XỨ
PHẬT-TÌNH QUÊ I
Thích
Hạnh Nguyện
Thích Hạnh Tấn
---o0o---
Câu Thi Na [Kushinagar]
Lần đầu tiên chúng tôi đến Câu Thi Na là
cách đây khoảng 4 năm về trước. Hồi ấy Câu Thi Na chưa sầm uất
và đầy các công trình xây cất chùa chiền như bây giờ, hồi ấy
Câu Thi Na đầy vẻ hoang vắng và thiếu nhiều phương tiện giao thông
đi lại. Nhớ lần ấy đến Gorakhpur chúng tôi loai hoay tìm cách đi
Câu Thi Na bằng một phương tiện rẻ nhất. Và như tôi kể ở các
chương trước là sau một thời gian chờ đợi mõi mòn đến phải
ngủ đêm lại trong một căn khách sạn đầy chuột và dán, chúng
tôi mới đón được chiếc xe buýt đầy ắp người xình xịch chạy
rề rề lúc ngừng lúc đổ và mãi đến gần 3 tiếng sau mới đến
được Câu Thi Na. Lần thứ hai chúng tôi đi chung với một vài
người phật tử nên phương cách tiện nhất là đón một chiếc Taxi.
Lần mướn taxi này cũng là một lần đáng nhớ. Vì hình như cả
một đám tài xế Taxi ở trạm đó đều ăn rơ với nhau nên họ
nói giá với chúng tôi thật cao. Tuy nhiên chúng tôi cũng chẳng
vừa nên đi dạo một vòng quanh phố và khám phá ra một trạm taxi
khác cách đó không xa với một giá rẻ hơn nhiều. Rồi cũng làm
bộ trả giá lên xuống và sau cùng chúng tôi mướn được xe với
giá 350 Rs cho đoạn đường 52 km đến Câu Thi Na.
Nói là Taxi cho oai chứ thật ra chiếc xe chúng
tôi đi chẳng có nghĩa gì là Taxi cả theo một nhận thức thông
thường của người bên Âu Mỹ. Chiếc xe hơi loại kiểu Anh vào thập
niên 40-50 gì đó vậy mà vẫn còn có giá trị trong những tuyến
đường dài này. Nhìn xe chúng tôi cũng đủ biết nó quá già nua,
mang đầy tật bệnh và quả thật trên đoạn đường đi chiếc xe đã
phải dừng lại nghỉ nhiều lần cho máy nguội, đó là chưa kể xe bị
hư hai ba lần dọc đường. Tuy nhiên tiền nào của nấy hoặc có thể
nói ngược lại là của nào tiền nấy nên dọc đường chúng tôi
chẳng mấy than van và thông cảm lắm với nổi khổ của chiếc xe.
Đúng ra thì chẳng có nơi trên thế giới mà người ta có thể đón
xe thuộc loại Taxi này đi đoạn đường dài 52 km với một giá rẻ
mạt là 15 US. Dù là xe Taxi hay xe thồ, xe cóc gì đi nữa thì chúng
tôi cũng cảm thấy rất hài lòng với giá cả này vì nếu phải đem
so với giá Taxi ở Đan Mạch, ở Đức thì chắc chúng tôi phải lắc
đầu le lưỡi, lẽ dĩ nhiên là xe Taxi đó cũng êm hơn, thoải mái
và sướng hơn nhưng với chúng tôi thì thật tình chẳng mấy quan tâm
lắm về những cái xa xí phẩm ấy.
Khi xe buýt đưa chúng tôi đến Câu Thi Na thì
trời đã xế trưa. Sau khi rời khỏi bến xe chúng tôi loay hoay đi tìm
nơi ở trước và không hiểu sao thật là kỳ lạ lúc ấy chúng tôi
không có một ý nghĩ tìm đến chùa Linh Sơn Việt Nam để xin trú
lại. Thế nên đi vòng vòng mãi chúng tôi mới kiếm được một
khách sạn Ấn Độ cũ mèm, thiếu cả phần vệ sinh căn bản tối
thiểu. Tuy nhiên chúng tôi không quan tâm lắm về nơi ăn chốn ở
của mình, có lẽ phải nói chúng tôi thuộc loại dân lì nên cái gì
cũng dễ chấp nhận. Ấn Độ mà nếu người ta không chấp nhận thì
gần như là chối bỏ và còn bài xích nữa là khác. Có người
lần đầu đến Ấn gặp các cảnh tượng sống và sinh hoạt ở đây
đã bị một cơn Sốc ghê gớm và một hai đòi đáp máy bay
trở về nước; rồi lại có người sau khi viếng thăm, ở lại một
thời gian lại đâm ra mê tít xứ này một cách lạ lùng; ví dụ như
chúng tôi đây và xin nhớ một điều là không phải riêng chúng
tôi đâu nhé, có hàng bao nhiêu người tây phương, Á đông khác
đã nói với chúng tôi như vậy kìa.
Hình như tôi thấy mình đang có được một chút
gì đó trong thời gian sống ở đây. Có lẽ là một chút chịu
đựng nho nhỏ trong cái đời sống đa dạng đầy màu sắc này. Dĩ
nhiên là phải trải qua thời gian để rồi tôi có được cái nhận
xét chín chắn hơn, trưởng thành hơn trong việc nhận xét và đánh
giá sự vật chứ không như ban đầu thời gian tôi mới đến. Tập
chịu đựng chính mình và đừng thấy cái xấu bên ngoài là những
gì tôi vẫn đang còn cố gắng thực tập dầu rằng đôi khi tôi vẫn
quên mình và thấy đầy dẫy những cái xấu khác ở một vài xứ
xở nào đó. Thầy tôi thì luôn luôn khuyên nhắc tôi rằng, con
phải cố tập chịu đựng dù là một sự chịu đựng nho nhỏ nào
đó. Còn không thì tất cả các vấn đề và khổ đau sẽ đè ập
lên con. Một món ăn khó nuốt, một tiếng ồn nhỏ làm con mất ngủ
ban đêm, một vài điều không đúng ý, tất cả đều có thể làm
con khó chịu đến phát loạn.
Nhớ lại lần đầu tiên đến Ấn vào năm 1992,
tôi than thở chê bai Ấn Độ mọi điều, nào là dơ quá, bụi quá,
đông người quá, lộn xộn quá, mất trật tự quá và một dọc
dài của những từ ngữ quá và rất. Đôi khi tôi nghĩ
rằng xứ xở tây phương làm tôi hư vì đã cho tôi một cuộc sống
quá đầy đủ về vật chất mà không giúp cho tôi có một cái nhìn
và hiểu biết về thực trạng của đời sống. Thứ đời sống mà
tôi từng hưởng đó chỉ là một mặt của xã hội con người và
thường đưa con người đi sâu vào những giấc mơ đẹp giả tạo
để rồi quên bẵng cái thế giới và con người khổ đau chung quanh.
Và hình như các thế giới tây phương đang có đủ khả năng và
phương tiện để giúp con người ta tiếp tục có được những giấc
mơ đẹp ấy.
Mang những cái nhìn và hiểu biết giới hạn như
vậy tôi bay về xứ Ấn Độ để được học và tìm đạo. Mục tiêu
của tôi đến đây là mục tiêu của một người đang trên đường
đi cầu tìm và học đạo thế mà rõ thật là cạn cợt và hạn hẹp
khi nhìn và đánh giá một xứ xở tâm linh văn hiến này chỉ với
đầy những từ ngữ quá và rất. Nhưng lúc ấy thật tình
tôi không thể nào thấy được gì hay và đẹp khác ngoài những
nổi chịu đựng nhọc nhằn. Chuỗi ngày theo sau quả là những chuỗi
ngày của đau khổ và chịu đựng. Chịu đựng những bản nhạc Ấn
Độ dựt dựt nhảy nhảythe thé như muốn làm long tai điên óc con
người trên các chuyến xe buýt, chịu đựng buộc phải xem những
băng Video chỉ toàn có hát và nhảy múa muốn điên dại trên những
chuyến xe đường dài, chịu đựng những bữa cơm nặng mùi cà ri cay
xé miệng, chịu đựng những mùi hôi của lớp dân nghèo lam lũ,
chịu đựng sự dơ nhớp, mánh mun ma quái của lớp dân buôn bán
chuyên tìm cách gạ gẫm lường gạt người ngoại quốc và chịu
đựng bao nhiêu là thứ khác nữa v.v... Nhưng hiện sau gần bốn năm
ở đây tôi mới biết mình học được một chút gì chịu đựng nho
nhỏ và thấy được những gì không cần phải chịu đựng, nghĩa là
thấy được trăm ngàn những cái hay đẹp khác ở xứ này và dĩ
nhiên cuộc sống của chúng tôi hiện tại là biết hưởng những gì
hay và đẹp trên một đất nước có chiều sâu tâm linh đáng kính
trọng như xứ này.
Nghĩ lại những nhận định và suy nghĩ lúc
ban đầu, tôi thấy mình lúc ấy quả thật là nông cạn và ngây thơ.
Giờ đây tôi đã hiểu Ấn Độ là Ấn Độ và các nước Âu Mỹ
là các nước Âu Mỹ, hai nơi sẽ không bao giờ có thể giống nhau
và cũng không nên giống nhau. Tôi giờ đây thích Ấn Độ giữ
được những nét như nó đang là và phải là một xứ xở tâm
linh như vậy thì Ấn Độ mới có thể là nơi phát sinh ra những bậc
thánh nhân vĩ đại trong quá khứ, hiện tại cũng như ở tương
lai.
Có một số người đến Ấn Độ một lần rồi
sau đó kết luận đánh giá Ấn Độ là như vầy thế kia. Nhưng rõ
thật là lầm lẫn vì không thể đánh giá xứ này từ một lăng
kính nào đó trong một sớm một chiều được. Ấn Độ có thể ví
như bản tâm của mình vì nó vô cùng phức tạp và khó thể đánh
giá một sớm một chiều tâm mình ra sao. Ta không thể kết luận tâm
mình thiện hay ác trong một lúc nhất thời nào đó mà cần phải có
thời gian nghiệm xét, tư duy thiền định hoặc khi phải chạm mặt với
thực tế của đời sống. Đối với xứ xở này cũng vậy, thật
là khó đánh giá và kết luận trong một chuyến đi hoặc qua những
cái mắt thấy tai nghe. Đất nước Ấn Độ có muôn vàn màu sắc
với những nơi đẹp tựa trong tranh, có những chốn xa hoa sang trọng
đẹp đẽ không thua gì các nước Âu tây nhưng cũng có nơi dơ bẩn
nghèo hàn và đói rách. Thiên đường và địa ngục đều hiện
hữu nơi xứ này, ngạ quỷ và A Tu La cũng có. Tất cả đều có nơi
đây trong cùng một nơi nhưng chỉ khác bên này và bên kia đường
mà thôi. Đời sống và sinh hoạt của dân Ấn là vậy còn về tính
tình thì cũng khó hiểu vô cùng mặc dù phải nói rằng người dân
đây vô cùng hiền hậu và dễ chịu. Nhưng để hiểu về con người
họ, về dân tộc họ thì chính những người bạn Ấn của tôi cũng
phải buộc miệng than rằng: Chính tôi là người Ấn mà cũng
không hiểu được họ huống là bạn. Tôi thì cố tập lắng nghe
và tìm hiểu thêm về xứ sở, người dân ở đây bằng cách đọc
thêm nhiều sách về Ấn Độ. Càng tìm hiểu sâu về con người và
xứ này tôi càng thấy đặc biệt và lạ lùng; khó thể diễn tả
được hết với mọi người. Đôi khi tôi nói chơi với thầy Hạnh
Tấn rằng, sao những người làm phim Hồng Kông không sang đây để
làm cuốn phim Án Độ cái gì cũng có như họ đã từng làm ở
Việt Nam, Nhật Bản, Đài Loan v.v... Phim được làm ở đây sẽ là
một cuốn phim trung thực nhất hơn ở bất cứ nơi nào khác trên
thế giới, tôi cho là vậy.
Buổi chiều chúng tôi ra thăm viếng đại tháp
và chùa Niết Bàn. Cảnh tượng nơi đây thật yên tĩnh đến độ
trầm lặng. Không khí thoáng độ u buồn và hình như phảng phát dư
âm hình bóng của người xưa, của bậc thầy cao vòi vọi trên tất
cả hàng trời người. Hòa mình vào dư âm đó chúng tôi tụng một
thời kinh và quỳ im lặng xúc động hàng giờ bên pho tượng Phật
nhập Niết bàn được an trí trong ngôi chùa.
Quang cảnh ở Câu Thi Na này quanh năm đều có một không khí
tĩnh mịch và toát vẻ u buồn. Nổi u buồn nào đó phảng phất đâu
đây còn sót lại một chút hồn mà những khách hành hương khi
đến nơi này đều không khỏi cảm thấy xót xa và rung động tự
đáy lòng. Trong chuyến hành hương năm 1993, có em Phạm Anh Dũng một
phật tử thuần thành nhưng chẳng may đôi mắt em lại bị mất đi ánh
sáng ngay từ thuở nhỏ. Thật tội nghiệp là trong suốt đoạn
đường hành hương em chẳng thấy được gì mà chỉ cảm nhận bởi
một tấm lòng thành. Tấm lòng của một con người tuy mất đi ánh
sáng nhưng lại luôn luôn khao khát tìm về con đường sống thật của
nội tâm. Có lẽ em không có dịp may để được sinh vào thời Phật
và được ngài cứu chữa như ngài đã cứu chữa sáng mắt cho 500
người mù tại thành Xá Vệ; nhưng em đã may mắn hơn trăm ngàn
người đồng cảnh ngộ khác là em đã đến tận nơi đức Phật đã
từng sống, từng đi giáo hóa cứu độ chúng sanh. Với tôi điều
đó cũng là tất cả, là điều quý báu hơn hết vì em đã đến
đây và cảm nhận được tất cả với một tấm lòng thành mà cho
dù những người giàu sang và đầy đủ nhãn quang khác cũng không
thể có được cơ duyên sang đất Phật chiêm bái như vậy.
Ba em đã đưa em đi chiêm bái các di tích của
đức Phật tại Ấn Độ trong thời gian này. Đến Câu Thi Na và khi
được hỏi về cảm tưởng của em khi đến đây, em đã nói thật
là cảm động: Cháu có nhớ trong kinh là khi đức Phật nhập
diệt, tiếng khóc đã vang xa ba ngàn thế giới; đức Phật là con
mắt của thế gian mà khi ngài mất đi thì thế gian không còn nơi
nương tựa nữa. Cháu còn nhớ nổi buồn của mình khi đọc đến
đoạn đó. Chỉ còn có mấy ngày nữa là cháu rời khỏi Ấn Độ
rồi mà cháu cảm thấy lưu luyến như đây là quê hương của cháu
trong muôn ngàn kiếp xưa vậy. Phải chăng chỉ một con người như em
Dũng, một người đã mất đi cái ánh sáng thiêng liêng nhất của
con người, lúc ấy mới thốt lên được những lời chân thật
đầy ý nghĩa xuất phát tự đáy lòng. Còn tôi tuy là một tu sĩ
nhưng nếu có ai hỏi về cảm nghĩ của tôi lúc ấy thì có lẽ tôi
chỉ có thể trả lời một cách máy móc mà thiếu sự rung động
thật sự từ con tim. So với em Dũng tôi thấy mình thật đáng hổ
thẹn.
Sau khi chiêm bái nơi chùa Niết Bàn xong chúng tôi đến nền
tháp nơi hỏa thiêu nhục thân đức Phật. Tại đây chúng tôi đảnh
lễ ngôi tháp và ngồi thiền mãi đến khi trời sập tối. Cuộc thăm
viếng lần đầu của chúng tôi là vậy, đơn giản, ngắn ngủi nhưng
có nhiều ý nghĩa và xúc động. Những lần thăm viếng chiêm bái
về sau, chúng tôi thường đi với các phái đoàn nên ít có
được thời gian với những giây phút êm đềm, ý vị như vậy. Và
thường là những lúc sau này, chúng tôi còn bị quấy rầy bởi
những người tăng sĩ Ấn Độ kỳ lạ thuộc Nam tông, chuyên môn gạ
chuyện chúng tôi để rồi muốn cúng dường các bộ y Nam tông. Và
kỳ lạ thay là lần nào đến lại Câu Thi Na chúng tôi cũng gặp
những vị thầy ấy và được các thầy đó đi kèm theo to nhỏ đòi
cúng dường các bộ y như trên. Vui nhất là kỳ hành hương vừa qua
với phái đoàn của T.T Khánh Anh, chúng tôi còn gặp cảnh họ tranh
cãi, giành nhau đòi cúng dường các bộ y cho T.T nữa. Chuyện lạ
thật và mãi cho đến nay chúng tôi cũng vẫn chưa hiểu được mục
đích đằng sau của sự việc cúng dường này là gì?
Đường Về Tịch
mặc
Tin đức Thế tôn ba tháng nữa nhập diệt
đã loan đi khắp bốn phương trời, các chúng sanh hàng trời người
đều rúng động và không ngăn nổi cảm xúc bi ai khi nghe được tin
này. Ôi! rồi mai đây thế gian sẽ trống rỗng, chúng sanh nơi các
cõi sẽ chìm trong khổ đau của mê tối, trôi lăn với luân hồi và
không thể tìm đâu ra con đường giải thoát. Ngọn đèn tuệ soi
đường của hàng trời người sẽ mất. Khổ thay, khổ thay.
Khi bậc toàn giác ra đi, hình bóng người sẽ mãi mãi xa vắng
với các đệ tử. Các thầy Tỳ kheo trưởng lão nghĩ đến đó mà
không cầm được cơn đau xót, các thầy không nỡ nhìn đức Phật
ra đi nên xin ngài cho phép họ được nhập diệt trước. Những hàng
đệ tử chưa đạt thánh quả thì ta thán lên rằng, Thế tôn sẽ ra
đi, có còn ai đâu mà dìu dắt chúng ta trên bước đường tu học.
Họ đồng bi than tự trách sao sinh nhằm vào thời Phật nhập diệt,
để không có cơ duyên tu học và giác ngộ khi đức Thế tôn còn
tại thế. Vua quan dân chúng thành Vaishali cũng không tránh khỏi cảm
xúc rơi lệ, bịn rịn đưa tiễn theo ngài mãi trên con đường xa mà
chưa muốn quay trở lại.
Tình thương nào mà chẳng một mai phải chia ly, sự luyến ái nào
mà chẳng đến hồi chung cuộc. Cái vô thường của kiếp người đang
dần dần hủy diệt những cái gì mà con người thương yêu triều
mến nhất và chân lý chắc thật ấy như giờ đây thấy rõ hơn qua
buổi tiễn biệt đức Phật ra đi khỏi thành Vaishali để về nơi nhập
diệt. Thôi các ngươi hãy ở lại đây, ta cùng chúng tăng sẽ ra đi
về hướng Pava nơi thành Câu Thi Na để nhập diệt. Cả đoàn người
vua quan dân chúng đều khóc than sầu não chẳng thể dứt rời và
đức Thế tôn khi ấy đã làm hiện ra một dòng sông nước chảy
xiết để ngăn đôi đoạn đường đưa mọi trở lại chốn cũ.
Bình thản và hùng dũng như con voi chúa, ngài
lại ra đi cùng với chúng đệ tử của mình hướng về Pava. Xuyên
qua làng Amragama, làng Jambugama, làng Bhandagama và sau cùng ngài đến
làng Bhoga-nagara dừng lại ở khu vườn Cincapa nằm về hướng Bắc
của làng này. Vì muốn độ chúng sanh mà đức Phật thị hiện thân
sanh tử, vì muốn độ chúng sanh mà ngài thị hiện cảnh bệnh hoạn,
già nua và nhập diệt. Này A Nan, ta muốn dừng lại nghỉ một chốc nơi
đây vì ta đang cảm thấy mệt. Biết đức Thế tôn không được
khỏe và muốn nghỉ, cả đại chúng cùng nhau lo lắng và ngài A Nan run
sợ tìm chỗ trước sau cho ngài an nghỉ. Ôi! đức Thế tôn nếu có
mệnh hệ gì thì các đệ tử của người sẽ ra sao. Cả chúng sanh
trong cõi này sẽ mất đi ánh sáng và đêm đen của si ám vô minh
sẽ trùm khắp nhân loại.
Tuy nhiên sau một khoảng thời gian ngắn nghỉ lại
nơi đây, biết các hàng đệ tử đang lo lắng cho mình, đức Phật
nhẹ mỉm cười bảo ngài A Nan sửa soạn đi tiếp về Pava. Con đường
có còn xa đâu và dường như thôn xóm Pava đang ẩn hiện phía
trước đoàn người. Nhân duyên còn lại ở đời chẳng còn bao
lâu và ngài biết rõ điều ấy để giờ đây mỗi một lời ngài
dạy, mỗi bước chân ngài đi là mỗi một tấm lòng trìu mến mà
ngài muốn chia sớt cho các đệ tử của mình.
Buổi chiều ở Pava thật đẹp khi ánh thái dương
đang chìm dần từ một chân trời xa. Cả một không gian mênh mông
đỏ ửng hồng bởi những tia sáng còn sót lại từ ánh mặt trời
chiều tà chiếu lươn lướt lên những tà y vàng của một đoàn
người đang thầm lặng dõi theo bước chân của đấng Toàn giác. Chỉ
khi đặt chân đến thôn làng Pava nhỏ bé này mới thấy cái vĩ
đại của đoàn khất sĩ. Biết tin có tăng đoàn của đức Phật
đến thôn Pava, dân làng đủ mọi lớp người đổ ra xem kẻ đứng
đứng coi ngó chỉ trỏ người cúng kính lễ bái cúng dường và
trong số đó; một người thợ sắt già run run bước đến trước
Phật chậm rãi ôm bàn chân ngài rơi lệ đảnh lễ, xúc động mà
không thể nói lên được một câu.
Mãi lâu sau ông mới có thể thưa lên với
đức Phật như vầy: Bạch đức Thế tôn! ngài sắp nhập Niết
bàn, chúng con thấy buồn đau quá và thưa ngài tuy chúng con nghèo
cùng khốn khổ nhưng duyên gặp ngài khó được, cúng dường ngài
lại khó hơn nên mong ngài từ bi nhận lễ cúng dường trai phạn nơi
con ngày mai để con được những phước lộc ở kiếp vị lai. Ngửa
mong ngài xót thương nhận lãnh, cúng phẩm của con tuy kém mọn nhưng
cũng sẽ dâng lên ngài và chư tăng được dùng đầy đủ.
Này Chunda! Lành thay, lành thay ông nay phát tâm muốn cúng
dường Như Lai cùng tăng chúng và ta vì muốn ban sự hy hữu đến cho
ông mà nhận lãnh.
Chunda lúc ấy hoan hỷ vui mừng chưa từng có và lạy tạ lui ra.
Sau đó ông về nhà loan tin cho gia đình biết và chuẩn bị các món
ăn đặc biệt để ngày mai này dâng lên đức Phật cùng tăng
chúng. Ông đi hái các loại nấm ngon chưa từng có, loại cứng,
loại mềm đủ loại và ông cẩn thận làm suốt buổi chiều ngày hôm
ấy hầu kịp cho buổi lễ cúng dường vào trưa ngày hôm sau.
Trưa hôm sau đức Phật cùng tăng chúng đến
nhà ông Chunda để thọ thực. Bữa ăn được bày biện thịnh soạn
và tốt đẹp đầy đủ các loại nấm thơm, các mùi hương ngào
ngạt. Ngài cùng chúng tăng vì ông mà thọ sự cúng dường và sau
đó ra về.
Vì tâm đại từ bi muốn làm ruộng phước điền lớn cho Chunda
mà Thế tôn thọ nhận lễ cúng dường của ông tuy ngài biết rằng
bữa cơm mà ngài thọ kia sẽ là bữa cơm cuối cùng và ngài sẽ
sớm ra đi. Và cũng để an ủi Chunda rằng không phải do nơi thức ăn
ông cúng dường mà Thế tôn phải mang bệnh ra đi nên đức Phật
ân cần dặn dò ngài A Nan nói lại với ông Chunda rằng:
Này A Nan rất có thể sau này Chunda sẽ hối hận
vì nghĩ rằng đức Như Lai do thọ bữa cơm nơi ông mà nhập diệt.
Này A Nan cần phải đánh tan sự hối hận ấy của Chunda mà nói với
ông ta như vầy: Này Hiền giả, Thật là có công đức cho bạn vì
được Như Lai dùng bữa ăn cúng dường cuối cùng từ bạn. Này
hiền giả, tôi nghe đức Thế tôn dạy rằng: có hai vật thực cúng
dường đến Như Lai mà phước báu bằng nhau, có quả bằng nhau và
phước báu lớn hơn tất cả. Đó là vật thực cúng dường đến
Bồ tát ngay trước khi người chứng đạt đạo quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, và vật thực cúng dường đến bậc giác
ngộ trước khi người nhập Niết bàn. Hai vật thực cúng dường ấy
đem lại phước báu bằng nhau, quả bằng nhau và vô cùng quý báu
hơn tất cả các sự cúng dường khác. Do thiện nghiệp này mà
người phát tâm tịnh tín cúng dường sẽ được phước báu, sau khi
mất sẽ được tái sanh vào các cõi trời, vào cảnh vua chúa,
quyền quý cao sang, được nhiều may mắn và danh vọng.
Sau khi về đức Phật cảm thấy rất mệt và đau
đớn, và ngài đã nhập định chịu đựng cơn đau và dạy ngài dạy
A Nan trải một tấm y dưới một gốc cây cho ngài nghỉ. Này A Nan hãy
đi lấy cho ta một ít nước để uống, đức Phật bảo và lạ
thay là ngài A Nan ba lần thảy đều từ chối vì cho rằng nước vẫn
đục do nơi 500 cỗ xe vừa mới đi qua. Nhưng do thần lực của đức
Phật mà sau cùng khi ngài A Nan đến bên dòng suối để lấy nước,
ngài đã phải rất ngạc nhiên và hớn hở về bạch cùng đức
Phật như sau:
Bạch Thế tôn, thật là kỳ diệu và hy hữu. Bạch Thế tôn, con
sông nhỏ này đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục, vậy
mà khi con đến liền trở thành trong trẻo, sáng lạng và không vẫn
đục. Con kính xin thỉnh Thế tôn dùng nước.
Cùng trong ngày ấy đức Phật cùng tăng chúng đi đến làng
của bộ tộc người Malla cách đó không xa và an nghỉ trong khu rừng
Sala. Khu rừng rừng rộng lớn và đầy những cây Sala nở bông tỏa
hương thơm ngào ngạt. Chim muông ca hót vang rừng dầy những âm
điệu líu lo trầm bỗng như chào đón, như tán thán cúng dường
đến Phật. Chư thiên từ các cõi trời cũng đến hầu và chờ
đợi những bài giảng pháp cuối cùng nơi ngài. Không gian khi ấy
như ngưng đọng trầm lắng, chỉ còn lại tiếng kêu của chim muông thú
vật trong rừng.
Lúc bấy giờ trong làng Malla có một người
giàu có tên là Pushkasa nhân đi ngang qua đó thấy cảnh tượng của
khu rừng khác thường và phong cách siêu thoát của đức Phật nên
rất lấy làm lạ lùng, đến gần nơi ngài tìm hiểu và tỏ vẻ thán
phục về sự trầm lặng tôn nghiêm của ngài nên đảnh lễ và cung
kính ngồi sang một bên cầu được hầu chuyện với đức Phật.
Pushkasa là một đệ tử của Alara Kalama và thường hay tán thán
về các hạnh trầm tỉnh của thầy mình. Đi đâu ông cũng khen ngợi
thầy mình là có hạnh trầm tỉnh siêu xuất của một bậc thánh mà
không ai bì kịp. Thế nên nhân gặp đức Phật nơi đây ông cũng
muốn lại thưa chuyện và ca ngợi về hạnh trầm tĩnh của thầy mình.
Ông kể cho ngài nghe như sau:
Bạch Thế tôn, thầy con đạo sư Alara Kalama
một hôm trên đường đi ngồi nghỉ dưới một gốc cây thì lúc bấy
giờ có 500 cỗ xe đi ngang qua. Bạch Thế tôn, lúc ấy có một người
đi ngang qua thấy lạ bèn đến hỏi: Tôn giả có nghe tiếng không?
Thầy con đáp, này hiền giả ta không nghe tiếng. Tôn giả có thấy 500
cỗ xe đi ngang qua không? Này hiền giả ta không thấy. Có phải Tôn
giả đang ngủ không? Không phải ta đang ngủ đâu. Vậy tôn giả đang
thức tỉnh. Phải, này hiền giả ta đang thức tỉnh.
Bạch đức Thế tôn, đó có phải là sự kỳ
diệu hy hữu của thầy con chăng? Ngài ấy thật là có sự trầm
tỉnh, siêu xuất và hơn hết tất cả mọi người; ngài ấy là
người cao thượng, là bậc đáng được tôn kính bậc nhất.
Thấy Pushsaka có cơ duyên đức Phật bèn thuyết một bài pháp
về sự trầm tĩnh của người xuất gia để độ ông ta. Ngài nói:
Này Pushsaka như có người trong khi giác tỉnh, còn thức mà
không thấy 500 cỗ xe đi ngang qua, cũng không nghe tiếng thì điều ấy
khó hay như có người đang giác tỉnh, còn thức trong khi trời đang
mưa, mưa tầm tả ào ào, sấm chớp chói lòa vang động, điều nào
khó hơn.
Bạch Thế tôn, nói gì đến 500 cỗ xe mà cho đến
600, 700 hoặc 1000 cỗ xe cũng không thể sánh được người đang giác
tỉnh, còn thức khi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào, sấm chớp
chói lòa vang động. Điều này thật khó hơn.
Khi Pushsaka nói xong đức Phật liền kể cho ông nghe một chuyện,
có lần ta đang ngồi ở nơi một nhà đập lúa và lúc bấy giờ
trời mưa tầm tả ào ào, sấm sét vang động và có 2 anh em nông phu
cùng bốn con bò đực bị sét đánh chết. Tiếng la ó vang dậy và
mọi người dân làng bủa đi tìm hiểu vấn đề. Khi họ thấy ta đang
ngồi nơi nhà đập lúa thì liền hỏi: Này ngài Cồ Đàm, ngài có
thấy người nông phu và mấy con bò bị sét đánh chết chăng? Ta
đáp họ rằng, ta chẳng thấy. Ngài có nghe tiếng gì bên ngoài chăng?
Ta chẳng nghe. Vậy có phải ngài đang ngủ? Không ta chẳng phải ngủ.
Vậy ngài đang còn thức. Phải ta đang còn thức, đang giác tỉnh. Đó
Pushsaka, người dân làng nơi ấy biết đến ta như vậy và họ sau đó
truyền tụng, đảnh lễ và phát lòng tin nơi ta.Ạ
Nghe đức Phật kể xong Pushsaka phát tâm tịnh tín
và xin đức Phật cho phép ông được quy y, xin được làm đệ tử
từ nay cho đến khi thân hoại mạng chung. Sau đó Pushsaka đem đến cúng
dường ngài hai bộ y màu kim sắc, vàng chói.
Khi Pushsaka đi khỏi đức Thế tôn vì lòng thương xót đại chúng
nên mới dùng phương tiện chỉ bày sự hy hữu và điềm lạ nơi
ngài trước khi ngài xả bỏ báo thân và nhập diệt. Ngài dạy ngài
A Nan đắp chiếc y ấy lên mình ngài và lúc ấy do thần lực của
đức Phật nên khi y được đắp lên, thân ngài bỗng trở nên
rực sáng. Rất lấy làm ngạc nhiên ngài A Nan thưa rằng:
Bạch đức Thế tôn, Con đã hầu ngài trong hai
mươi năm mà chưa từng bao giờ thấy thân ngài có màu sắc sáng
chói, kỳ diệu như hôm nay. Đó là nhân duyên gì xin ngài giải thích
cho chúng con được rõ?
Nhơn đó đức Phật giải thích cho ngài A Nan và đại chúng nghe
rằng: này A Nan, có hai trường hợp mà màu da của đức Thế tôn
sáng chói, rực rỡ lạ thường. Đó là trong lúc Thế tôn sắp
đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và lúc Thế tôn sắp
nhập Niết bàn.Ạ
Tiếp đó đức Phật dạy ngài A Nan và
chúng Tỳ kheo rằng, chính vào cuối canh đêm nay nơi rừng Sala này, ta
sẽ diệt độ. Này A nan, hãy trải chỗ nằm cho ta, đầu hướng về
phương Bắc, giữa hai cây Sala. Ta đã mệt mõi lắm rồi và muốn
nghỉ. Nằm xuống trên chiếc võng giữa hai cây Sala, đức Phật
nằm nghĩ và khi ấy bỗng nhiên các loài hoa Sala rơi rụng rãi đầy
khắp trên thân ngài. Trên hư không lúc ấy cũng có các điềm lạ
xuất hiện; những mùi hương thơm ngào ngạt xông khắp khu rừng và
các loài hoa Chiên đàn, hoa Mạn đà la từ nơi không trung rơi xuống
trải đầy những màu sắc lộng lẫy phủ kín cả một khu rừng, nhạc
trời đâu đây cũng reo vang trổi dậy như cúng dường đức Thế
tôn lần sau cùng. Thật là điềm lạ hy hữu chưa từng có. Nhân dịp
này đức Phật dạy cho chư tăng như sau:
Này các Tỳ kheo, các cây Sala tự nhiên
trổ hoa trái, những hoa này rơi rụng, gieo rắc vơi vãi trên thân Như
Lai để cúng dường. Rồi các hoa trời Mạn đà la, hoa Chiên đàn,
các loại hương trầm, hương bột reo rắc rải trên thân Như Lai để
cúng dường. Các loại nhạc trời cũng réo rắc trên hư không vang
lên để cúng dường và dầu vậy này các Tỳ kheo, không phải như
vậy là tôn kính, sùng bái và làm vẻ vang Như Lai đâu. Bất luận
vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nào hay các thiện nam thiện nữ nào thực hành
đúng theo lời dạy, đúng theo giới pháp và trang nghiêm đời sống
của chính mình theo con đường chơn chánh, thì đó chính là người
tôn kính, sùng bái và làm vẻ vang Như Lai một cách cao thượng
nhất. Vậy nên này các chư Tỳ kheo, hãy gắng công tu tập, y theo
giới pháp và sống đời phạm hạnh.
Các thầy Tỳ kheo và hàng phật tử lúc ấy
vâng dạ lãnh thọ lời Phật dạy, tuy nhiên thấy đức Thế tôn đã
yếu đi nhiều và sắp sửa nhập diệt, ai nấy buồn thương sầu khóc
rơi lệ. Kinh Đại Bát Niết Bàn ghi lại rằng, chư thiên lúc ấy trên
các cõi trời cũng khóc than, đầu tóc bù rối, lăn lộn qua lại
và than lên rằng: Thế tôn nhập diệt quá sớm, con mắt pháp của
thế gian đã biết mất.
Các chim muông ngừng hót, cầm thú cũng sầu đau
quanh quẩn nơi xa mà nhòm ngó bi ai. Đức Phật, bậc thầy của trời
người nay sắp ra đi, tiếng kêu của ai đó vang vọng trong không gian
như muốn kêu gọi người đến đảnh lễ, chiêm ngưỡng ngài lần
cuối cùng. Thấy nghe cảnh tượng như vậy, ngài A Nan không khỏi buồn
thương ra đứng bên rừng buồn tủi khóc lóc thảm thiết. Đức
Phật thấy vậy mới kêu lại khuyên lơn:
Này A Nan! ngươi đã hầu hạ Như Lai bằng tất cả tình thương,
sự tôn kính và cả một tấm lòng, thì nay cớ chi lại buồn thương.
Ví như một vị vua có đủ bốn tánh chất cao quý, thì ngươi người
thị giả của ta cũng có đủ bốn tính chất cao quý đó. Đối với
Như Lai ngươi đã khéo săn sóc, tâm đầy lòng từ ái, an ổn và
lợi ích trong từng cử chỉ của thân, lời nói và ý nghĩ, như vậy
thật đáng khen thay, đáng tán thán thay. Ngươi đừng buồn và sầu
khóc nữa.
Lại nữa A nan, chớ có phiền muồn và khóc than.
Như Lai đã từng dạy rằng, tất cả chúng ta đều phải phân ly, cách
biệt và xa lìa những gì chúng ta quý mến và ưa thích nhất. Này A
Nan, con đã tạo nhiều phước báu, con sẽ sớm thanh lọc mọi ô
nhiễm.
Lúc bấy giờ có một ông già tên là Subhadda (Tu Bạt Đà La)
đã 120 tuổi tu theo ngoại đạo Ni Kiền Tử cũng nghe tin đồn là vào
đêm nay đức Cồ đàm sẽ nhập diệt nên nghĩ rằng:
Ta có nghe những vị thầy đứng tuổi và các
bậc trưởng lão nói rằng: thật hiếm hoi lắm, thật hy hữu lắm
mới có một đấng Thế tôn, đấng Toàn giác xuất hiện trên thế
gian này. Đêm nay vào canh chót đức Cồ Đàm sẽ nhập Vô dư Niết
bàn. Ta có một điều hoài nghi và ta tin tưởng nơi đức Cồ đàm.
Đức Cồ đàm sẽ giảng dạy giáo pháp và phá tan mối hoài nghi
của taÏ. Nghĩ như vậy xong ông Sudhadda đến nơi rừng Sa La để mong
gặp đức Phật, nhưng ba lần không được ngài A Nan cho vào vì ngài
sợ làm quấy nhiễu đức Thế tôn. Biết được cơ duyên đã chín
mùi cho người ngoại đạo Subhadda, nên đức Phật nói ngài A Nan cho
ông ta vào.
Trong dịp này đức Phật thuyết giảng cho ông Subhadda nghe về cái
vi diệu, tối thượng của pháp Bát chánh đạo và chỉ có pháp này
bậc Sa môn mới chứng được các quả thánh từ Dự lưu đến A La
Hán, bậc vô học thoát khỏi mọi khổ đau của kiếp luân hồi.
Nghe pháp xong Subhadda đắc được pháp nhãn và
đạt được tầng thánh cao nhất. Ông xin Phật xuất gia rồi sau đó
xin phép ngài nhập diệt vì không muốn đau lòng khi trông thấy đức
Phật nhập Niết Bàn. Sudhadda lần cuối cùng đứng trước Phật chiêm
ngưỡng tôn nhan của ngài rồi đầu mặt đảnh lễ chân Phật buồn
khóc rơi lệ bạch rằng:
Bạch đức Thế tôn, con vì vô minh tà kiến nên bị trôi đắm
mãi theo các giáo pháp của người ngoại đạo và nay nhờ được
duyên lành thọ ân ngài mà tâm được sáng tỏ, bước vào con
đường chơn chánh của giáo pháp. Trí tuệ của đức Thế tôn như
biển cả, lòng từ bi của ngài thật vô cùng. Con tự xét dầu
nhiều kiếp nát thân cũng chưa báo được ân đức này.
Bạch cùng đức Thế tôn xong, ông lại ngẹn
ngào khóc lóc và không nói thêm được một lời. Mãi một lúc
lâu ông mới kềm được cơn xúc động và cuối lễ Phật lần nữa
rồi đến một bên rừng ngồi ngay thẳng an lành mà diệt độ. Chúng
Tỳ kheo khi trông thấy toàn cảnh như vậy bỗng trở nên nức nở,
than khóc, người đấm ngực té xỉu xúc động, người ngã quỵ bất
tỉnh hôn mê. Tiếng ồn náo khóc than vang dội khắp cả một khu rừng.
Đức Phật trông thấy cảnh như vậy mới
ôn tồn bảo các chư Tỳ kheo rằng:
Này các Tỳ kheo, các ngươi đừng có buồn thương sầu đau như
những người phàm tình. Đừng để mất chánh niệm và hãy thường
giữ tâm thanh tịnh, mong cầu thoát ra khỏi luân hồi. Luân hồi là
cõi khổ vô cùng tận do vô minh sai sử tác động không ngừng. Vô
minh ấy là chủ, ân ái là ma vương sai khiến đày đọa thân tâm
này như tôi tớ. Cũng lại do tâm ấy duyên theo trần cảnh mà chúng
sanh tạo tác nghiệp sanh tử, niệm niệm tham sân si tự hại và trong
vô lượng kiếp họ phải chịu thọ lấy đầy các khổ não. Ai là
người có trí tuệ lại không xa lánh và nhờm gớm cảnh khổ sanh
tử này.
Lại này các Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ các ngươi nên lấy gì
mà làm thầy hướng đạo. Phải hiểu chính là giới pháp. Vì giới
là con thuyền lớn mang chở người qua khỏi biển khổ sanh tử; giới
pháp giống như một ngọn đèn sáng soi tỏ trong bóng đêm; giới như
của báu mang lại sự giàu có hy hữu cho người nghèo khó; Vì thế
các ngươi hãy nên tôn trọng giới pháp vì giới pháp còn là ta
còn chẳng khác. Lại này nữa các Tỳ kheo, tất cả các pháp hữu
vi đều vô thường, thế nên hãy tinh tấn tu hành sớm cầu giải
thoát.
Sau lời dạy trên đức Thế tôn liền nhập định
Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, ngài nhập Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, ngài
nhập Tam thiền. Xuất Tam thiền, ngài nhập Tứ thiền. Xuất Tứ thiền,
ngài nhập định Không vô biên xứ. Xuất Không vô biên xứ, ngài
nhập định Thức vô biên xứ. Xuất Thức vô biên xứ, ngài nhập
định Vô sở hữu xứ. Xuất Vô sở hữu xứ, ngài nhập định Phi
tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, ngài
nhập Diệt thọ tưởng định.
Kế đó đức Thế tôn lại xuất Diệt thọ tưởng định, ngài
nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, ngài nhập Vô sở hữu xứ định. Xuất Vô sở hữu xứ,
ngài nhập Thức vô biên xứ định. Xuất Thức vô biên xứ, ngài
nhập Không vô biên xứ định. Xuất Không vô biên xứ, ngài nhập
Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền,
ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, ngài nhập định Sơ thiền.
Xuất Sơ thiền, ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, ngài nhập
định Tam thiền. Xuất Tam thiền, ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ
thiền ngài liền diệt độÏ.
Lúc bấy giờ ngay khi đức Phật diệt độ, đất
đai chấn động khủng khiếp, sấm trời vang động ở mười phương.
Tất cả biển lớn đều dậy sóng lên cuồn cuộn đục ngầu. Giếng ao
sông rạch suối mương thảy đều nghiêng ngửa khô cạn. Khắp cả tam
giới đều vắng lặng tối tăm và ở cõi này lúc ấy trời đất
mờ tối, giông bão khởi lên gió thổi cát bay và cây cối ngã
đầy trên mặt đất. Chư thiên trên các cõi trời lúc ấy đồng
hiện xuống đầy cả hư không và rải trăm ngàn hoa hương trời để
cúng dường đức Như lai. Họ đồng thanh kêu to lên rằng: Khổ
thay, khổ thay! đức Phật đã nhập Niết bàn, thế gian này trống
rỗng, con mắt tuệ thế gian không còn nữa, các phiền não ma quái
giờ đây tràn khắp, những khổ đau rồi đây sẽ quay cuồng chẳng
dứt đoạnẠ.
Bên dưới các hàng đệ tử của đức Phật bốn chúng đồng
nhau buồn khóc rơi lệ. Họ có kẻ tỉnh người mê, kẻ đau đớn mất
trí người ngây dại ngất xỉu, lại có người thân tâm run rẩy
ngẹn ngào nước mắt tuôn rơi, có người đấm ngực kêu to có
người cào đầu bức tóc nằm lăn trên đất khóc than chưa từng
có. Các hàng Tỳ kheo đã đắc thánh quả thì liền ngay đó nhập
diệt theo Phật, người chưa đắc còn nhiều tham ái thì khóc than thảm
thiết, có vị té ngửa thân nằm nhoài trên đất lăn lộn qua lại:
Âi! Thế tôn sao nhập diệt quá sớm, Đấng Thiện thệ sao nhập diệt
quá sớm, pháp nhãn đã biến mất trên đời chẳng còn gì nữa.
Một số vị Tỳ kheo đã diệt trừ tham ái thì họ an trú trong
chánh niệm, tỉnh giác và nhẫn nại suy tư rằng: Các hành ở
thế gian là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?
Nghe theo lời chỉ dẫn của ngài A Nan, các người
trong bộ tộc Malla đã đem nhục thân đức Phật đến một nơi gần
đó để hỏa thiêu. Đầu tiên họ vấn tròn thân Thế tôn với một
loại vải mới, kế đến là một lớp vải gai bện và lại một lớp
vải mới, cho đến năm trăm lớp vải như vậy. Sau khi quấn các loại
vải xong, họ đặt thân Như Lai vào trong một hòm dầu bằng sắt, đậy
hòm sắt này vào một hòm sắt khác rồi đặt chiếc hòm sắt ấy
trên một giàn hỏa gồm các loại cây hương thơm.
Tuy mọi sự đã sẳn sàng nhưng kỳ lạ thay khi họ bắt đầu
phóng hỏa lửa lại không bắt cháy và mọi người đều âu sầu
chẳng rõ duyên cớ. Nhưng đột nhiên có âm vang đâu đó lồng
lộng khắp cả không gian. Này các người kia, các ngưoi không
thể đốt cháy được nhục thân của Như lai đâu dầu là một ngàn,
một trăm ngàn bó đuốc. Hãy chờ đợi ngài Ma Ha Ca Diếp trở về
đảnh lễ Phật lần cuối. Thì ra đó là tiếng của vua trời Đế
Thích, người cũng thị hiện xuống nơi này để đảnh lễ nhục thân
đức Phật và chiêm ngưỡng lần cuối lễ hỏa táng của ngài.
Trong khi ấy ngài Ca Diếp đang ở tại núi Kỳ Xà
Quật, cùng các chúng Tỳ kheo nhập định và bỗng nhiên ngài thấy
thân thể rún động, tim đập mạnh, bên ngoài núi rừng cây cối
đều chấn động nên biết rằng đức Như lai đã nhập diệt. Thật
khổ thay, khổ thay, này các thầy Tỳ kheo chúng ta phải mau đến nơi
đức Như lai mới có thể kịp trông thấy sắc thân chơn tịnh của
ngài. Hãy đi mau, đi mau.
Ngay hôm đó ngài cùng chúng Tỳ kheo đi bộ chẳng ngừng nghỉ
hướng về thành Câu Thi Na. Trải qua bảy ngày đêm ngài mới đến
được nơi này và khi dừng chân tại bên ngoài rừng ngài đã nghe
thấy tiếng kêu khóc của bốn chúng đệ tử đức Phật và vua quan
dân làng bộ tộc Malla. Khi thấy ngài đến, ai ai cũng nhường chỗ cho
vào và ngài Ca Diếp dẫn đồ chúng đi vòng quanh kim quan của đức
Phật mà đảnh lễ than thở khóc lóc, tủi phận không thể trông
thấy được thân của đức Như lai lần cuối cùng.
Lúc ấy do lòng từ bi vô lượng của đức
Phật, phép lạ xuất hiện khi nắp của kim quan ngài tự nhiên mở ra
hiển bày trọn vẹn sắc thân ba mươi hai tướng tốt và tám mươi
vẻ đẹp của đức Như Lai. Ngay khi thấy cảnh này, các thầy Tỳ kheo
đồng khóc than, nghẹn ngào, có vị ngất xỉu té xuống đất; sau một
hồi các ngài dùng các loại hoa hương rải lên thân Phật cúng
dường rồi đảnh lễ mà lui. Nắp kim quan khi ấy liền tự đóng lại.
Buổi trà tì lại bắt đầu với bốn người
lực sĩ trang sức nghiêm thân tay cầm những bó đuốc lớn đến
bên dàn hỏa để đốt nhưng cả thảy đều bị tắt. Rồi một đám
đông lực sĩ đem những bó đuốc lớn để đốt nhưng cũng đều
không thể đốt được. Họ lại buồn rầu ngơ ngác và chẳng hiểu
duyên cớ gì. Lúc bấy giờ ngài Ca Diếp bèn nói to cho đại chúng
hay rằng, kim quan của đức Phật chẳng thể dùng lửa thường mà
đốt cháy được và dù có lửa trời cũng chẳng thể chạm vào
được. Chỉ có sức thần của đức Như lai mới có thể tự đốt
được.
Lời ngài vừa xong thì lúc ấy do thần lực của đức Thế
tôn, từ nơi ngực ngài một ngọn lửa phóng ra thiêu đốt cả kim
quan, cháy sáng cả một vùng rộng lớn và ánh lửa ấy cháy mãi
đến bảy ngày mới tàn rụi. Khi lửa vừa cháy lên bốn chúng đệ
tử của đức Phật cùng nhân dân trong thành cũng buồn than khóc
lóc trọn bảy ngày không dứt, tiếng vang ra tận những phương xa và
người người đều đến đây chiêm bái đảnh lễ và cúng dường.
Khi nhục thân đức Phật bốc cháy, thì từ bên
da ngoài da thịt mỏng cho đến bên trong gân cốt khớp xương thảy
đều cháy sạch, các tro tàn và than cũng chẳng còn lại, chỉ có
xương Xá lợi nhiều màu sắc sáng chói là còn lại.
Khi buổi trà tì vừa xong thì lúc bấy giờ lại có điềm lạ
xuất hiện. Từ nơi hư không bỗng nhiên có một dòng nước tuôn
xuống dập tắt giàn hỏa Thế tôn, và bên dưới dất cũng có một
giòng nước phun lên tưới tắt những vật còn cháy dở xung quanh.
Những người dân làng thuộc bộ tộc Malla ở Câu Thi Na cũng phụ
mang các loại nước thơm đến để dập tắt giàn hỏa Thế tôn.
Sau lễ hỏa thiêu, để tránh sự xung đột của
tám vương quốc lân cận trong việc tranh dành Xá lợi của đức
Phật, dân làng người Malla thu nhặt những Xá lợi đức Phật và
đem chia đều cho 8 vương quốc ấy. Ai nấy đều hoan hỷ đem về và xây
tháp cúng dường.
Câu thi na, theo
dấu người xưa
Vào thời Phật còn tại thế Câu Thi Na là
một thị trấn nhỏ bé, nơi có ít dân cư sinh sống và đa phần thuộc
bộ tộc Malla. Tuy nhiên đây là một giống dân hiền lành và tin mộ
đạo. Các người trong bộ tộc này hoặc tin theo các thầy thuộc Bà
la môn giáo hoặc tin theo Phật giáo mà lúc bấy giờ khi nghe tin đức
Phật sắp nhập diệt, họ kéo nhau đi đến chiêm bái, đảnh lễ và
khóc than sầu não.
Tuy nhiên theo lời đức Phật Thích ca kể cho ngài A Nan thì trong
vô số kiếp về trước Câu Thi Na này từng là kinh đô của nước
Kusavati dưới sự trị vì của vua Mahasudassana (vua Đại Thiện Kiến). Kinh
đô lúc ấy phía Bắc rộng đến mười hai do tuần và phía nam rộng
đến bảy do tuần, dân cư sống đông đúc và phồn thịnh; người
dân sống sung mãn và thực phẩm phong phú. Trong hàm ý nói lên sự
thịnh vượng giàu có của thành phố này, đức Phật đề cập đến
những sinh hoạt tại đây qua các âm thanh của chín loại tiếng:
Này A Nan, tại kinh đô này ngày đêm vang dậy chín loại tiếng,
tức là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trống lớn, tiếng
trống nhỏ, tiếng Tỳ bà, tiếng hát, tiếng xập xỏa, tiếng chuông.
Đức Phật một con người rất bình dị nên sự
ra đi của ngài cũng mang tính chất bình dị như cuộc đời của ngài.
Tuy nhiên sự ra đi và nơi chốn ra đi của ngài không phải là không
mang một ý nghĩa to lớn qua lời giảng cho ngài A Nan nghe về nguồn
gốc của Câu Thi Na, một nơi mà ngài A Nan coi thường vì tánh cách
nhỏ bé, nghèo nàn xa lánh phố thị của nơi này.
Sau khi đức Phật nhập diệt chẳng bao lâu thì vùng đất Câu Thi
Na thuộc bộ tộc Malla bị sát nhập vào vương quốc Ma Kiệt Đà và sau
đó đến thời đại vua A Dục thế kỷ thứ III trước Tl thì Câu Thi
Na đã thành một phần của một vương quốc rộng lớn do vua A Dục
thống lãnh.
Sau khi quay trở về với Phật giáo vua A Dục
cũng đến viếng Câu Thi Na trong một lượt chiêm bái các thánh tích
của đức Phật. Đến Câu Thi Na vua cũng cho xây các trụ đá và
những ngôi tháp để đánh dấu và tưởng niệm đến đức Phật.
Trải qua mấy thế kỷ sau và đến thời ngài Pháp Hiển, một cao
tăng Trung Hoa sang chiêm bái các thánh tích tại đây vào khoảng
thời gian giữa năm 399 và năm 414 sau Tl, thì ngài có ghi nhận về
Câu Thi Na với nhiều tháp, tự viện và lúc bấy giờ nơi đây đang
là một trung tâm tu học phồn thịnh. Trong các triều đại Gupta, Phật
giáo lại càng phát triển mạnh và các ngành về nghệ thuật, mỹ
thuật Phật giáo cũng đã đạt đến điểm cao nhất trong thời gian
này.
Đến triều đại Kumargupta (413-455), có nhà nghệ
thuật gia tên là Haribhadra tạc một bức tượng Phật theo tư thế
nhập Niết bàn rất tuyệt đẹp và sau khi tạc xong ông ta đã cho an vị
vào ngôi chùa Đại Niết Bàn, ông ta cũng cho trùng tu một số các
tháp và chùa viện tại đây. Bức tượng độc đáo của nhà nghệ
thuật gia Haribhadra sau một thời gian dài đã bị tan vở và vùi lấp
đuới đống gạch vụn nhưng ngày nay qua các cuộc khai quật người ta
đã tìm thấy được và ráp lại, cũng như đưa trở về vị trí cũ
trong ngôi chùa Đại Niết Bàn.
Vào khoảng năm 620-644, tức là thời ngài Huyền
Trang đến Ấn Độ và thăm viếng Câu Thi Na thì lúc bấy giờ nơi
đây đã điêu tàn và gần như hoang phế. Ngài đề cập đến Câu
Thi Na này một cách khá chi tiết như sau:
Thủ đô của nước này đã bị tàn phá và các làng xóm bị
bỏ rơi trong hoang tàn đổ nát. Những nền móng gạch của dãy
tường thành thủ đô xưa kia có chu vi rộng khoảng 10 lý. Có ít dân
cư sống ở đây và những con đường phố bị hư nát. Về hướng
đông bắc của cổng thành phố có một trụ đá do vua A Dục cho xây
dựng. Đây là nơi ngôi nhà xưa của người thợ sắt Chunda. Giữa
khu vực này có một giếng nước được đào vào thời gian ông ta
cúng dường đến đức Phật. Mặc dù giếng nước này đã trải qua
nhiều năm tháng, nước nơi ấy vẫn còn rất trong và ngọt.
Về phía tây bắc của thành phố khoảng ba hoặc
bốn dặm, ngang qua dòng sông Ajitavati, không xa từ mạn tây ngạn dòng
sông này, chúng tôi (ngài Huyền Trang) đến khu rừng Sala. Cây Sala
hơi giống cây Huh với vỏ cây màu lục nhạt và những chiếc lá
có màu sắc sáng loáng và mịn. Nơi đây có bốn
thân cây với chiều cao lạ thường, đánh dấu nơi đức Phật đã
nhập diệt.
Nơi đây có một ngôi tịnh xá bằng gạch to lớn, trong có một
hình tượng Phật mang hình dạng nhập Niết bàn. Ngài nằm trong tư thế
đầu hướng về phương bắc. Cạnh bên tịnh xá này có một trụ
đá do vua A Dục xây dựng và mặc dù trong
tình trạng sập đổ nó vẫn còn có chiều cao là 200 feet. Trước đó
là một trụ đá ghi khắc những dữ kiện về sự nhập diệt của
đức Phật. Mặc dù các ghi chú còn đó nhưng người ta không thấy
đề cập ngày, năm hoặc tháng.
Đây đó quanh Câu Thi Na cũng có bao nhiêu là
đền tháp đánh dấu nhưng sự tích xa xưa thời đức Phật cũng như
những kiếp sống hành hạnh Bồ tát trong quá khứ của ngài. Đây
là tháp đánh dấu trong tiền kiếp Bồ tát đã mang thân chim và khi
thấy khu rừng ấy đang bị hỏa tai, chim đã bay đến dòng suối gần
bên để lấy nước và rẩy lên đám cháy mong dập tắt để cứu
sống sinh mạng cho nhiều muông thú.
Kia là tháp đánh dấu nơi Bồ tát mang thân nai hy sinh mạng sống
của mình ngăn chận một dòng suối để cứu thoát những sinh vật
đang bị chết đuối nơi ấy. Rồi những ngôi tháp khác đánh dấu nơi
nhập diệt của Subhadda (Tu Bạt Đà La), người đệ tử 120 tuổi xuất
gia lần cuối cùng với đức Phật, đã đắc quả A La Hán và nhập
diệt trước ngài. Cạnh bên tháp này là một tháp khác đánh dấu
nơi ngài Kim Cang Thủ ngã xuống ngất xỉu trên mặt đất khi trông
thấy đức Phật nhập Niết bàn.
Từ thời đại của ngài Huyền Trang trở đi thì
tại Câu Thi Na những ảnh hưởng tôn giáo càng mất dần hơn. Vua
chúa không còn ủng hộ và nơi này trở thành nơi hoang vắng như
thuở nào. Các sử liệu gần như không đề cập gì đến nơi này
kể từ thế kỷ thứ VII đến XII. Phải chăng do vì địa thế quá xa
xôi và hẻo lánh mà trong những thời gian sau đó Phật giáo đã
không đủ sức phát triển và hoạt động mạnh tại nơi này.
Tuy nhiên Câu Thi Na thật sự rơi vào quên lãng từ sau thế kỷ
thứ XIII do vì chiến tranh loạn lạc khắp nơi xảy ra tại Ấn Độ lúc
bấy giờ và cũng do vì người Hồi giáo đã chẳng nhân nhượng
trong các công việc đập phá hầu hết các thánh tích Phật giáo tại
Ấn Độ vào thời điểm ấy. Sơ lược qua các thời điểm tang
thương và đen tối nhất cho Phật giáo tại các thánh tích thường
là khoảng giữa thế kỷ XII và XIII, khi quân đội Hồi giáo từ các
nước Trung đông tràn xuống đánh chiếm và vơ vét của cải ở
khắp Ấn Độ. Mãi đến thế kỷ thứ XIX, tính cách lịch sử của
Câu Thi Na mới được tình cờ khai phá do nhà khảo cổ Wilson (1854)
và một vài năm sau đó các cuộc nghiên cứu, khai quật có tính
cách khảo cổ mới được chính thức thực hiện do nhà khảo cổ
học Cunningham và người phụ tá của ông là Carlleyle. Trong các cuộc
khai quật này người ta tìm thấy một mô gạch rất lớn chung nền
với một ngôi chùa và nền này có độ dày khoảng 7 feet; ngôi
chùa từng được xây dựng trên nền này có lẽ được xây
dựng giữa thế kỷ XI và XII trên nền một ngôi chùa xưa hơn và
có lẽ đây là ngôi chùa nguyên thủy. Những sự kiện này chứng
tỏ rằng địa điểm nơi đây đã bị đốt cháy và cướp phá đến
khoảng thế kỷ XIII.
Dựa vào những lời miêu tả của ngài
Huyền Trang trong tập Tây Du Ký, các cuộc khai quật đã tìm ra thêm
nhiều các nền móng tự viện, tịnh xá và những tháp thờ.
Cunningham cũng tìm thấy một pho tượng Phật nhập Niết bàn nằm bể
nát bên trong một mô gạch cao. Mặc dầu bị vỡ khi được tìm thấy
nhưng sau đó người ta đã cho phục hồi lại pho tượng. Pho tượng
nguyên thủy này xưa kia dài 6m và hiện nay cũng được đặt lại y
nơi vị trí xưa của nó, đầu hướng về hướng bắc theo tư thế
đức Phật khi nhập Niết bàn.
Đầu thế kỷ XX vào khoảng giữa các năm
1904-1907 và 1910-1912, các cuộc khảo cứu khác được thực hiện
bởi nhà khảo cổ Vogell đã minh định thêm các di tích Phật giáo ở
ngôi làng Câu Thi Na này. Năm 1956 công cuộc tái thiết ngôi chùa
Niết Bàn được hoàn thành và kiến trúc ấy ngày nay vẫn hiện
hữu với mái hình vòm, có các cửa sổ lớn thông ra bốn bên và
sau ngôi chùa này là ngôi tháp Đại Niết Bàn to lớn hùng vĩ.
Hiện nay nơi chốn này đã được các nhà nghiên cứu, các
người phật tử ở nhiều nơi trên thế giới thừa nhận như là
một trong bốn nơi chốn linh thiêng và quan trọng nhất trong các thánh
tích Phật giáo tại Ấn Độ.
Câu Thi Na ngày nay cũng là một ngôi làng bé nhỏ nằm cách
phố Kasia khoảng 3,2 km về hướng tây nam và cách Gorakhpur thị trấn
lớn gần nhất là 52 km. Khu vực này tọa lạc trong tiểu bang Uttar
Pradesh thuộc miền đông bắc Ấn Độ.
Những di tích lịch
sử
Đại tháp chính:
Có chiều cao là 45,72m tọa lạc ngay phía sau chùa Niết Bàn. Đại tháp
này có cùng chung nền với chùa Niết bàn với độ cao 2,74m từ
mặt đất. Trong các cuộc khai quật trước đó, người ta đã tìm ra
tàn tích của ngôi tháp này và tháp bắt đầu được trùng tu lại
vào năm 1927 do sự đóng góp cúng dường của Miến Điện. Lần
trùng tu sau cùng là vào năm 1972 cũng do sự đóng góp cúng dường
của các phật tử Miến Điện.
Chùa Niết bàn: Được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1876 do nhà
khảo cổ học Carlleyle. Theo sự nghiên cứu cho biết thì nền móng
ngôi chùa được tìm thấy có thể không phải là nền móng nguyên
thủy như ngài Huyền Trang đã miêu tả trong tập sách Tây Du Ký, mà
nền móng này có thể là nền móng thứ hai được xây dựng trên
nền cũ vào khoảng thế kỷ XI-XII sau Tl.
Trong cuộc đào xới năm đó người ta tìm thấy
một pho tượng Phật bị bể theo tư thế nhập Niết bàn, sau này
người ta đem ráp lại và đặt nguyên lại vị trí cũ.
Tượng được biết là làm vào thời đại Gupta, khoảng giữa
năm 415 và 456 sau Tl, do một vị tăng tên là Haribhadra. Ngày nay tượng
được đặt nằm theo vị trí cũ trong ngôi chùa Đại Niết Bàn này.
Tượng Phật nhập diệt dài khoảng 6m, và trên thân ngài thường
được choàng lên các tấm y do các phật tử cúng dường. Nơi lòng
bàn tay ngài và chân ngài đều có những nét biểu hiện tướng
tốt và vẻ đẹp nơi ngài.
Cuộc khai quật gần đây nhất vào năm 1976 đã tìm ra nhiều mảnh
xương, mẫu than, cũi và những miếng sọ người cho thấy nơi này bị
người Hồi giáo đốt phá nhiều lần trước khi vùng này hoàn toàn
rơi hẳn vào quên lãng trong 6 thế kỷ sau đó.
Năm 1956 một cuộc trùng tu đại quy mô ngôi chùa này và kiến
trúc ngôi chùa Niết bàn hiện nay là bắt đầu từ năm ấy.
Đường đi kinh hành trước đây chỉ rộng độ 0.60 m nay đã được
mở rộng ra thêm nhiều.
Tháp hỏa thiêu:
Hơn một km về hướng Bắc của ngôi chùa Đại Niết Bàn là nơi hỏa
thiêu nhục thân của đức Phật khi xưa. Nơi đây được đánh dấu
bằng một ngôi tháp to lớn nhưng trải qua thời gian ngày nay chỉ còn
lại một mô gạch vĩ đại tọa lạc giữa một công viên có vườn
hoa xinh đẹp được bảo quản và coi ngó cẩn thận. Nơi này cũng
được chính phủ Ấn Độ quan tâm và xếp vào hạng những di tích
lịch sử quốc gia.
Theo như đường kính của ngôi tháp này người ta có thể ước
tính nó lớn gấp đôi ngôi chùa Niết bàn. Xung quanh mô tháp này
cũng có một số các nền móng chùa viện hoặc tháp.
Khu vực khảo cổ:
Chung quanh đại tháp và ngôi chùa Đại Niết Bàn là một khu vực
khảo cổ rộng lớn gồm rất nhiều nền móng của các tự viện và
đền tháp khi xưa. Đa phần các nền móng của chùa tháp này được
biết có từ khoảng thế kỷ thứ I sau Tl, và cũng trong các cuộc khai
quật này người ta tìm thấy nhiều đồng tiền, các mẫu đá điêu
khắc nghệ thuật ghi dẫn những sự tích và sự nhập diệt của
đức Phật tại Câu Thi Na này. Một số những nền tháp nhỏ khác
thì được ghi nhận là do sự kiến tạo của những người hành
hương đến đây chiêm bái và cho xây cất để cúng dường và
tưởng niệm đức Phật. Nhìn chung các di tích này đã một thời
đánh dấu những hoạt động Phật giáo tại nơi đây cho đến khoảng
thế kỷ thứ XI.
Nền Matha-Kuar:
Trên con đường chính ngay ngả rẻ đi về hướng tháp nơi hỏa thiêu
nhục thân đức Phật là một khu vực khảo cổ khác, nơi được ghi
nhận là một đền thờ kỷ niệm thái tử mất tại đây.
Đối với người phật tử và chư tăng thì đức Phật là một bậc
thầy vĩ đại và đã nhập Niết bàn tại đây, nhưng có lẽ đối
với dòng họ Thích thì ngài vẫn được xem là một thái tử thuộc
dòng họ Thích, nên để kỷ niệm sự ra đi của ngài dòng họ hoàng
tộc đã cho lập đền thờ tại đây và mang một tên đặc biệt
(thái tử mất) trên là vậy. Trong ngôi đền thờ này người ta
còn tìm thấy một pho tượng Phật cao 3.05m trong tư thế xúc địa
ấn. Mặt ngoài pho tượng có những ghi chú mà người ta tin
rằng tượng này được làm vào khoảng thế kỷ X hay XI sau Tl. Khi
tượng được tìm thấy thì lúc ấy tượng đã bị vỡ ra hai mảnh
nhưng ngày nay tượng đã được ráp lại và đưa về vị trí cũ
trong ngôi đền.
Viện bảo tàng:
Tọa lạc phía bên trái trên con đường trở về từ tháp hỏa
thiêu. Nơi viện bảo tàng này cũng sưu tập được rất nhiều các di
tích Phật giáo qua các hình tượng, mẫu vật bằng đất, đồng từ
nhiều triều đại khác nhau vào khoảng thời gian trước và sau Tl.
Chùa Phật giáo
quanh vùng.
Chùa Linh Sơn:
Đầu tiên có thể kể về chùa này vì ít nhiều ngôi chùa này cũng
dính liền với người Việt của chúng ta. Chùa này nguyên trước kia
thuợc về người Hoa có tên là Song Lâm tự, được những người
phật tử người Hoa cúng dường xây cất vào năm 1948-1950. Tuy nhiên
vào thời gian gần đây khi vị Ni sư viên tịch, chùa này được bàn
giao lại cho H.T Huyền Vi, viện chủ chùa Linh Sơn Pháp quốc. Cách đây
ba năm H.T có cử sư cô Trí Thuận sang đây điều hành và lo các
công việc Phật sự. Qua sự năng động và khéo léo của cô mà
giờ đây ngôi chùa đã được trùng tu và tái tạo lại rất tốt
đẹp. Một dãy khách xá mới hai tầng đầy đủ tiện nghi cũng vừa
được hoàn thành trong năm qua, mang lại một nơi chốn trú ngụ tốt
đẹp cho người phật tử Việt Nam mỗi khi họ có dịp hành hương
đến Câu Thi Na này.
Chùa Miến Điện:
Tọa lạc sát bên chùa Linh Sơn với một khu đất thật rộng lớn.
Chùa được xây cất vào khoảng năm 1945 bởi những người phật
tử Miến Điện. Hiện chùa cũng đang có những dự án xây cất và
mở rộng thêm các hoạt động sinh hoạt phật giáo tại đây.
Chùa Nhật:
Nằm trên đường đi đến tháp hỏa thiêu nhục thân đức Phật.
Chùa này là một kiến trúc hài hòa giữa Tích Lan và Nhật Bản
với ngôi chánh điện được xây theo hình vòm tròn, có lẽ lấy
kiểu từ tháp đại Niết bàn. Trong chánh điện có một tượng Phật
Nhật bản và hai bên là các bức tranh Phật, Bồ tát được họa
theo lối Nhật.
Chùa Tây Tạng: Gần bên chùa đại Niết Bàn và
đường cái hướng về tháp hỏa thiêu nhục thân Phật. Chùa không
lớn lắm và kiến trúc khá đơn giản. Nhiều dãy tăng phòng được
xây tại đây nhằm đáp ứng nơi ở cho chư tăng Tây Tạng đến
đây vào mỗi dịp hành hương.
Để đến Câu Thi
Na.
Máy bay.
Trước đây khi muốn đến Câu Thi Na thì người ta phải đáp máy bay
đến Gorakhpur, thành phố gần nhất. Nhưng theo tin chúng tôi được
biết thì trong năm nay 96, sẽ có đường bay trực tiếp đến Câu Thi
Na. Thời gian và chuyến bay chi tiết xin liên lạc với các văn phòng
du lịch.
Xe lửa.
Xe lửa cũng chỉ đến Gorakhpur và tại đây du khách có thể đón
tiếp xe buýt hoặc taxi để đi tiếp đến Câu Thi Na.
Xe buýt.
Khách hành hương có thể đi xe buýt trong hầu hết mọi tuyết đường
ở Ấn Độ. Tuy nhiên đây là một vấn đề tốn rất nhiều thời
gian và năng lực. Riêng Câu Thi Na người ta cũng có thể đến đây
bằng xe buýt từ ngã Ba La Nại (Varanasi) đến Gorakhpur và từ đây
phương tiện tốt và tiện lợi hơn hết là thuê Taxi từ Gorakhpur đi
Câu Thi Na (52km) với giá từ 400-500 Rs trở lại.
Ngủ lại đâu?
Ngủ lại Chùa.
Tại Câu Thi Na không có nhiều
khách sạn như các nơi mà chỉ có các chùa với các phòng ốc cho
khách hành hương thuê. Hầu hết các chùa như: Chùa Miến Điện,
chùa Tây Tạng, chùa Linh Sơn.v.v... đều có phòng cho thuê, riêng
chùa Việt thì chắc mọi người cũng biết là Tùy hỷ cúng
dường. Theo thiển ý của chúng tôi thì nơi trú ngụ tốt nhất
cho khách hành hương tại Câu Thi Na này là chùa Linh Sơn, hiện nay do
sư cô Trí Thuận trụ trì. Nơi đây hiện đã hoàn tất một dãy
khách xá gồm hai tầng, rất tiện nghi, sạch sẽ và phải nói là hơn
hẳn các khách sạn Ấn Độ.
|
Mục
Lục
||
Chương
tiếp
theo
|
---o0o---
| Thư
Mục Tác Giả |
Cập nhật ngày : 01-01-2002