêu, quá căng khi gảy dây sẽ dễ đứt. Hãy canh dây
đúng mức, cây đàn sẽ phát ra những âm thanh kỳ diệu".
Nghe lời ấy xong, như người vừa chợt tỉnh sau đêm dài mộng
mị, Người cố gắng lê thân mình rời chỗ ngồi xuống
ngâm mình trong dòng nước xanh mát, dòng nước vô tình của
con sông Ni Liên chảy qua cơ thể Người tạo thành những luồng
cảm giác dễ chịu, tinh thần Người cũng phấn chấn hẳn
lên. Tắm xong, Người cố gắng đi về phía bóng râm của
làng Ưu lâu Tần loa, đi được một đoạn Người không tài
nào cất nổi bước chân nữa, vì thân thể đã quá suy yếu;
Người ngồi xuống một gốc cây nhỏ bên con đường mòn, bắt
đầu suy nghĩ tự tìm ra cho mình một con đường mới, một
giải pháp mới. Rồi lại thiếp đi trong sự tàn phá, dày vò
của xác thân đã quá suy nhược. Người tỉnh dậy vào sáng
hôm sau, khi ấy nàng mục nữ có tên gọi Su Dà Ta (Sujata)
cũng bắt đầu một ngày mới với công việc chăn dê của
mình, xa xa nàng thấy hình bóng một con người, nàng tiến lại
gần và thật gần, trước mắt nàng là một người lạ hoắc
có khuôn mặt hóp sâu, tóc đánh cao trên đỉnh đầu, râu
ria dài bao phủ quanh mặt, thân thể khô héo, chỉ còn da bọc
xương. Tuy vậy, nàng vẫn nhận ra một cái gì đó rất cao
quý tỏa sáng đằng sau khuôn mặt đầy hốc hác vì lớp thời
gian khổ hạnh và tật bệnh bao phủ kia. Có một sự cảm ứng
vô hình nào đó khiến nàng quỳ sụp xuống, cởi chiếc túi
vải đeo trên người, lấy chiếc bình bát đổ vào đó đầy
cháo sữa[3] mà nàng đã mang theo để ăn trong ngày, cùng một
chút mật ong thơm phức, dâng lên Người, rồi nàng đứng
lên tạm biệt, khuôn mặt nàng không dấu được vẻ hân
hoan.
Trong lúc Sa môn Cồ Ðàm
dùng bát cháo sữa, năm anh em Kiều Trần Như cũng vừa tìm đến
nơi, trời đất như sụp đổ trước mắt họ "Sa môn Cồ
Ðàm đã chịu khuất phục trước sự cám dỗ của lạc thú
cuộc đời rồi sao?"; không một lời từ giã, họ bỏ mặc
Người và ra đi. Ăn xong bát cháo, Người quyết định vượt
qua bên kia sông để nhập định, nhận được bó cỏ Cát Tường
(Kusa) từ một ông lão bán cỏ trước khi vượt qua con sông
Ni Liên Thiền, đến dưới gốc cây Tát bát La (Pippala, Pipal,
Pippali) Người trải bó cỏ kia làm đệm và phát nguyện:
"Nếu không đạt thành đạo quả ta thề không rời khỏi
nơi này". Rồi 49 ngày trôi qua, ánh sáng trí tuệ bừng dậy
trong Ngài. Từ đó nhân gian có thêm tôn giáo mới: Phật
giáo. Cũng kể từ ngày ấy, người ta quên đi tên của loài
cây Tát bát La mà thay vào đó là cái tên rất Phật giáo
"Bồ Ðề" (Bodhi); cũng từ đó ngôi làng Ưu lâu Tần
loa (Uruvela) được thay thế thành địa danh có tên gọi là
BodhGaya (một số sách gọi theo cách phiên âm của người Hoa
là xứ Phật Ðà già da) được rất nhiều người trên quả
địa cầu này biết đến. Phật giáo Việt Nam hướng tâm về
vùng đất ấy gọi là "Bồ Ðề Ðạo Tràng"
(Bodhimanda). Vùng đất thiêng này trở thành nơi chiêm bái đối
với những người con Phật có cơ duyên đến Ấn độ. Tất
nhiên, nơi ấy cũng là "mục tiêu phải tiêu diệt, tàn
phá, sang bằng" của những kẻ
cuồng tín ngoại đạo.
Có khá
nhiều giả thuyết về ngôi Ðại tháp Giác Ngộ và một số
vùng phụ cận có liên quan đến khu Thánh tích Bồ đề Ðạo
tràng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một kết luận nào
xác đáng được số đông các nhà nghiên cứu đồng ý, một
dấu hỏi lớn vẫn còn treo lơ lửng. Theo các tài liệu sử học:
Sau khi Ðức Phật nhập diệt khoảng 200 năm, phạm vi Phật
giáo phát triển đã lan rộng hầu hết các nước thuộc vùng
Trung Ấn và trải rộng ra trên lưu vực sông Hằng. Rồi lại
trải qua thêm 100 năm nữa, Phật giáo không những ảnh hưởng
lan rộng khắp nước mà còn vượt biển và dãy Hy Mã Lạp
Sơn đến các nước lân cận dưới sự chấn hưng và hộ
trì Chánh pháp của A Dục Vương (Asoka Ðại đế- vị vua có
công thống nhất toàn bộ lãnh thổ Ấn Ðộ, cũng là vị Vua
đã tổ chức thành công cuộc Kết tập kinh điển lần thứ
Ba cùng những đóng góp hết sức lớn lao cho sự nghiệp phát
triển Phật giáo). Một giai thoại kể rằng: Sau khi Ðức Phật
nhập diệt 234 năm[4], A Dục lên ngôi Ðại đế, Vua hối hận về
tội sát hại vô số loài hữu tình cho trận chiến Kalinga
dành thống nhất Ấn Ðộ[5]. Một lần may mắn gặp được vị
thiện tri thức là Tôn giả Da Xá (Yasa) cảm hóa, Vua phát thệ
nguyện không tạo nghiệp ác nữa, hồi đầu quy y Tam Bảo[6].
Sau khi quy y, A Dục vương thường thỉnh chư vị Trưởng lão,
Ðại đức vào cung thuyết pháp, luận bàn điển chương và
trở thành một trong những người thực hành và truyền bá học
thuyết "Ahimsa" (Non-Violence, bất bạo động) trên
toàn cõi Ấn độ. Ngày kia, Vua nghe pháp với vị Ðạo sư Thạc
học- Tôn giả Ưu Ba Cấp Ða (Upagutta)- dưới sự chỉ giáo của
Tôn giả, Vua phát nguyện thân hành đi chiêm bái các thánh
tích. Trước tiên, Vua đến vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini-nơi Phật
đản sanh), rồi Ca Tỳ La Vệ (Kapilvastu-quê hương của Ðức
Phật), đến thôn Ưu Lâu Tần Loa (Uruvela-nơi Ðức Phật hành
khổ hạnh), Bồ đề Ðạo tràng (Bodhgaya-nơi Phật thành Ðạo),
Lộc Uyển (Sarnath-nơi Phật sơ chuyển pháp luân) và Câu Thi
Na (Kushinagar - nơi Ðức Phật nhập Niết bàn)... Theo nhiều
nguồn sử truyền: Vua cho xây dựng hết thảy 84000 ngôi chùa
và bảo tháp lớn nhỏ trên khắp đất nước Ấn Ðộ. Tất
nhiên một số công trình tại Bồ đề Ðạo tràng cũng nằm
trong số đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng: Tại Bồ đề
Ðạo tràng, chỉ có Kim Cang tòa và một vài trụ đá là của
chính vua A Dục xây dựng, còn lại hầu hết các công trình
kiến trúc là tác phẩm của người đời sau Asoka. Theo hai Thầy
Hạnh Nguyện & Hạnh Tấn trong cuốn "Xứ Phật -
Tình quê" trang 97 có đoạn chép: "...Vua A Dục đã
cho làm một tòa Kim Cang bằng đá, bên trên có khắc các hoa
văn. Phía trước tòa có bốn cây trụ dẹp, bên sau tòa là cội
Bồ Ðề. Mỗi bên cội Bồ Ðề đều có biểu tượng của
Tam Bảo và bánh xe Pháp trên hai cây cột ngắn. Hai bên Kim
cang tòa lại có hai nhà thủy tạ tương tự như tại Kim cang
tòa. Bên trên Kim cang tòa được ghi nhận rằng không hề có
an trí tượng Phật bởi vua A Dục. Ðiện Kim cang tòa nằm
trong đền thờ chính như ngày nay. Nếu chúng ta tinh ý sẽ thấy
những trụ đá gãy nơi góc tường".
Từ triều đại Mauryan
Asoka trở về sau, Phật giáo tại Ấn độ cực kỳ phát triển
dưới sự ủng hộ của nhiều vị vua kế vị: Phật giáo
phát triển thành nhiều bộ phái, nhiều bậc Luận sư trứ
danh xuất hiện như các ngài Vô Trước, Thế Thân, Long Thọ...
đã để lại những đóng góp lớn lao cho nền văn- triết học
Phật giáo ngày một phát triển, nở rộ và ảnh hưởng sâu
rộng đến những nước khác. Bồ đề Ðạo tràng thực sự
trở thành một khu thánh địa tương đối có tầm vóc. Khi
Tam Tạng Pháp sư Trần Huyền Trang từ Trung Hoa sang Ấn Ðộ
chiêm bái, Bồ đề Ðạo tràng đã hình thành một khu thánh
tích khá hoàn chỉnh, thông qua Ký sự của Ngài mô tả một
cách chi tiết về Bồ Ðề Ðạo Tràng[7].
Ðến
thế kỷ VIII, Hồi giáo tấn công vào Tây-bắc Ấn Ðộ và
đánh phá Trung Ấn liên tiếp kéo dài đến thế kỷ XI, gây
nhiều thiệt hại cho Phật giáo. Ðể phản kháng quân Hồi,
các tôn giáo ở Ấn Ðộ thời bấy giờ kết hợp lại thành
một tôn giáo gọi là Thời-Luân-Giáo (Kàlacakra Tantra) chống
trả lại. Nhưng đến năm 1203, tướng Iktiyar Uddin chỉ huy
quân Hồi giáo tiến vào Trung Ấn Ðộ, rồi làm bá chủ Trung
Ấn, đương nhiên Trung Ấn trở thành lãnh thổ của đế quốc
Hồi giáo. Vì mục đích thiết lập một đế quốc Hồi
giáo, nên các tôn giáo khác hiện diện trên đất Ấn đều
trở thành "kẻ thù không đội trời chung"
của họ: Phật giáo cùng Ấn giáo lâm vào đại nạn. Ðối với
Phật giáo, quân Hồi đối đãi một cách bạo tàn: phá hủy
chùa tháp, thiêu đốt kinh điển, đập phá tượng Phật, tịch
thu bảo vật, giết hại Tăng ni... làm cho đạo Phật gần
như bị tiêu diệt trên chính mảnh đất Phật giáo được
sinh ra. Các vị Cao Tăng lúc bấy giờ một mặt lánh vào rừng
núi ẩn tu, số đông bỏ sang các nước Tây Tạng, Trung Quốc,
Mông Cổ tị nạn. Thời kỳ này các sử gia gọi chung là:
"Trang sử tang thương nhất trong lịch sử Phật giáo
Ấn Ðộ". Tất nhiên, Bồ đề
Ðạo tràng cũng "cùng chung số phận": trở thành
nơi hoang phế, điêu tàn, đổ nát mà những thế kỷ tiếp
sau đó, Bồ đề Ðạo tràng gần như rơi vào quên lãng.
Một tài liệu viết rằng:
Vào năm 1234, Dharmasvamin – người Tây Tạng – đến đảnh lễ
Bồ đề Ðạo tràng, khi ấy thánh địa này chỉ còn sót lại
một thiền viện hoang phế, tất cả Tăng sĩ đã lần lượt
ra đi dưới sự khủng bố của quân đội Turushka; Thiền viện
này chỉ còn lại bốn vị Tăng sống trong cảnh bị
"phong tỏa" về mọi mặt. Trong thời kỳ Phật giáo
suy tàn trên đất nước Ấn Ðộ, người Miến Ðiện đã âm
thầm đến và sửa chữa lại Bồ đề Ðạo tràng ít nhất
ba lần trong hai thế kỷ XIV và XV, lần sửa chữa sau cùng bắt
đầu từ năm 1472 và kết thúc vào năm 1492. Gần một trăm
năm sau đó (1590), ông Gosain Giri – tu sĩ Ấn giáo– cho xây dựng
một ngôi đền Hindu tại Bồ đề Ðạo tràng, sự có mặt của
ngôi đền Hindu này đã biến Bồ đề Ðạo tràng vốn đã bị
lãng quên, càng trở nên một bóng mờ trong tâm trí những
người Phật tử. Bồ đề Ðạo tràng lại rơi vào tay của
những người theo Ấn giáo. Năm 1811, vua Miến Ðiện đến viếng
Bồ đề Ðạo tràng, sau đó gởi hai vị sứ giả lo việc tu
bổ Bồ đề Ðạo tràng (vào năm 1847), nhưng mãi đến năm
1884, Ấn Ðộ mới "bắt tay" vào việc tu sửa. Sau khi
khôi phục lại tháp Ðại Giác (Maha Bodhi Temple), Bồ đề Ðạo
tràng vẫn trực thuộc dưới quyền quản lý của Giáo hội
Ấn giáo Mahant.
Năm 1891, Anagarika Dharmapala[8]
sau khi đến Ấn Ðộ, chứng kiến cảnh điêu tàn của Thánh
địa Bồ Ðề Ðạo Tràng, Ông xúc động: " Thật quả
là một thắng cảnh vô tỷ của Thế giới. Mỗi Phật tử
chúng ta, ai nấy phải có nhiệm vụ bảo hộ- duy trì, ...
không thể để cho một Thánh địa vĩ đại như thế này phải
đoạn tuyệt". Ông đến các nước: Nhật Bản, Hoa Kỳ, một
số nước thuộc Âu châu kêu gọi hỗ trợ công cuộc tu sửa
lại Bồ đề Ðạo tràng, kiên quyết từng bước ngăn chặn
những hành vi phá hoại của những người ngoại đạo tại
khu thánh địa này. Anagarika Dharmapala thành lập Hội Ðại Bồ
Ðề Ấn Ðộ (Maha Bodhi Society of India)[9] và trực tiếp vận động
phong trào phục hưng Phật giáo tại Ấn Ðộ. Ông làm đơn
xin tu sửa lại Bồ đề Ðạo tràng, nhưng vì một lý do nào
đó Anagarika Dharmapala không được cấp giấy phép, chính phủ
Anh tại Ấn Ðộ quyết định rằng: ngôi Tháp và vùng chung
quanh Bồ đề Ðạo tràng thuộc về đền Ấn giáo. Sau khi
giáo hội Ấn giáo được quyền sở hữu toàn bộ thánh địa
Bồ đề Ðạo tràng, họ đã công kích phản đối về sự
có mặt của những Tăng sĩ Phật giáo người Miến Ðiện và
Tích Lan tại đây. Vào một ngày giữa tháng 02 năm 1893, những
kẻ cuồng tín Ấn giáo đã tìm cách tấn công hai vị Tăng
sĩ người Miến Ðiện một cách rất tàn nhẫn. Hai năm sau
đó Anagarika Dharmapala cũng bị những người Ấn giáo tấn
công và gây trở ngại khi đang làm lễ an vị một tượng Phật
do phật tử Nhật Bản cúng dường ở tầng trệt tháp Ðại
Giác. Năm 1906, họ yêu cầu trục xuất tất cả Tăng sĩ Phật
giáo rời khỏi khu vực Bồ đề Ðạo tràng. Sau hơn 45 năm nỗ
lực đấu tranh, cuối cùng Bồ đề Ðạo tràng lại trở về
với những người Phật tử. Năm 1952, Ủy ban quản lý Bồ Ðề
Ðạo Tràng được thành lập, từ đó mọi hoạt động tu bổ
và chấn hưng Bồ đề Ðạo tràng tiếp tục cho đến ngày
nay[10].
Tôi sắp
xếp một mạch theo chiều dọc các dữ kiện về cuộc đời
Ðức Phật, thánh tích Bồ đề Ðạo tràng mà tôi đã từng
tham khảo từ một số tài liệu trước đó. Dĩ nhiên, có
quá nhiều tài liệu viết về Ðức Phật và Bồ đề Ðạo
tràng, nhưng phần lớn những tài liệu ấy không trùng khớp
với nhau. Hơn nữa, với khoảng thời gian hơn hai ngàn năm đủ
để xóa nhòa hoặc tô bóng tất cả, vấn đề bất đồng ý
kiến là điều đương nhiên xảy ra.
Chú
thích
1.Tên
quý Thầy Việt Nam đặt cho căn phòng
tôi thuê ở sân thượng căn nhà 7F Kamla Nagar. Ðây là căn phòng
hết sức nóng, đã có rất nhiều người thuê ở, nhưng cuối
cùng phải "rút lui". Vì cái "lò sưởi" này
thật "khó thở" vào mùa hè, và trở thành "hộp
đá lạnh" vào mùa đông. Nhưng vì là học trò nghèo mới
qua đến Ấn, tiền tôi còn dùng vào nhiều việc, làm sao dám
thuê những căn phòng thoáng mát. Phòng của tôi giá thuê rẻ
nhất Delhi.
2.
Vì dây điện trước nhà hay bị chập vào nhau, tôi sợ chúng
sẽ gây hỏa hoạn, nên lúc nào tôi cũng bọc tất cả mọi
giấy tờ quan trọng trong mình (kể cả lúc đi ngủ).
3.
Ngày nay, người dân Ấn vẫn còn duy trì loại cháo sữa này.
Ở ký túc xá Mansarowar nấu cho sinh viên ăn vào các sáng chủ
Nhật, cháo được nấu bằng sữa tươi với hạt cao lương,
ăn có vị ngọt như ăn chè.
4.
Asoka (A Dục) có tên riêng là Devànapìya Piyadasa (Thiên Ái Thiện
Kiến Vương). Với 41 năm tại vị,
Asoka có thể được coi là vị vua có công lớn nhất
trong sự nghiệp Chấn hưng và phát triển Phật giáo từ xưa
đến nay. Các sử gia cho rằng: "Sự nghiệp hộ trì của
Vua Asoka đối với Phật giáo còn hơn cả sự nghiệp của Hoàng
đế Constantine của La Mã bảo hộ Thiên Chúa giáo".
5.
Hơn 100.000 người đã ngã xuống
trong cuộc chiến Kalinga. Sau khi chiến thắng, A Dục Vương đã
ra lệnh lưu đày hơn 150.000 người.
6.
Có một giai thoại kể rằng: Ðể sám hối cho việc thời
gian trong vòng bốn năm, Asoka giết sạch thân tộc chỉ chừa
lại một người em cùng mẹ, tự lên làm Vua. Vì thế ông cho
xây 84000 chùa, tháp trên khắp Ấn Ðộ để sám hối tội lỗi
xưa.
7.
Hầu hết những khai quật sau này về khu Thánh địa Bồ Ðề
Ðạo Tràng đều dựa vào bộ "Ðại Ðường Tây Vực
Ký" của ngài Huyền Trang. Một số bài viết gọi tác phẩm
"Tây Du Ký" của ngài Huyền Trang là thiếu căn cứ và
hoàn toàn sai lệch. "Tây Du Ký" là tác phẩm văn học
phóng tác của Ngô Thừa Ân vào thế kỷ XVI, dựa vào tác
phẩm "Ðại Ðường Tây Vực Ký" của ngài Huyền
Trang viết vào thế kỷ VII. "Ðại Ðường Tây Vực
Ký" của ngài Huyền Trang cùng với "Phật Quốc
Ký" của ngài Pháp Hiển là những sử liệu quan trọng
và hết sức quý giá trong việc nghiên cứu về Phật giáo Ấn Ðộ, cũng như phục hồi các Thánh tích sau này.
8.
Anagarika Dharmapala người Tích Lan (Srilanka), Ông là con một gia
đình có truyền thống Phật giáo ở Colombo - Thủ đô Tích
Lan. Thuở thiếu thời, dù mỗi ngày phải
đọc Thánh kinh khi theo học ở Trường học của Thiên
chúa giáo, nhưng ông vẫn chứng tỏ mình là một tín đồ thuần
thành của Phật giáo. Khi Ðại tá Henry Steelle Ocott - người
Hoa kỳ- sang Tích lan chấn hưng Phật giáo, Anagarika Dharmapala
là người trợ lý đắc lực cho Ông
ta. Từ đó lòng mộ đạo A.Dharmapala ngày một vững, việc
học Phật ngày một uyên thâm, mục đích duy nhất của A.
Dharmapala là chấn hưng Pgiáo tại hai nước : Tích Lan
& Ấn Ðộ. A. Dharmapala đến Ấn Ðộ năm
29 tuổi (1891), đến năm 1892 A.Dharmapala cho phát hành tờ
báo mang tên "Bodhi Journal" (Bồ Ðề Tạp chí) làm cơ
quan ngôn luận truyền bá Phật giáo và liên lạc với Phật-giáo-đồ
các nước trên thế giới, làm phương tiện "kêu gọi mọi
người tham gia vào công cuộc phục hưng các Thánh tích Phật
giáo" tại Ấn Ðộ. Ðến ngày 13/07/1930, Ông chính thức
thế phát xuất gia, thọ bệnh và qua đời tháng 12/1932.
9.
Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ (Mahabodhi Society of India) được
thành lập chính thức vào ngày: 31/05/1891, với tên ban đầu là
Hội Ðại Bồ Ðề Budha Gaya (The Buddha Gaya Mahabodhi Society).
10.
Một nhân vật lịch sử vĩ đại như
Ðức Phật, được người đời đưa vào sử sách từ những
quan điểm khác nhau, thời gian khác nhau, kể cả những giai
thoại do con người thêu dệt. Những chi tiết về cuộc đời
Ðức Phật, cũng như quá trình hình thành, phát triển
thánh địa Bồ Ðề Ðạo Tràng được góp nhặt từ nhiều
nguồn tài liệu khác nhau, tất không sao tránh khỏi những sai
sót nhỏ. Rất mong sự chỉ giáo từ các bậc cao minh.
---
o0o
---
Phần 1 |
Mục Lục |
Phần 3
---
o0o
---
|
Tủ
sách Phật học
|
--- o0o ---
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày: 01-08-2002