Vọng cố nhân lầu
Thích
Như Điển
Lời mở đầu
▲
Hôm nay là ngày 25
tháng 12 năm 1999, là ngày lễ Giáng Sinh của Âu Mỹ. Ngồi tại thư phòng
chùa Khuông Việt - Na-Uy, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 28 trong đời
mình và là tác phẩm thứ hai viết về chuyến hành hương Trung Quốc từ ngày
2.10 đến 21.10 năm 1999 vừa qua.
Kể ra thì chuyến đi
đã kết thúc hơn 2 tháng rồi; nhưng 2 tháng ấy ở tại chùa Viên Giác -
Hannover có bao nhiêu chuyện để phải làm. Do vậy mà tác phẩm nầy được bắt
đầu viết tại Na-Uy trong khóa tu học mùa Đông của Tăng Ni Âu Châu và mọi
người đã vân tập về chùa Khuông Việt nầy.
Trời mùa Đông Na-Uy
đã 10 giờ sáng rồi mà bầu trời vẫn mờ mịt tuyết giăng, mây kéo. Nếu không
có ánh điện đường và điện trong phòng thì người ta cũng nghĩ rằng đêm cũng
như ngày chứ không có điều gì khác lạ. Tất cả đều trụi lá, chỉ còn những
cây tùng xanh vẫn còn đang đứng đó để chịu đựng với gió buốt mà thôi.
Tổ Qui Sơn trong
phần Cảnh Sách há đã chẳng nói sao: Đời người xưa sự tu học của chư vị Tổ
Sư vững vàng như thân của cây tùng cây bách. Còn người đời nay chúng ta
không có được những chí hướng như vậy thì hãy làm những dây leo, tùng cao
đến đâu thì dây leo cứ bám chặt vào đó mà vươn lên vậy. Chỉ đơn giản thế
thôi cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ và thực hiện suốt cả một cuộc đời
rồi.
Ngày mai 26.12.99 là
ngày húy kỵ Thượng Tọa Thích Quán Không, người đã khai sơn phá thạch chùa
nầy và cũng là người đã tạo nên chứ không thọ hưởng gì cả. Vì chùa xây gần
xong thì Thầy lại ra đi. Ôi! đời là một cõi tạm, có đó rồi mất đó. Đâu có
gì vĩnh cửu ngoại trừ chân lý tối thượng của Đấng Toàn Giác đã dạy cho
chúng ta tự ngàn xưa.
Tôi bây giờ cũng đã
quá cái tuổi ngũ tuần rồi. Cái tuổi mà phải tri thiên mệnh, cái tuổi mà
phải biết mình nhiều hơn biết người. Cái tuổi phải mang kính cận. Cái tuổi
phải đi Nha-sĩ và Bác-sĩ nhiều hơn cái tuổi 40. Ở vào lứa tuổi nầy người
ta thường cảm nhận gần gũi với sự chết nhiều hơn là sự sống; nên mỗi người
trong chúng ta phải tự tạo một con đường, để rồi một ngày nào đó có nhắm
mắt xuôi tay cũng không còn gì để hối hận nữa.
Nhìn ra phía bên
ngoài cửa sổ, tuyết vẫn vần vũ rơi, như bám chặt vào nhau, như xen kẽ vào
nhau. Hình như những vật vô tình như thế cũng có một sự sống. Mùa Giáng
Sinh nơi đây buồn tẻ. Mọi người đều sống trong phạm vi gia đình và đặc
biệt người Na-Uy, nhà của người nào, mặt chính vẫn xây vào phía bên trong,
chứ ít có nhà nào xây mặt chính ra ngoài đường cái lớn, ngoại trừ những
cửa tiệm. Họ xây lưng lại với thế giới, xây lưng lại với những người chung
quanh. Đây cũng là nét văn hóa đặc thù của những người sanh ra và lớn lên
tại xứ băng tuyết nầy.
Cả một xứ Na-Uy rộng
hơn nước Việt Nam, có tài sản thiên nhiên như điện lực, dầu mỏ, khoáng sản
như thế mà chỉ có gần 5 triệu dân và có gần 15.000 người Việt Nam sinh
sống tại nơi đây. Quả thật mọi người đang hưởng một bầu trời quang đãng,
không có sự ô nhiễm môi trường và không có ai chung quanh đây đòi hỏi về
vấn đề phải cải thiện cuộc sống cả.
Không biết tại những
giáo đường lớn người ta có tổ chức gì không? chứ chung quanh đây im lặng
như tờ. Trong khi đó, nếu ở Á Châu cũng trong giờ phút nầy, người ta đang
chạy đua xe gắn máy. Mọi người đang tràn ra ngoài đường để cuộn vào dòng
người mà vui lây với cái vui của ngày Giáng Sinh nầy. Ở Phi Luật Tân dĩ
nhiên là họ đón Giáng Sinh lớn. Vì nước nầy đa phần theo Thiên Chúa Giáo,
trong khi đó tại Nhật Bản chỉ có 0,01% là tín đồ của đạo nầy; nhưng ngày
Giáng Sinh có không biết bao nhiêu thứ bánh ngọt bày bán khắp nước, để
mừng ngày Giáng Sinh chỉ nằm trong ý nghĩa thương mại mà thôi.
Tôi sống tại Âu Châu
nầy; nhưng cũng ít nhiều đã hành xử theo lối Nhật trong cuộc sống. Nghĩa
là những gì cần cù nhẫn nại, siêng năng, chăm chỉ thì học theo và ứng dụng
vào cuộc sống tu học của mình. Cái gì quá cực đoan, lập dị thì đãi lọc đi,
để tâm mình khỏi bị phiền não trói chặt vào.
Kỳ nầy sang Na-Uy có
ông Giáo sư người Nhật tên là Harada cũng cùng đi với tôi để tham gia
những thời công phu sáng và công phu chiều bằng tiếng Việt. Năm rồi ông ta
đã đi hành hương Ấn Độ với phái đoàn từ Âu Châu sang chiêm bái Phật tích
và năm nay thì đi Bắc Âu. Ông ta sinh ra trong một gia đình giàu có tại
Nhật. Có tín tâm đối với ba ngôi Tam Bảo. Ông bà nội theo Phật Giáo thuộc
Tịnh Độ Chơn Tông. Đến đời cha mẹ của ông tu theo Mật Giáo và hiện tại ông
ta đang thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tại nhà.. Ông ta sinh ra và lớn lên tại
Nhật, nhưng thành trưởng sự học tập tại Ba Lan, Mỹ Quốc và Đức Quốc. Hiện
giờ là Giáo sư đàn Piano tại Đại Học Hildesheim gần cạnh Hannover. Ông ta
có tất cả; nhưng phủ nhận tất cả. Vì biết rằng cuộc đời vốn vô thường,
chẳng có gì khả tin bằng giáo lý của Đức Phật; nên đã từ chối nhận gia tài
của cha mẹ để lại, mà chỉ nhận một niềm tin nơi Phật Pháp mà thôi. Điều ấy
cũng rất là hy hữu đối với nhiều người Nhật ở lứa tuổi 42 như ông ta.
Người Việt Nam chúng
ta cũng thế, tôi biết có rất nhiều gia đình gồm nhiều thế hệ khác nhau. Ví
dụ như thế hệ của ông bà thì làm quan lại cho triều đình nhà Nguyễn. Đến
thế hệ con cái thì đi du học nước ngoài. Cho đến thế hệ cháu nội, cháu
ngoại được sinh ra và lớn lên ở nước ngoài thì chỉ lo đi trộm cướp và bài
bạc. Như vậy những sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái có được ích lợi
gì? khi tiền bạc thì kiếm ra nhiều, trong khi đó tri thức thì không có gì
cả... quả là một điều đáng lo, vì không biết rằng thế hệ tiếp theo sẽ sống
và hành xử với cuộc đời nầy như thế nào đây?
Hôm qua tôi đã hướng
dẫn cho quý Cô, quý Chú trong lớp học nầy bằng một đoạn trong truyện Bản
Sanh, Đức Phật đã dạy rằng:
Học là ngọn đèn
Xua tan bóng đêm
Là tài sản quý nhất
Trộm không đoạt được
Là khí giới đánh bại
kẻ thù
Sự ngu tối về mọi sự
Học là bạn tốt nhất
Dạy cho bạn các
phương tiện
Là một người quyến
thuộc
Không bỏ bạn khi bạn
khó nghèo
Là phương thuốc giải
sầu
Không làm hại bạn
Là đạo quân công
việc tốt nhất
Phái đi dẹp giặc tà
hạnh
Là vốn tối thượng
của
danh tiếng và vinh
quang
Không gì quý hơn là
có học
Khi bạn gặp những
người giỏi
Bạn sẽ làm cảm kích
những học giả
Trong bất cứ hội
chúng nào.
Sự học như ngọn đèn
xua tan bóng tối vô minh
(Ni Sư Thích Nữ Trí
Hải dịch
"Giải Thoát Trong
Lòng Tay" trang 123-124)
Phật dạy như thế tự
ngàn xưa và vẫn có giá trị cho ngày nay và mãi mãi cho đến ngàn sau, sự tu
và sự học như thế, bao giờ cũng rất cần thiết cho mọi người, kể cả giới
xuất gia lẫn tại gia vậy.
Nhớ có lần tôi ngồi
trên xe Bus với nguời thông dịch tiếng Việt từ tiếng Trung Hoa, tôi có kể
cho anh ta nghe rằng tôi rất bận rộn và tôi bây giờ cái gì cũng có; nhưng
không có thì giờ. Anh ta bảo rằng: tại Trung Quốc có một câu tục ngữ nói
rằng: "Tôi bây giờ chỉ có tiền, ngoài ra tôi không có gì cả". Câu nầy kể
ra cũng hay, dùng để mai mỉa những người chỉ có tiền, mà trí tuệ và sự học
thì không có gì cả. Điều ấy không biết tương lai sẽ bị dẫn dắt đi về đâu?
Ở những thế hệ của
các bậy Thầy đã dày công xây dựng chùa chiền; hội đoàn; nhưng nếu không
lưu tâm đến để xây dựng một đoàn thể Tăng Già đầy đủ đức tin nơi Tam Bảo
thì không biết rằng thế hệ thứ hai ấy sẽ ra sao, đừng nói gì đến thế hệ
thứ ba hay thứ tư nữa. Vì những thế hệ kế tục nầy đâu có học, có hạnh và
ngay cả việc có công cũng không, do đó dễ đi vào con đường suy thoái. Nếu
ngay từ lúc nầy Giáo Hội không trang bị cho người Tăng Sĩ một sự tu và sự
học cho tương lai, chắc rằng những khó khăn sẽ không chừa một ai cả.
Tôi đã đến và đi
thong dong tự tại trong cuộc đời nầy của một kiếp nhân sinh đầy đủ ý nghĩa
của nó. Do vậy chỉ muốn ghi lại một vài hình ảnh đã đi qua nhân chuyến
hành hương vừa rồi tại Trung Quốc để cho trọn bộ sách về Tứ Đại Danh Sơn.
Dĩ nhiên viết về Trung Quốc đã có rất nhiều người viết; nhưng viết về Phật
Giáo thì rất ít. Do đó tôi phải dành thì giờ để viết về Nga Mi Sơn; nơi
thị hiện của Đức Phổ Hiền Bồ Tát. Cửu Hoa Sơn; nơi thị hiện của Đức Địa
Tạng Vương Bồ Tát và một số nơi khác quen thuộc tại Trung Quốc để giới
thiệu đến với quý độc giả xa gần; nhất là với những người muốn đi mà chưa
đến được.
Còn mấy ngày nữa thì
thế kỷ thứ 20 sẽ trôi qua. Cả một ngàn năm của thiên niên kỷ thứ 2 nầy và
cả 100 năm của thế kỷ thứ 20 nầy có không biết bao nhiêu là vấn đề để phải
tường thuật lại, nhằm nhắc nhở cho đàn hậu học biết đến mà tiến thân. Đồng
thời cũng là cơ hội tốt nhất để chúng ta sửa soạn bước vào thế kỷ mới; một
thế kỷ có nhiều hứa hẹn; nhưng đồng thời cũng là một thế kỷ nhiều lo âu
toan tính nhất, so với những thế kỷ đã trôi qua. Người ta lo toan, người
ta tính toán, người ta dự định, đồng thời người ta cũng buông xả... để tất
cả sẽ đi đến một sự chấp nhận. Điều ấy có nghĩa tốt hay xấu, chúng ta cũng
phải có trách nhiệm với những thành quả sẽ xảy ra vào đầu thế kỷ thứ 21
nầy.
Đợt đầu đi Trung
Quốc cũng 21 ngày vào tháng 10 năm 1997. Sau khi về chúng tôi đã chấp bút
để viết thành tác phẩm "Theo Dấu Chân Xưa" để gởi đến quý độc giả khắp
nơi. Tác phẩm nầy cũng được mọi người đón tiếp một cách rất hoan hỷ và hôm
nay với tác phẩm nầy mang tên "Vọng Cố Nhân Lầu" để nhớ lại người xưa.
Người xưa đây cũng là những người đã đến trước và đi trước và cũng có thể
đã trở lại trong kiếp nầy. Người xưa đây là những vị Đại Sư đã có công với
Đạo, đã khai sơn phá thạch một thời. Người xưa đây cũng có thể là những
vua chúa, công hầu khanh tướng ở vào một thuở xa xôi nào đó trên xứ Trung
Nguyên nầy.
Dĩ nhiên Trung Quốc
cũng còn có nhiều cái giới hạn của nó. Vì lẽ một đất nước rộng rãi cũng
như dân đông như thế, quả thật không phải là một chuyện đơn thuần để sửa
đổi trong một thời gian ngắn mà thành tựu viên mãn được. Sau khi đi Trung
Quốc về tôi đã nhận xét rằng: "Xứ Mỹ là xứ có văn minh mà không có văn
hóa. Trong khi đó xứ Trung Quốc là xứ có văn hóa mà nhiều nơi chẳng có
văn minh". Điều nầy cũng không phải là tất cả; nhưng là một phần trong tất
cả mọi phần vậy.
Tác phẩm nầy chỉ
viết bằng tiếng Việt, sau đó Chú Sanh lại đánh máy, Hiền dò bài, anh Như
Thân layout, Hải + Hiền lại cặm cụi in ấn và mọi người lại cắt, đóng, xếp
để trở thành một quyển sách phải cần có nhiều thời gian và công sức. Vậy
nhân đây chúng tôi cũng xin bày tỏ một tấm lòng tri ân đối với những vị
vừa nêu tên ở phía trên. Riêng quý độc giả có nhiều người đã đợi tác phẩm
nầy hơi lâu vì nhiều lý do thời gian cũng như hoàn cảnh khác nhau; nên mới
ra chậm như thế. Kính mong quý vị niệm tình hỷ thứ cho.
Nếu tác phẩm nầy có
mang đến một sự hiểu biết và giúp đỡ phần nào đối với quý vị sắp đi hành
hương Trung Quốc, thì quả đó là một nguồn động viên lớn cho người viết
cũng như người đọc vậy.
Lời cuối xin chắp
tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện nơi cõi nầy, để người người sống
trong một không khí tự do, bình đẳng thực sự giữa người với người vậy.
Tác phẩm nầy bắt đầu
viết tại Na-Uy; nhưng chấm dứt ở đâu thì chưa biết; cũng có thể là tại Ý
hay tại Đức hoặc tại Úc cũng không chừng? Nhưng dầu tại đâu đi chăng nữa
vấn đề nội dung mới quan trọng, chứ vấn đề hình thức cũng không nên lưu
tâm làm gì.
Văn tôi vốn bình
dân, do vậy mà phần triết học siêu nhiên ít được diễn tả nơi nhiều tác
phẩm của tôi. Vì tôi nghĩ, nên đầu tư những tư liệu đơn giản vào tâm thức
dễ dàng hơn là những từ Phật Học điển tích, khô khan, khó nhớ.
Đọc văn tức đọc
người. Vì tôi là một người vốn được sinh ra từ quê hương, đồng ruộng; nên
những ý nghĩ của tôi khi phơi bày trên giấy trắng mực đen nó cũng chỉ đơn
thuần như con trâu, chiếc cày, cái cuốc, con cò lặn lội nơi khoảng không
gian vô tận của ruộng đồng ấy mà thôi.
Viết sách không phải
nhằm phô trương kiến giải thô thiển của mình thấy, nghe và biết; nhưng
viết sách riêng tôi có mục đích là ghi lại những gì mắt thấy, tai nghe;
những gì chính mình đã kinh qua và bây giờ chỉ còn có bổn phận phải ghi
lại để cho chính mình và mọi người nếu một mai có quên đi, hãy dở sách ra
để tìm lại những gì mà mình muốn kiếm, thì nơi sách đã đầy đủ lắm rồi.
Lạy Phật cho con làm
tròn những bổn phận mà tự mình giao phó cho mình vậy.
Tại thư phòng chùa Khuông Việt - Na-Uy
Ngày 25 tháng 12 năm 1999
Thích Như Điển
Những ngày ở tại Bắc Kinh
▲
Lẽ ra phái đoàn của
chúng tôi khởi hành từ Đức vào ngày 1 tháng 10 năm 1999; nhưng năm nầy Bắc
Kinh kỷ niệm 50 năm thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa nhân lễ Quốc
Khánh vào 1 tháng 10 mỗi năm; nên chính quyền đã không cho người ngoại
quốc vào đây trong buổi lễ ấy và ngay cả những người Trung Quốc ở ngoài
Bắc Kinh cũng không được phép vào. Mãi cho đến ngày 3 tháng 10 họ mới cho
vào. Có lẽ họ sợ một cuộc biểu tình lớn sẽ được tổ chức lúc nầy; nên mọi
sự giao thông từ bên ngoài đến Bắc Kinh đều bị cấm ngặt.
Ngay cả những du
khách ngoại quốc đến Trung Quốc trước đó cũng không được phép có mặt tại
Bắc Kinh vào ngày 1 và 2 tháng 10 mà phải dời chỗ ở đi nơi khác. Vì họ sợ,
nhân ngày lễ kỷ niệm 50 năm nầy sẽ có biến cố lớn và người ngoại quốc sẵn
sàng tiếp tay; nên họ đề phòng trước vẫn hơn thì phải ?
Việc xin Visa đi
Trung Quốc không khó ngay cả những người có giấy tờ tỵ nạn, hay quốc tịch
Việt Nam. Nếu là quốc tịch Đức hay Mỹ lại càng dễ dãi hơn, không như Ấn
Độ. Mỗi lần đi Ấn Độ là một cực hình. Vì họ làm khó dễ đủ điều trong khi
xin Visa. Có lẽ họ không cần thêm người nữa. Vì Ấn Độ dân số quá đông ?
hay họ có thành kiến với Phật Giáo ? Việc nầy chẳng ai biết, chỉ có người
Ấn Độ và nhất là những quan chức ngoại giao mới có thể trả lời rành mạch
mà thôi! Trong khi đó xin Visa đi Trung Quốc không khó mấy; nhưng lần nầy
với tôi và quý Ni Sư, Sư Cô khác đi cùng đoàn phải làm một giấy cam đoan
đặc biệt, mặc dầu tôi cũng có quốc tịch Đức từ lâu. Nội dung của giấy cam
đoan như thế nầy:
"Họ và Tên - Nghề
nghiệp - Sinh ngày tháng năm - Hiện là Tăng sĩ Phật Giáo và cam đoan rằng
đến Trung Quốc không được phép truyền bá giáo lý Phật Giáo."
Sau đó ký tên vào.
Kể ra thì cũng nực cười.
Đoàn hành hương đi
kỳ nầy cốt cũng để đến thăm các chùa tại Trung Quốc, mà dẫu có không cấm
đi nữa thì việc truyền đạo đâu phải chỉ một vài giờ hay một vài ngày mà
làm được đâu? Có lẽ họ sợ ảnh hưởng của Phật Giáo mạnh lại chăng? Nhưng
tại sao chính quyền lại cho xây tượng Địa Tạng bằng đồng cao 99 thước tại
Cửu Hoa Sơn? Tại sao chính quyền cho đúc cả một tượng Di-Đà cao hơn núi
tại Vô Hi? Dĩ nhiên không phải vì truyền bá chánh pháp như các thời vua
chúa trước. Nhưng có lẽ vì mối lợi vào cửa của khách hành hương chăng? Hay
đây cũng là hình thức để chứng tỏ cho bên ngoài biết rằng nước Cộng Sản
Trung Hoa cũng có tự do tôn giáo, chứ có cấm đoán đâu? Quả thật chính sách
nầy người Cộng Sản Việt Nam đã rập theo y mẫu.
Trước khi tôi và
phái đoàn đến, phái Pháp Luân Công cũng đã hoạt động rất tích cực tại đây,
có hơn cả triệu tín đồ và đặc biệt là bổn bộ đặt tại Mỹ Quốc. Chính quyền
sợ họ mạnh hơn số đảng viên họ đang có nên cuối cùng cho bắt lần hồi những
ai hoạt động theo phái nầy. Nhiều lúc nghĩ cũng nực cười. Trong khi những
người có súng đạn, quân đội, bạo lực mà lại sợ những người tay không và
chỉ có một lòng tin duy nhất là mục đích mà họ hướng tới; thì những người
có thế lực đương quyền lại sợ. Như vậy chứng tỏ rằng bạo lực không là tất
cả, mà chỉ có niềm tin mới mang mọi người đến những điểm nhứt định mà họ
đã lựa chọn. Có đức tin là có tất cả. Vì vậy trong kinh Hoa Nghiêm mới có
câu: "Niềm tin là mẹ sinh ra mọi công đức" vậy.
Cũng vì lý do như đã
nêu trên mà phái đoàn của chúng tôi ngày 2 tháng 10 năm 1999 mới bắt đầu
đi từ Đức đến Hòa Lan và từ Hòa Lan sang Bắc Kinh. Phái đoàn đi kỳ nầy có
18 vị. 5 Tăng Sĩ và 13 Cư Sĩ, trong 13 vị nầy có 2 vị là Bác sĩ; nên cả
đoàn ai cũng an tâm. Trong 18 người đó có 5 quốc gia và nhiều quốc tịch
khác nhau. Ví dụ như từ Đức đi có 9 người. Từ Mỹ có 3 vị. Từ Hòa Lan có 4,
từ Ý có 1 và từ Pháp cũng có 1 người. Như vậy là một phái đoàn tương đối
nhỏ; nhưng rất lý tưởng. Vì dưới 15 người, xem như tổ chức bất thành. Còn
trên 40 người lại quá đông, làm sao lo cho xuể. Thế mà cách đó một tháng
chùa Khánh Anh tại Paris đã tổ chức cho phái đoàn đi Trung Quốc gần 100
người. Quả là khiếp vía thật !
Dĩ nhiên tôi cũng đã
có những chuyến hành hương đông người hơn thế nữa, nhưng đi người đông,
thì người trưởng phái đoàn phải cực nhọc nhiều. Ví dụ năm 1996 tôi cũng đã
đến Ấn Độ với một phái đoàn 40 người và nhập chung với phái đoàn bên Mỹ
qua, tổng cộng lên đến 120 người. Phải đi 3 xe Bus mới đủ chở người và
hành lý; nhưng lúc ấy đã có Thầy Hạnh Tấn, Thầy Hạnh Nguyện và Thầy Minh
Tánh lo. Do vậy tôi đỡ phải vất vả; nhưng khi đến, khi đi, khi vào chuyện
rồi mới thấy phái đoàn nào có tu nhiều và phái đoàn nào ít tu sẽ rõ ràng
ngay. Rõ ràng qua việc cư xử. Rõ ràng qua việc phát tâm và rõ ràng qua
việc tín tâm đối với Đạo v.v...
Đi hành hương không
phải là đi du lịch. Vì đi du lịch người ta lấy tiền để đổi lại những tiện
nghi của đối phương. Còn ở đây đi hành hương là lấy tâm nhẫn nại để cầu sự
thực tu, thực học và cầu giải thoát; nên hai đàng cũng đi; nhưng lại có
nhiều sự khác biệt như thế. Có nhiều người không chịu đựng nổi cái dơ, cái
trễ giờ, cái làm việc tắc trách của Ấn Độ: nhưng cuối cùng rồi cũng huề cả
làng. Vì ngoài sự chờ đợi ra, chúng ta biết làm sao hơn? Ở tại Trung Quốc
thì khá về phương diện nầy; nhưng cũng có nhiều nơi còn lạc hậu lắm; nhứt
là những phương tiện công cộng tại miền quê.
Từ Amsterdam của xứ
Hòa Lan lúc đi đến Bắc Kinh chỉ cần 9 tiếng đồng hồ; nhưng lúc về từ Hồng
Kông phải cần đến 11 tiếng. Mặc dầu nhìn trên bản đồ thấy không có gì cách
xa mấy. Chúng tôi đến phi trường Bắc Kinh vào lúc 8 giờ 40 phút sáng ngày
3.10.1999. Phái đoàn sau khi nhận hành lý đã ra khỏi cổng gác liền gặp anh
thông dịch viên tiếng Đức. Đầu tiên chúng tôi ngỡ là sẽ có thông dịch viên
tiếng Việt; nhưng không sao. Vì những người đến từ Đức, ai cũng hiểu tiếng
Đức cả. Anh ta cũng có thể nói được một ít tiếng Anh, nên phái đoàn bên Mỹ
cũng rất hài lòng. Tại những thành phố lớn như thế nầy, những người thông
dịch viên rất giỏi. Vì họ có cơ hội trau giồi ngoại ngữ. Trong khi đó, ở
những nơi xa vắng ánh sáng thị thành thì những thông dịch viên giỏi ít có
mặt tại đây. Quả thật đây cũng là một sự thiếu sót đối với những người
sống tại nông thôn vậy.
Phi trường Bắc Kinh
ngày 2.10.1999
Anh thông dịch viên
đón phái đoàn chúng tôi về khách sạn Thiên Luân Hoàng Triều, một khách sạn
4 sao mới xây vào thập niên 90 nên rất hiện đại, không thua gì các khách
sạn tại Âu Mỹ mấy. Nếu chỉ ở trong khách sạn, đừng nhìn ra cảnh sinh hoạt
của dân chúng bên ngoài, người ta cứ tưởng rằng đang ở tại một xứ Âu Mỹ
nào đó. Quả thật sau 2 năm trở lại Trung Quốc thấy tại đây, nhất là Bắc
Kinh thay đổi quá nhiều; ngay cả tại Thiên An Môn. Nếu 10 năm sau mới trở
lại, chắc rằng những ngôi nhà cũ kỹ từ đời nhà Minh, nhà Thanh không còn
tồn tại nữa quá !
Phái đoàn đã đến
phi trường Bắc Kinh
Xe cộ giao thông
càng ngày càng nhiều mà đường sá thì mở rộng chưa kịp. Nếu cứ độ nầy 10
năm sau nữa thì người đi bộ trong thành phố sẽ nhanh hơn người đi xe
chăng? Trước khi đi Trung Quốc tôi có đọc một thống kê về độ ô nhiễm trên
thế giới đáng báo động gồm 12 thành phố, mà trong đó Trung Quốc đã chiếm
kỷ lục là 8 thành phố rồi. Đi đến đâu cũng chỉ thấy người, khói và bụi.
Nhìn lên bầu trời thấy khói lan tỏa như những đám mây, không khí thật
nghẹt thở. Có nhiều người đến từ Âu Châu bị bịnh hoạn cũng tại lý do nầy
là chính. Đồng thời những nước không bị ô nhiễm và sạch sẽ được xếp thứ tự
như sau: Na-Uy về đầu, sau đó đến Úc, thứ 3 là Canada, thứ 8 là Mỹ, thứ 14
là nước Đức và thứ 148 là nước Việt Nam. Như vậy nghèo đói Việt Nam vẫn
dẫn đầu, mà môi sinh cũng kém thua xa các nước khác trên thế giới. Quả là
một cái nghiệp quá nặng nề mà chính cả một dân tộc phải cấp thời sám hối,
chứ không phải chỉ sám hối cho từng người riêng lẻ.
Năm nay tôi trở lại
Trung Quốc thấy đường sá sạch hơn 2 năm trước. Xe hơi cũng nhiều hơn và xe
đạp lại ít đi; những tiệm tạp hóa tư nhân mở ra nhan nhản khắp các phố
phường và giá cả thì rẻ gần như cho và tại Bắc Kinh không cần trả giá cũng
không lầm; nhưng nếu vào những cơ quan thương mại của chính phủ thì chúng
ta có quyền nầy, mặc dầu những người hướng dẫn viên du lịch luôn luôn bảo
đảm rằng: mua trong những cửa hàng chính phủ không bị lầm, mà mua bên
ngoài thì không phải đồ thật. Nhiều người cũng nghĩ rằng nếu giá rẻ thì cứ
mua chứ, dầu có thật hay giả gì đi chăng nữa, đến khi bị hư hại đâu có ai
mang đến Trung Quốc để đổi lại làm gì nữa mà lo?
Tôi đôi khi lại góp
ý vào với mọi người rằng: "Nhưng ở đời nầy cái gì cũng giả hết, chứ đâu có
cái gì thật ngoại trừ chân lý!". Thế là cả đoàn đều cười òa lên, như để
chứng minh rằng mình hiểu lẽ vô thường và thành trụ hoại không của sự vật
vậy.
Cả đoàn ai cũng đừ
nên trông cho khách sạn dọn phòng xong là mang đồ lên, nghỉ một chút, sau
đó đi ăn cơm trưa phía ngoài và buổi chiều thì phái đoàn đi thăm Thiên An
Môn cũng như Cố Cung hay nói đúng hơn là Tử Cấm Thành. Mọi người đều theo
sau anh hướng dẫn viên tiếng Đức và lúc nào anh ta cũng lưu ý là phải nhìn
theo cây cờ của anh ta, kẻo đi lạc. Thế mà cũng đã có người trong đoàn bị
lạc, khiến cho cả đoàn lại ngóng cổ chờ trông. Vì nhìn người Hoa cũng như
người Việt. Người Việt cũng như người Nhựt, biết đâu mà dò.
Hình Bác sĩ Tôn Dật
Tiên tại quảng trường Thiên An Môn ngày 3.10.99
Tôi nhớ rằng 2 năm
trước cũng có người trong đoàn lạc tại đây và năm nay cũng có người lạc;
nên tôi tự nghĩ rằng đúng là chúng ta con cháu của Lạc Việt; nên đã trôi
nổi trên khắp mọi chân trời góc biển của quả địa cầu nầy. Tại quảng trường
Thiên An Môn lần nầy cũng treo hình của Bác sĩ Tôn Dật Tiên đối diện với
hình của Mao Trạch Đông. Các tỉnh từ xa về đã trang hoàng những xe hoa,
trên đó diễn tả lại sự sinh hoạt của tỉnh mình như đập thủy điện, công
nghiệp, dệt vải, kỹ nghệ v.v... Có thể là mỗi tỉnh có một xe hoa giới
thiệu như thế; nên quảng trường Thiên An Môn trở nên chật hẹp lạ thường.
Mặc dầu đây là một quảng trường rộng nhất thế giới, nghe đâu mỗi lần tập
họp có thể lên đến cả triệu người.
Đi thăm Cố Cung lần
nầy tôi không hứng khởi mấy, vì lần trước đã được cô Lộ, thông dịch viên
tiếng Việt hướng dẫn tường tận rồi. Tuy nhiên phái đoàn cũng chụp hình
trước lầu kia phủ nọ để mang về làm kỷ niệm. Sau đó thì ra thăm vườn Ngự
Uyển của nhà vua. Anh hướng dẫn viên cũng định dẫn đi thăm chỗ ở của Tam
Cung, Lục Viện thời vua chúa; nhưng không ngờ đã đến giờ đóng cửa, cho nên
phái đoàn chẳng được vào.
Sau đó phái đoàn trở
về lại khách sạn thì gặp thông dịch viên tiếng Việt đến từ Quảng Tây thuộc
thủ phủ Nam Ninh, cách đó hơn 36 tiếng đồng hồ xe lửa. Đầu tiên anh ta
chào chúng tôi bằng một loại tiếng Việt khó quên. Nghĩa là: Chào các Bác,
các Bác có mạnh khỏe không? Đó có lẽ là một câu chào hỏi thông dụng được
học nơi trường. Cả đoàn ai cũng cười. Vì lẽ trong đoàn của chúng tôi không
những chỉ có các Bác, mà còn quý Thầy, quý Cô và nhiều anh chị khác nữa;
nhưng ai cũng vui, vì lẽ đã có người thông dịch quốc gia bằng tiếng Việt
sẽ đi cùng đoàn suốt 21 ngày còn lại.
Phái đoàn tối đó đi
phố, còn tôi thì ở lại khách sạn để điện thoại đi vài nơi và tối đó cũng
đã được điện thoại của Sư Cô Tịnh Nghĩa đang du học tại Trung Quốc qua học
bổng của chùa Viên Giác cung cấp, cô muốn đến thăm tôi và phái đoàn vào
sáng hôm sau. Trước đây Sư Cô học tại trường Đại Học Sư Phạm Quế Lâm; nơi
có phong cảnh tuyệt vời của xứ Trung Quốc; nhưng vì trường học thay đổi
sao đó, nên Sư Cô đã dời về Hoa Nam cách Bắc Kinh chừng 12 tiếng đồng hồ
xe lửa. Mới 6 giờ sáng Sư Cô và một cô sinh viên Việt Nam nữa đã tìm tới
khách sạn nơi chúng tôi ở, cùng dùng điểm tâm chung và sau đó mọi người
cùng lên xe Bus để đi thăm Thập Tam Lăng triều nhà Minh cũng như thăm Vạn
Lý Trường Thành.
Nhà Minh trị vì
Trung Quốc từ năm 1368 đến 1644, gần 300 năm ấy triều đại nầy đã xây dựng
Bắc Kinh trở thành một thủ đô văn hóa như ngày hôm nay. Triều đại nhà
Thanh được kế tục từ năm 1644 đến 1911 cũng gần 300 năm lịch sử và cả hai
triều đại nầy đều đóng đô ở Bắc Kinh. Như vậy Bắc Kinh là thủ đô lâu dài
nhất của hai triều đại nầy; nên họ mới có cơ hội để xây dựng đền đài cung
điện, lăng tẩm đồ sộ đến như thế.
Nội Cung
Đến thăm Thập Tam
Lăng lần nầy vào ngày 4.10.1999 cũng không có gì đặc biệt như lần trước
tôi đã đi qua và đã có lần viết trong quyển "Theo Dấu Chân Xưa" rồi; nên
lần nầy không viết lại nữa. Chỉ có một điều duy nhất và không quên là tôi
luôn luôn lưu ý đến quý vị trong đoàn nên mua trái lê tại nơi nầy. Vì lê
đây rất lớn, rất giòn, rất ngon và lại rất rẻ. Mà quả thật thế, suốt 21
ngày còn lại Thầy Thông Trí, đến từ Hòa Lan, là người chịu khó nhọc nhất
để quảy những trái lê nầy cho đến Quảng Châu mới hết vai mang tay xách
nữa.
Tử Cấm Thành
Đào lộn hột ở đây
trái rất lớn, rất ngọt và rất rẻ; nhưng ngặt nỗi đào nầy giữ gìn không
được lâu; chỉ hôm trước đến hôm sau phải dùng. Nếu không sẽ bị ủng hư thối
mất, rất uổng công. Nếu quý vị nào đó có nhân duyên đi thăm Trung Quốc vào
mùa thu cỡ tháng 9 đến tháng 11 dương lịch mỗi năm, khi ghé thăm Thập Tam
Lăng đừng bao giờ quên mua những trái lê tình nghĩa tại xứ nầy. Tôi quảng
cáo không công cho những người nhà nông, có lẽ vì tôi có nhân duyên với
người chân bùn tay lấm nầy chăng?
Hai năm trước chúng
tôi đến Vạn Lý Trường Thành ở ngõ khác, hai năm sau trở lại chẳng biết đi
hướng nào là hướng cũ, chỉ biết rằng hướng nầy không phải hướng lần trước
mà thôi. Tuy nhiên nhiều người cũng leo lên đến đỉnh. Riêng Thầy Thông Trí
thì không những leo lên đến đỉnh mà còn đi vòng qua đỉnh để đi xuống dưới,
khiến phái đoàn phải chờ đợi bên nầy tường thành; nhưng ai cũng đoán là
Thầy đã đi ngõ khác. Vì Thầy còn thanh niên, mạnh khỏe.
Cùng với quý Sư Cô
Việt Nam tại Bắc Kinh
Tại đây có nhiều
người Pháp, người Đức đến viếng thăm. Họ mở sâm-banh (champagne) nghe nổ
chát chúa tai. Có lẽ vì họ đã đạt được mục đích rồi chăng? Mọi người nói
cười vui vẻ. Có lẽ họ không để ý đến sự có mặt của tôi và họ nói tiếng
Pháp, nhiều câu hiểu ra nghe ngồ ngộ. Dĩ nhiên là khen cũng có, mà chê thì
cũng không ít. Tôi lẳng lặng tập nghe để hiểu một dân tộc Âu Châu nói về
một dân tộc Á Châu có 4.000 năm văn hiến như xứ Trung Hoa nầy.
Vạn Lý Trường
Thành
Bất đáo Trường Thành
phi hảo Hán
Ngày hôm sau,
5.10.1999, phái đoàn ra phi trường Bắc Kinh vào lúc 7 giờ 30 phút sáng, có
cô Tịnh Nghĩa và cô sinh viên Việt Nam tiễn chân, để rồi hai cô cũng về
lại nơi trọ học của mình. Còn chúng tôi chuẩn bị cho chuyến bay 10 giờ 35
phút nhưng mãi tới 13 giờ 10 phút phái đoàn mới lên được máy bay để đi
Hefei (Hợp Phì) và sau gần 2 giờ bay thì đến đích. Đoạn đường nầy có lẽ xa
như từ Kiel đến München. Trưa hôm đó phái đoàn phải ăn mì gói; nhưng rất
ngon. Tại đây, phái đoàn chúng tôi cũng đã gặp những Phật Tử Đài Loan đi
hành hương đến Cửu Hoa Sơn và họ cũng đã đi cùng chuyến máy bay với chúng
tôi để đến Hợp Phì và sau đó đi xe Bus để đến Cửu Hoa Sơn.
Dưới chân Vạn Lý
Những
ngày tại Cửu Hoa Sơn ▲
Từ Hefei (Hợp Phì)
đi Cửu Hoa Sơn đường dài 272 cây số; nhưng toàn là đường làng, do vậy đến
9 giờ đêm phái đoàn mới đến được khách sạn. Lần nầy chúng tôi gặp một anh
thông dịch tiếng Anh, mới đầu anh ta nói còn hiểu; nhưng nói lâu thì chỉ
đoán để mà dịch thôi, vì chẳng biết anh ta muốn nói cái gì. Có nhiều lúc
tôi muốn anh ta nói tiếng Tàu để Lương Nghị, người thông dịch tiếng Việt,
dịch thẳng ra tiếng Việt nhanh hơn; nhưng có lẽ anh ta cũng muốn chứng tỏ
rằng tại miền thánh địa nầy vẫn có người nói tiếng Anh được, cho nên anh
ta cứ tiếp tục giải thích bằng tiếng Anh và tôi cũng như Thầy Thông Trí cứ
đoán mà dịch.
Dọc hai bên đường
tôi trông thấy những ruộng lúa trải dài như những tấm thảm có màu xanh
vàng, đậm lợt khác nhau, dệt nên những gấm hoa của thiên nhiên và tạo vật,
trông đẹp mắt vô cùng. Thỉnh thoảng thấy có những vồng khoai lang được
trồng sát lề đường, có nơi được đào lên có màu đỏ tươi, trông mà mát mắt.
Ai trong đoàn cũng thích ăn rau tươi, nhất là rau lang và củ lang; nhưng
phải đợi đến mấy ngày sau mới thực hiện được, chứ trong lúc nầy chả ai dám
mơ tưởng gì hơn là sớm về khách sạn để nghỉ lưng. Nhưng hỡi ơi, là một
khách sạn bình dân, hôi hám, dơ dáy, nước chảy cùng phòng khiến ai cũng
sinh ra bực bội; nhưng ai trong đoàn cũng nghĩ là mình đang đi hành hương
chiêm bái các thánh tích của Phật Giáo, do vậy mọi chuyện lại cũng trôi
qua đi.
Cửu Hoa Sơn là một
trong bốn thánh tích của Phật Giáo, là nơi thị hiện của Đức Địa Tạng Vương
Bồ Tát.
Ngũ Đài Sơn là nơi
thị hiện của Đức Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nga Mi Sơn là nơi
thị hiện của Đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Phổ Đà Sơn là nơi
thị hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Ngũ Đài Sơn và Phổ
Đà Sơn chúng tôi đã đi lần trước. Lần nầy là chủ yếu đi hai nơi còn lại.
Tương truyền rằng
vào thế kỷ thứ 8 có Ngài Kim-Kiao-Kak (Kim- Kiều-Giác) người Đại Hàn, xuất
thân từ Hoàng tộc đã vượt biển để đến núi Cửu Hoa tu hành và Ngài đã ở núi
nầy tổng cộng là 75 năm. Trong 75 năm đó lúc nào Ngài cũng đi tìm Hóa thân
của Ngài Địa Tạng; nhưng cuối cùng Ngài đã viên tịch ở tuổi 99 và hào
quang đã tỏa rạng khắp nhục thân của Ngài; nên mọi người đã xưng tụng Ngài
là hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tại đây cũng có 99 ngọn núi rất nổi
tiếng và rất cao; nên năm nay vào lúc 9 giờ sáng ngày 9 tháng 9 năm 1999
Hội Phật Giáo Trung Quốc được sự bảo trợ của chính quyền và Ủy Ban Tôn
Giáo Nhà Nước nên đã bắt đầu xây dựng một tượng Địa Tạng (Ksitigarbha) cao
99 thước trên một khu đất với diện tích 100.000 thước vuông và dự tính xây
cất tốn khoảng 400 triệu nhân dân tệ (tiền Trung Quốc), tức nhằm vào
khoảng 100.000.000 Đức Mã.
Tượng Địa
Tạng cao 99 thước tại Cửu Hoa Sơn đang xây dựng
Tượng nầy ở tại núi
Cửu Hoa thuộc tỉnh An Huy (Anhui). Không những tại đây chỉ xây tượng Địa
Tạng mà còn xây ngôi chùa Dajue (Đại Giác) gồm có 27 tòa nhà, điện đường
được liệt kê như sau:
1. Ngõ chính vào
chùa
2. Ngũ môn
3. Sơn môn điện
4. Thủy tạ đài
5. Thiên vương điện
6. Đại Hùng Bửu Điện
7. Chung cổ lầu
8. Giảng kinh đường
9. Tạng kinh lầu
10. Tôn tượng Địa
Tạng cao 99 thước
11. La Hán đường
12. Thiền đường
13. Giới đường
14. Vân Thủy đường
15. Tổ Sư điện
16. Tiếp Dẫn điện
17. Công Đức đường
18. Khách đường
19. Niệm Phật đường
20. Phương Trượng
liêu
21. Phật Giáo Nghiên
Cứu Viện
22. Diên Thọ đường
23. Tăng liêu
24. Trai đường
25. Thượng khách
đường
26. Đại liêu
27. Thoái cư liêu.
Trong 27 nơi nầy,
mỗi nơi bằng một chùa lớn của Việt Nam chúng ta, còn đa phần các chùa
chiền tại Trung Quốc đều cấu tạo như thế cả. Có lẽ vì dân đông, hay vì đầu
óc của người Trung Quốc to lớn nên mới làm được những chuyện vĩ đại như
vậy. Riêng Phật Giáo Việt Nam chúng ta cũng có hành trì pháp môn bố thí
đấy; nhưng tất cả còn giới hạn. Có lẽ quê hương ta còn nghèo chăng nên
những công trình của Phật Giáo tại quốc nội cũng như hải ngoại ít có công
trình nào đáng kể.
Tiện thể tôi xin
giải thích một vài danh từ khó hiểu trong 27 công trình trên:
11. La Hán đường là
nơi thờ 500 vị A-La-Hán
13. Giới đường là
nơi để tổ chức các kỳ thọ giới Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni, Bồ Tát v.v...
14. Vân Thủy đường
để làm gì tôi không rõ, ngay cả tra tự điển Hán-Việt Phật Học tự điển cũng
không thấy có. Có thể để làm lễ phóng sanh chăng?
16. Tiếp Dẫn điện là
nhà quàng những người chết.
17. Công Đức đường
là nơi ghi tên cúng dường vào các Phật sự khác nhau của chùa.
19. Niệm Phật đường
là nơi Phật Tử đến tu theo Pháp Môn Niệm Phật.
20. Phương Trượng
liêu là nơi ở của vị Hòa Thượng.
22. Diên Thọ đường
là nơi cầu an hoặc cầu sống lâu.
23. Tăng liêu là nơi
ở của Tăng chúng.
24. Trai đường là
nơi dùng cơm.
25. Thượng khách
đường là nhà nghỉ đêm của khách.
26. Đại liêu là liêu
lớn có thể cho những vị Cư Sĩ giúp việc ở.
27. Thoái cư liêu là
nơi ở cho những vị đã quá tuổi làm việc. Đây giống như nhà dưỡng lão tại
Tây Phương.
So ra một ngôi chùa
Đại Giác tại Cửu Hoa Sơn như vậy cũng lớn hơn 50 đến 100 lần các ngôi chùa
Việt Nam của chúng ta, đó là chưa kể tượng Địa Tạng cao 99 thước. Một công
trình như thế được gọi là một công trình lịch sử được xây dựng bằng tiền
của cúng dường vào cuối thế kỷ thứ 20 nầy tại Trung Quốc. Dĩ nhiên chính
phủ, mặc dầu là Chính phủ Cộng Sản; nhưng họ hưởng được mối lợi trong công
trình qua việc thu vé vào cửa và nộp thuế cho nhà nước, nên dại gì mà họ
cản ngăn. Họ còn khuyến khích nữa là đằng khác.
Đêm đó chúng tôi ngủ
với một giấc ngủ chập chờn, rồi vẳng nghe đâu đây tiếng chuông chùa vào
canh năm. Thế là mọi người đều lục tục thức dậy dùng điểm tâm rồi lại lên
đường với những dụng cụ leo núi.
Đầu tiên chúng tôi
lên chùa "Hồi Hương Các" nơi đây có gặp Pháp Sư Huệ Quang, trụ trì ngôi
chùa. Ngài có giới thiệu sơ qua về Cửu Hoa Sơn. Phái đoàn đã cúng dường
xây chùa và Ngài đã trao quà lưu niệm.
Hồi Hương Các tại
Cửu Hoa Sơn.
Rời Hồi Hương Các,
phái đoàn đã lên đến "Phi Hoằng Kiều", nơi đây sơn thủy hữu tình. Tại đây
chúng tôi đã chụp nhiều hình lưu niệm. Cảnh vật tại đây y hệt như những
tranh thủy mạc của các họa sĩ tài hoa Trung Quốc phóng bút. Trên thì trời,
mây lồng lộng gió. Dưới chân núi có những cụm mây là đà lảng vảng dưới
chân khách trần ai, cảm như mình đã thoát tục. Đến đây tôi lại nhớ đến nhà
thơ Chu Mạnh Trinh đi thăm Chùa Hương đã tức cảnh sinh tình và đã có thơ
rằng:
Bầu trời cảnh Bụt
Thú Hương Sơn ao ước
mấy lâu nay
Kìa non non, nước
nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là
đây có phải
Thỏ thẻ rừng mai
chim cúng trái
Lững lờ khe yến có
nghe kinh
Thoảng đâu đây một
tiếng chày kình
Khách tang hải giật
mình trong giấc mộng
Này suối Giải Oan,
nầy đền Cửa Võng
Này hang Phật tích,
nầy động Tuyết Khuynh
Nhác trông lên ai
khéo vẽ nên hình
Đá ngũ sắc long lanh
như gấm dệt
Thấp thoáng một hang
lồng bóng nguyệt
Chập chờn uốn khúc
mấy thang mây
. . . . .
Lần tràng hạt niệm
Nam Vô Phật
Cửa Từ Bi công đức
biết là bao
Càng xem phong cảnh
càng yêu.
Nếu mà Chu Mạnh
Trinh còn sống, ông đã đến Cửu Hoa Sơn và đến Phi Hoằng Kiều nầy để thăm,
chắc rằng ông ta có nhiều bài thơ hay hơn thế nữa.
Đoạn đường cuối cùng
chúng tôi phải leo dốc sáng nay là chùa có ứng thân Bồ Tát Hải Ngọc. Ngài
đã tịch từ đời nhà Đường; nhưng hiện tại nhục thân vẫn còn tại đây. Điều
ấy chứng tỏ rằng trước khi Ngài Kim-Kiều-Giác đến đây năm 719 cũng đã có
nhiều vị Đại Sư đã tu chứng tại núi nầy rồi. Sau khi đảnh lễ nhục thân của
Ngài Hải Ngọc, phái đoàn chúng tôi xuống núi bằng đường bộ, dọc đường đi
thấy rất nhiều người đi kiệu lên núi để lễ Phật. Nhìn dáng thấy giống các
công tử từ Hồng Kông hay Đài Loan đến đây để thăm viếng nơi thánh tích
nầy; nhưng không đi bộ nổi, nên mới ngồi lên kiệu vậy. Kiệu là một cái ghế
làm bằng mây hoặc tre, hai bên có tay cầm, phía sau có chỗ dựa. Có hai cây
gỗ hoặc tre cột dài hai bên thành ghế và cứ thế hai người phu kê hai vai
vào khiêng. Nhiều lúc lên dốc cao trông rất ngộp; nên có nhiều người không
dám đi nữa. Đôi khi phải đổi thế ngồi. Ví dụ khi đi lên thì người ngồi
xoay mặt xuống, khi đi xuống thì xoay mặt lên chẳng hạn.
Thỉnh thoảng trên
đường đi xuống chúng tôi cũng gặp những người phu gánh sạn cát lên chùa.
Hỏi ra mới biết mỗi gánh nặng như thế chỉ được trả 4 Yuan, tức khoảng 1
Đức Mã. Đa phần những người hành hương cho thêm tiền và nói rằng shinku ne
(tân khổ = cực nhọc). Tiếng Nhựt thì nói gokurosama desu (khổ lao = cực
khổ lao nhọc) để tạo thêm sức mạnh cho người gánh, đồng thời cũng để động
viên cũng như cảm ơn họ nữa.
Nơi thờ nhục thân
của Ngài Kim-Kiều-Giác
Buổi chiều cả phái
đoàn đi bộ, chống gậy lên thăm Nhục Thân Bảo Điện; nơi đây có chôn Ngài
Kim-Kiều-Giác sau khi tịch. Cảnh trí nơi đây thật hùng vĩ; đúng là vị thế
của một vị Địa Tạng hiển thân vào đời Đường. Chúng tôi có vào chánh điện
và đi nhiễu chung quanh tháp của Ngài. Tháp nầy chôn ngay trong chùa. Có
lẽ trước đây tháp bên ngoài; nhưng sau nầy người ta xây chùa lên để tháp
đỡ chịu mưa nắng cũng nên. Cũng có nhiều người Đại Hàn đến đây hành hương.
Vì vậy thông dịch viên tiếng Đại Hàn ở đây cũng có nữa. Vì là quê hương,
là chốn của Tổ, mà vị ấy đến từ Đại Hàn; nên họ cũng đã được ảnh hưởng
lây.
Từ chùa nầy đi xuống
chùa Địa Tạng phải qua một tam cấp thẳng đứng gồm 99 nấc. Nếu ai đi không
lưu tâm, dễ bị vấp té. Chung quanh thang đá là những cây tùng, cây bách
sống cả ngàn năm vẫn còn trơ gan cùng tuế nguyệt. Có lẽ những cây nầy là
nhân chứng khi Ngài Kim-Kiều-Giác còn tu nơi đây, mà người xưa thì bây giờ
còn tìm đâu ra nữa. Nên lời kinh xưa vẫn còn vang vọng bên tai của tôi
rằng:
"Sơn trung tự hữu
thiên niên thọ
Thế thượng nan lưu
bá tuế nhơn"
Nghĩa là:
"Trong núi kia có
cây sống cả hằng ngàn năm
Nhưng đời người mấy
ai sống được trăm tuổi"
Quả đúng như vậy.
Con người qua sự biến đổi của cuộc đời, của nhân duyên nên giai đoạn
thành, trụ, hoại, không, nhiều lúc ngắn hơn là cây cỏ hay những động vật
khác nữa. Nhưng tất cả rồi cũng phải trở về không thôi. Tại chùa Địa Tạng
có an trí nhục thân của Ngài Từ-Minh Lão Sư. Ngài tịch cho đến nay đã được
8 năm. Sau khi chôn 4 năm thì đào lên và nhục thể của Ngài đang ngồi theo
lối liên hoa tọa và được thờ tại chánh điện chùa Địa Tạng nầy. Nghe đâu
tại toàn Cửu Hoa Sơn có đến 10 nhục thân của các vị Hòa Thượng. Chứng tỏ
rằng nơi đây đã có nhiều vị tu hành đã đắc đạo.
Phía trước Địa-Tạng
tự là Di-Lặc Đường. Chùa nầy đang xây cất, trông rất hùng vĩ. Mới chỉ nhìn
cái cổng Tam Quan không thôi đã thấy Việt Nam mình không có được ngôi chùa
nào như thế rồi. Quả là điều đáng suy nghĩ vậy. Trước Di-Lặc Đường có thờ
một tượng Di-Đà phóng quang, bằng đồng, cao 5 thước, trông rất uy nghi.
Tiếp theo chúng tôi viếng thăm Đại-Bi lầu. Nơi đây gặp các vị Sư đang Chẩn
Tế Cô Hồn.
Chùa nào tại Trung
Quốc trông cũng rất đồ sộ; nhưng chánh điện không rộng mấy. Vì ở giữa phần
tôn trí các tôn tượng đã chật hết cả ngôi chùa rồi. So ra với các chánh
điện chùa Việt Nam, chúng ta vẫn có cái đẹp hơn và rộng rãi hơn. Ví dụ vào
bất cứ chùa nào của Việt Nam cũng không được mang giày dép vào; nhưng ở
các chùa Trung Quốc thì ngược lại. Việc lễ Phật cũng không thoải mái bằng
các chùa của Việt Nam. Hình thức bên ngoài và cách điêu khắc tượng gỗ của
Trung Quốc, thì Phật Giáo Việt Nam chúng ta không bằng; nhưng bên trong
chùa, nhất là cách bày trí, Phật Giáo Việt Nam chúng ta khá hơn.
Tối đó quý Thầy, quý
Cô và một số quý Phật Tử đi thỉnh tượng tại các cửa tiệm. Tiện đây cũng
xin mở ngoặc để quý vị tường. Nếu quý Phật Tử đi hành hương tại Trung Quốc
chỉ có 2 nơi có tượng nhiều và tương đối đẹp, rẻ; đó là Phổ Đà Sơn và Cửu
Hoa Sơn. Nên cố gắng mang đeo gì đó; nhưng không nên tậu nhiều. Vì sẽ khổ
sở đèo bồng trên tuyến đường còn lại; nhưng nếu đã định thỉnh tượng; thì
nên thỉnh tại 2 nơi nầy, còn những nơi khác có rất ít tượng, mà tượng lại
không đẹp nữa.
Chùa Thiên
Thai
Ngày hôm sau
7.10.1999 cả đoàn lên xe Bus và sau đó ngồi lên thang máy treo (Cable car)
để lên núi cao 1.350 thước ở phía Đông và cũng là ngọn chính của Cửu Hoa
Sơn nầy. Hãng thang máy của Áo đã đầu tư vào những công trình xây dựng
thang máy treo nầy. Có lẽ vì xứ nầy có kỹ thuật xây dựng cao trong vấn đề
thang máy treo để đi trượt tuyết, nên nhà nước Trung Hoa đã gọi thầu vậy.
Đoạn đường thang máy đi bằng dây treo nầy là 476 thước, có nghĩa là gần
nửa cây số, độ chừng 12 phút thì tới đỉnh. Đỉnh nầy gọi là đỉnh Thiên
Thai. Không biết ngày xưa người ta di chuyển như thế nào mà có thể khuân
những khúc gỗ và đá cũng như gạch ngói để xây những ngôi chùa đồ sộ trên
chót núi cao hơn 1.300 thước ấy; nhưng ngói, xi-măng, sắt, vôi v.v... chắc
chắn phải mang từ dưới lên trên rồi, mà những ngày tháng xa xôi ấy làm gì
có thang máy hiện đại như ngày nay. Quả thật cái ý chí của người xưa đáng
thán phục biết bao! Trong khi đó đời nay người ta có đầy đủ phương tiện;
nhưng chẳng mấy ai quan tâm đến sự khổ nhọc nầy cả. Kể cũng hững hờ thật.
Từ trong xe Cable
nầy người ta có thể trông ra hai bên để nhìn cảnh vật chung quanh mình.
Những cây mây rừng cao vút; những bụi tre lồ-ồ thẳng ngọn; những cây tùng,
cây bách vươn cao vào không gian vô tận, để rồi chìm nghỉm vào các cụm mây
là đà bên chân lữ khách, thật xứng với một đoạn trong bài thơ Nhớ Chùa của
Huyền Không như sau:
"Có những cây mai
sống trọn đời
Bên hàng tùng trúc
mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất
hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi mỉm
miệng cười"
Đạo là thế, chùa là
vậy, chỉ đơn giản thôi; nhưng sao mà nó lại đẹp lạ lùng. Có lẽ thiên nhiên
đã ưu đãi cho những người muốn lánh cảnh trần ai tục lụy; nên đã trang bị
cho những nơi nầy một khung cảnh đẹp tuyệt trần.
Chánh điện chùa
Thiên Thai đang xây dựng
Qua khỏi trạm dây
Cable trên đỉnh Thiên Thai chúng tôi đã gặp một ngôi chùa rất hùng vĩ nằm
cheo leo trên triền núi gọi là Thiên Thai Phùng. Chùa bên trong gọi là Bái
Kính Đài; nơi đây chúng tôi đã gặp được vị trụ trì. Sau khi đàm đạo cũng
như cúng dường xây chùa, phái đoàn đã được Hòa Thượng đích thân hướng dẫn
vào đảnh lễ 2 bàn chân thật lớn của Ngài Kim-Kiều-Giác được in sâu vào
dưới đá và ngày nay khách hành hương ai đến đây cũng đều gục đầu vào để
tưởng nhớ đến người xưa và cầu nguyện. Có lẽ bàn chân của Ngài không lớn
đến thế; nhưng để diễn tả cái ý chí cao thượng của người xưa "đầu đội
trời, chân đạp đất" để làm nên nghiệp lớn; nên mới tạo ra phiến đá nầy để
mọi người hướng về những chuyện cao thượng trong quá khứ vậy.
Tại Bồ Đề Đạo Tràng
nơi gần cây Bồ Đề người ta cũng tạo nên 2 bàn chân như vậy. Dĩ nhiên Đức
Phật có phước tướng riêng; nên bàn chân có thể to lớn như vậy; nhưng vì
người đời sau nhân cách hóa ra nhiều lần; nên người bây giờ cũng khó hình
dung nổi là vậy.
Cạnh chùa Thiên Thai
Bây giờ mọi người
trong phái đoàn lại chống gậy đi lên trên đỉnh Thiên Thai. Đường đi cheo
leo, dốc núi thăm thẳm. Trông lên thấy ngộp; nhìn xuống thấy lo âu. Thế mà
chung quanh đoàn hành hương chúng tôi có không biết bao nhiêu người gánh
gồng, đội, mang, xách... nào đồ ăn, thức uống, rau cải, cát, xi-măng
v.v... nên ai cũng động lòng. Cứ thế mà dúi vào tay những người làm công
việc nặng nhọc nầy 1 Yuan, 2 Yuan v.v... Vì nghĩ đến thân mình đi còn
không nổi có cả cây gậy để chống nương thân. Trong khi đó những người làm
công việc nặng nhọc nầy cho chùa, công đức không biết sao mà kể cho xiết.
Bởi vậy khi Chu Mạnh Trinh thăm Chùa Hương cũng đã nói:
"Lần tràng hạt niệm
Nam Vô Phật
Cửa Từ Bi công đức
biết là bao
Càng xem phong cảnh
càng yêu"
Khi những người gánh
những gánh nặng nầy muốn nghỉ trên dốc bậc thang cấp, họ có một cây đòn
bằng gỗ chống phía sau nửa đòn gánh để nâng gánh đồ lên cho cân bằng với
nửa gánh phía trước; đoạn họ sẽ tiếp tục cuộc hành trình bằng cái khom
lưng đơn giản, có thể đưa gánh lên một cách nhẹ nhàng. Trong đoàn cũng có
nhiều người kê vai vào gánh thử; nhưng chẳng ai nhấc lên nổi, làm gì có
chuyện gánh lên núi. Duy chỉ có Bác Diệu-Cao ở Hamburg đã có thể nhấc lên
rồi để xuống mà thôi. Nên ai trông thấy những gánh cát như thế cũng lè
lưỡi ra cả. Có hai người gánh rau cải đi theo lên tới đỉnh và yêu cầu
chúng tôi mua cúng vào chùa cho Tăng chúng. Chúng tôi đã làm điều đó trong
một ý nghĩa thật chơn thành. Trong gánh rau lên núi ấy nào củ sen, nào cải
bẹ, nào mướp, nào bí v.v... có cả đậu nành tươi, khoai lang đỏ nữa. Trông
món nào cũng nặng tình nặng nghĩa của cửa từ bi cả; nên chúng tôi đã chẳng
so đo gì để tiến cúng vào chùa cho chư Tăng có cái tươi mát của Vitamin.
Kỳ nầy cả đoàn đi
nhiều núi, mà leo dốc nhiều nhất có thể nói là tại Cửu Hoa Sơn. Tuy
Emeishan (Nga Mi Sơn) cao hơn Cửu Hoa Sơn (Jiuhuashan) đấy; nhưng đi dây
Cable nên đỡ mệt hơn tại đây. Nếu làm con số tính nhẩm, cả kỳ nầy đi bộ
chừng 8.000 bậc thang dốc thoai thoải lên các núi cao. Riêng tôi phải dùng
2 cây gậy. Một tại Cửu Hoa Sơn và một tại Nga Mi Sơn. Có nhiều người mệt
đã phải đi kiệu; có nhiều người nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ leo lên
hết núi được; nhưng cuối cùng nhờ tự lực và tha lực cũng như câu niệm Phật
A-Di-Đà; nên ai ai cũng tròn ước nguyện.
Từ trên núi Thiên
Thai cao ngất người ta đang xây dựng lại chùa và từ đây nhìn xuống bên
dưới thấy mây, thấy trúc ẩn hiện với nhau, chẳng khác những gì như nhà thơ
Huyền Không đã diễn tả trong bài thơ "Nhớ Chùa" :
Thấp thoáng đâu đây
cảnh tượng làng
Có con đường nhỏ
chạy thênh thang
Có hàng tre gợi hồn
sông núi
Im lặng chùa tôi
ngập ánh vàng"
Trên đỉnh Thiên Thai
Chúng tôi dừng chân
dưới triền núi để dùng cơm trưa. Cơm trưa hôm ấy gồm những củ khoai lang
nướng; những trái lê mang từ Bắc Kinh đến và uống nước suối; nhưng ngon
miệng lạ lùng. Có lẽ vì núi cao, cảnh rộng; nên lòng người cũng dễ chịu
hơn chăng? nên đã chấp nhận những thức ăn như thế rất dễ dàng.
Đông Nhai Thiền Tự
Những người hành
hương qua lại trông thấy chúng tôi lạ nên hỏi từ đâu tới và họ cũng tò mò
hỏi xem cách phục sức của những Sư Cô người Việt Nam mình. Vì cách phục
sức của quý vị Sư Ni tại Trung Quốc khác hơn người Việt mình.
Cả đoàn từ từ xuống
núi. Bây giờ không ai còn than gì khó nhọc như lúc leo lên nữa; nhưng ai
cũng phải để ý đến những độ dốc thoai thoải khi hạ sơn. Quả thực đường lên
cảnh giới giác ngộ cũng không phải dễ, mà đường xuống núi độ sanh cũng đâu
có đơn giản chút nào. Vậy mà đã có không biết bao nhiêu đôi giày rách qua
lại, lại qua ở ngưỡng cửa Ta Bà nầy để cứu khổ độ mê đây. Quả là tâm Bồ
Tát của chư vị đã trải dài đến cõi vô biên thế giới hữu hình nầy. Điều ấy
đáng để cho chúng ta quy mệnh, đảnh lễ biết là dường bao!
Trên núi Cửu Hoa Sơn
nhìn xuống
Dưới sát chân núi có
một cây "Phượng Hoàng Tùng" đã tồn tại nơi đây hơn 1.400 năm kể từ thời
Nam Bắc Triều mà vẫn còn xanh mướt với thời gian. Có cả đầu, cánh, đuôi,
chân. Nhìn xa, nhìn gần gì cũng thấy giống như một con Phượng Hoàng to lớn
đang giương cặp mắt hướng vào khoảng không gian vô tận để nhìn đời qua bao
lẽ biến thiên của lịch sử vậy.
Phái đoàn lại tiếp
tục chống gậy leo núi để thăm chùa Huệ Cư do Hòa Thượng Thích Ngộ Thiền
trụ trì. Sau khi dùng trà nước và giới thiệu, Ngài Hòa Thượng trụ trì đã
hướng dẫn phái đoàn lên thăm chùa "Cửu Thiên Huyền Nữ Thánh Mẫu Điện".
Chùa nầy được một vị Công chúa Thái Lan mới đây đã bỏ tiền ra để xây dựng.
Theo Ngài trụ trì bảo rằng đây là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Tôi
thì không nghĩ như vậy. Vì trong 32 hóa thân bình thường của Đức Quan Thế
Âm không có hóa thân Cửu Thiên Huyền Nữ, mà ngay cả 500 hóa thân của Đức
Quan Thế Âm cũng không có nữa. Có lẽ đây do tập tục của người Trung Hoa
còn sót lại chăng? Dẫu sao đi nữa vẫn là một điềm tốt; nhưng đừng biến mọi
người vào mê tín dị đoan là hay rồi.
Bên cạnh
Phượng-Hoàng Tùng, 1.500 năm tồn tại
Sau đó phái đoàn
xuống chùa Địa Tạng đảnh lễ nơi Ngài Kim-Kiều-Giác tu suốt 49 năm tại chùa
nầy trong thời gian tổng cộng 75 năm Ngài đã ở tại núi Cửu Hoa. Sau khi
đảnh lễ, chiêm bái và cúng dường mọi nơi, phái đoàn lên xe Bus về chân
núi, tìm đến văn phòng đại diện xây tượng Địa Tạng cao 99 thước để cúng
dường. Người Trung Quốc có cách cúng dường cũng hay và mới lạ so với người
Việt Nam. Ví dụ số tiền đến bao nhiêu là được khắc tên bên dưới cùng. Số
tiền bao nhiêu là tên mình được khắc lên những cánh sen và cứ thế nhân lên
cho đến trên đầu, trên tóc của Đức Phật. Chỉ có cách nầy mới mong công
trình to lớn như vậy sớm hoàn thành.
Tôi nhớ không lầm ở
Nhật cũng thế. Các vị Đại Sư của Nhật xây chùa xong; nhưng không đủ tiền
lợp ngói bằng đồng; nên đã có sáng kiến là ai muốn cúng ngói thì ghi tên
vào sổ lưu niệm để sau nầy người ta sẽ khắc tên vào ngói và để đời đời tại
chùa đó. Quả là một cách cúng dường tự nguyện nhưng rất cao cả và dễ thành
công.
Nhìn chung phong
cảnh tại Cửu Hoa Sơn rất là hùng vĩ đáng ca ngợi là một trong bốn danh sơn
lớn của Trung Quốc. Quả thật người xưa chọn mặt gởi vàng không sai một mảy
may nào cả. Nhất là một mai đây khi chùa Đại Giác hoàn thành thì cảnh trí
tại Cửu Hoa Sơn còn đẹp đẽ hơn xưa rất nhiều. Vì chùa nầy có đầy đủ phương
tiện hơn các chùa khác tại bản địa nầy.
Đến Nam Kinh
▲
Khi còn học Giáo Dục
tại Đại Học Đế Kinh (Teikyo) ở Đông Kinh, tôi và Yamada Yukio học cùng
phân khoa; nên hay gần gũi nhau để chỉ bài cho nhau. Thời gian ấy từ
73-77. Mới đó mà cũng đã 25 năm trôi qua rồi. Yamada đến từ tỉnh Nigata,
nằm về phía Đông-Bắc của Tokyo. Có nhiều lúc chúng tôi đố chữ với nhau. Ví
dụ như cà chua tiếng Nhựt gọi là gì? Anh ta bảo rằng cà Tomato. Tôi bảo
sai. Vì lẽ tiếng Nhựt không có chữ đó. Tôi bảo rằng có. Đó là Akai Nasu
(cà đỏ). Nếu không tin hãy dở tự điển ra mà xem. Đúng là như thế. Ngày nay
người Nhựt dùng tiếng ngoại quốc rất nhiều để chua vào nhiều chữ trong
câu; nên những thế hệ sau không hiểu nguyên ngữ của nó là gì nữa!
Một hôm tôi hỏi
Yamada rằng:
- Bắc Kinh tiếng
Nhựt gọi là gì?
- Anh ta bảo rằng:
Peking.
- Nam Kinh gọi là
gì?
- Nanking.
- Tây Kinh gọi là
gì?
- Seiking.
- Còn Đông Kinh gọi
là gì?
- Tongking.
- Có phải như thế
không đó? Tôi hỏi lại.
- Anh ta hỏi. Chứ
gọi là gì?
- Hãy gọi là Tokyo.
Vì Đông Kinh không
có nơi bản đồ Trung Quốc. Chẳng biết tại sao, mà hình như Tây Kinh cũng
không thông dụng mấy. Chỉ có Nam Kinh và Bắc Kinh là nổi tiếng mà thôi.
Vào lúc 6 giờ 30
phút ngày 8.10.1999 phái đoàn rời khách sạn, lên xe Bus để đi Nam Kinh. Từ
Cửu Hoa Sơn đến Nam Kinh xa lộ rất tốt. Tuy xe chạy hơi chậm, khoảng 12
giờ 30 phút thì phái đoàn đã đến Nam Kinh. Chúng tôi sau khi dùng trưa đã
đến thăm lăng của Bác sĩ Tôn Dật Tiên. Tôn Dật Tiên là người có công lật
đổ triều nhà Thanh vào ngày 10.10.1911 để lập nên Chính phủ Cộng Hòa Trung
Hoa với 3 chủ trương chính là: Dân Sinh, Dân Tộc và Dân Quyền. Ông ta là
người ảnh hưởng tân học và những chủ trương như thế thời bấy giờ đã gặp
được nhiều người hưởng ứng. Người Trung Hoa gọi Tôn Dật Tiên là Tôn Trung
Sơn. Vì đây là hiệu của ông ta và nơi chôn ông ta gọi là lăng, như lăng
vua để chỉ sự cung kính của người Trung Hoa đối với ông lúc bấy giờ.
Chúng tôi đến thăm
lăng của ông thấy bên ngoài đề bốn chữ Hán thật lớn : Thiên hạ vi công,
có nghĩa là Trời Đất là của chung. Có lẽ đây cũng là một chủ trương cải
cách lúc bấy giờ. Vì lẽ vua chúa chủ trương ngược lại. Họ là con trời; nên
muốn xử sự đối với thần dân như thế nào, thì nhân dân phải cam phận chịu.
Tất cả đều được tóm thâu quyền hành vào một mối; nhưng ở đây thì không.
Vì: Của là muôn sự của chung. Tiếp đi vào trong thấy 2 chữ :
.......... Bác Ái, và bước lên nhiều thang cấp cao trên một ngọn đồi thấy
có ghi 4 chữ ...................: Thiên hạ chánh khí. Phía dưới bên giữa
ghi ......... : Dân Sanh; bên tay phải có ghi ......... : Dân Tộc và bên
tay trái có ghi ........ : Dân Quyền. Đây là 3 chủ trương chính của Tiên
sinh. Trước mả của Tiên sinh có ghi Hạo Khí Trường Tồn và hai bên tường tả
hữu có khắc lại bản Tuyên Ngôn của Quốc Dân Đảng và những lời nhắn nhủ
của Tiên sinh với các đồng chí của ông ta rằng: Hãy
Phái đoàn chụp hình lưu niệm trước mộ Bác sĩ Tôn Dật Tiên ở Nam Kinh
thực hiện những gì còn lại mà ông đã chưa làm được. Điều đặc biệt ở đây là
trên vòm của lăng có cẩn lá cờ Trung Hoa Quốc Dân Đảng mà cho đến ngày hôm
nay (1999) vẫn còn. Mặc dầu cách mạng văn hóa đã là cơ hội để đập phá biết
bao nhiêu là chùa chiền và cơ sở khác; nhưng nơi đây nhờ ông Chu Ân Lai
cản ngăn nên mới còn lại đến ngày hôm nay. Lá cờ nầy hiện Trung Hoa Dân
Quốc (Đài Loan) đang xử dụng. Năm 1949 Mao Trạch Đông đã thắng Nhựt và
Quốc Dân Đảng; nên Tưởng Giới Thạch đã chạy ra Đài Loan lập quốc tại đây;
trở thành nước Cộng Hòa Trung Hoa mà Trung Cộng sau khi lấy lại Hồng Kông
vào năm 1997 cũng như Macao vào năm 1999 sau 442 năm làm thuộc địa của xứ
Anh và Bồ Đào Nha, họ có ý đồ muốn sáp nhập Đài Loan để trở thành một quốc
gia và 2 thể chế; nhưng liệu điều nầy có sáp nhập được hay không, hãy chờ
thời gian phân giải. Vì gần 50 năm lập quốc tổng sản lượng của Đài Loan 18
triệu người đã hơn tổng sản lượng của hơn 1 tỷ người Trung Quốc trong hiện
tại. Vậy mới thấy chủ nghĩa nào ưu việt hơn, người dân họ cũng đã tự biết
rồi.
Phía chính giữa có
để một cỗ quan tài bằng đá, trên đó có tạc hình của Tôn Dật Tiên; nhưng
người hướng dẫn du lịch cho biết rằng xác đã được chôn sâu dưới 5 thước.
Dẫu sao thì sự thành, trụ, hoại, diệt, của thế gian cũng không làm cho
người tu như tôi nao núng. Bây giờ có còn chăng chỉ là cái tinh thần của
Tiên sinh để lại mà thôi. Còn vào đây chỉ để xem tượng đá và xác chết, đâu
có ý nghĩa gì; nhưng nếu đã đến mà không xem, thì sẽ không biết thực tế
như thế nào; nên chúng tôi đã cố gắng đến đây để thăm lại cuộc bể dâu và
biến thiên của lịch sử.
Chùa Kim Sơn
Người thông dịch
viên bằng tiếng Đức nơi đây rất sành sõi, sau khi hướng dẫn chúng tôi thăm
lăng mộ Bác sĩ Tôn Dật Tiên đã cho mọi người lên xe Bus để qua thăm lăng
vua Minh Hiếu. Trên thực tế thì lăng nầy đang được khai quật nên du khách
chưa được vào. Từ ngoài đường phố chính, khách lữ du thấy phía trước có
một cổng nhỏ dẫn vào và bên trong là một cái gò cao. Nơi ấy đã an trí vị
Hoàng đế Minh Hiếu. Minh Hiếu Hoàng Đế chính là Chu Nguyên Chương, ông nầy
lúc nhỏ cũng ở chùa như Lý Công Uẩn của Việt Nam chúng ta. Ông ta là một
nông dân, tập họp quân lính lại để đánh quân Mông Cổ. Mông Cổ cai trị
Trung Hoa từ năm 1271-1368, gần 100 năm ấy quân Mông Cổ cũng đã 3 lần đến
xâm lăng nước ta vào đời nhà Trần; nhưng cả 3 lần đều thua. Lúc bấy giờ
nước ta có những tướng tài như Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng và 4
người con trai của Hưng Đạo Vương và nhất là tinh thần của Hội Nghị Diên
Hồng là tinh thần Bi-Trí-Dũng của Phật Giáo, nhờ thế mới thắng được quân
Nguyên Mông. Trong khi đó quân Mông Cổ đã chiếm đến Thổ Nhĩ Kỳ và Âu Châu;
nhưng đến Việt Nam thì bại trận, để rồi những năm của thế kỷ thứ 20 Mông
Cổ lại bị lệ thuộc Trung Hoa. Cho hay ở đời, thắng bại là lẽ thường, chẳng
có gì để lo toan cả. Vì khi được thì vui, khi thua thì buồn. Đó là lẽ
thường tình của thế nhân vậy.
Người xưa chết chôn
cả lính đá, ngựa đá, sư tử, lạc đà bằng đá theo cùng để tượng trưng cho
sức mạnh đương quyền và chứng tỏ cho lịch sử là đời vua chúa không bao giờ
băng hoại; nhưng có cái gì tồn tại mãi với thời gian đâu. Đúng quả là sự
lẩm cẩm của con người. Mỗi con vật như vậy tượng trưng cho một ý nghĩa. Ví
dụ:
- Con sư tử tượng
trưng cho sức mạnh của vua.
- Con lạc đà tượng
trưng cho sự an ổn.
- Con ngựa tượng
trưng cho sự hòa bình.
- Con voi tượng
trưng cho sự trung thành
- và mỗi con đứng
tượng trưng cho Dương
- những con ngồi
hoặc nằm tượng trưng cho Âm
Đây là âm dương ngũ
hành hay âm dương hòa hợp như Đạo Lão đã chủ trương.
Phái đoàn đã lên xe
Bus đi tham quan thành phố. Dọc đường có những cây phong rất đẹp. Mùa
Xuân, phong ra lá xanh tươi, mùa Hạ cho bóng mát, mùa Thu có lá vàng rơi.
Đồng thời khi cây phong nở hoa và ra trái cũng là lúc cây phong làm cho
nhiều người bị dị ứng; nên đã bị cảm, bị bịnh rất nhiều.
Đường phố tại Nam
Kinh rất rộng, thoáng mát và văn minh có thể nói trước cả Âu Mỹ. Ví dụ như
cách dùng đèn xanh đỏ ở ngoài phố như sau: Trước mỗi ngã tư có đèn tự động
có ghi 40 sao cho cả xanh và đỏ. Nếu người lái xe đến thấy đèn đỏ còn 15
sao, điều ấy có nghĩa là còn 15 sao nữa thì bắt đầu đề máy chạy. Ngược lại
khi đèn xanh cũng vậy, khi thấy ở đèn xanh còn 2 sao nữa phải bắt đầu dừng
lại là vừa, kẻo chạy thêm sẽ bị đèn đỏ. Tổ chức như vậy thật là khéo, ai
cũng an tâm để lái xe, cả xe hơi lẫn xe đạp. Ở đây có đường cho xe đạp
chạy riêng như ở Đức, không giống như Bắc Kinh hoặc một số thành phố khác.
Trước đệ nhị thế
chiến thành phố nầy bị Nhật chiếm với tư cách là Châu Á của người Á Châu
qua sự kiện chiến tranh Nha Phiến ở Mãn Châu và họ cũng nhân cớ nầy mà xâm
lăng đến Việt Nam cũng như toàn cõi Đông Nam Á. Cuối cùng vào năm 1945 hai
quả bom nguyên tử của Mỹ cho nổ tại Nagasaki và Hiroshima khiến Nhật phải
đầu hàng và thế giới sau đệ nhị thế chiến (1939-1945) đã bước vào một kỷ
nguyên mới.
Thành phố nầy là
thành phố kết nghĩa với Tiểu bang Baden Würtenberg và Nordrhein Westfallen
của Đức nên cũng đã có một chút ảnh hưởng của văn hóa Đức tại đây. Nghe
đâu ông Thủ Tướng Schröder của Đức cũng đang ở Trung Cộng lúc phái đoàn
chúng tôi đang hành hương tại đây và ông ta cũng dự định sẽ đến thăm thành
phố Nam Kinh nầy.
Chiều đó phái đoàn
về khách sạn Tân Thế Kỷ để nghỉ ngơi và chờ ngày mai sẽ lên đường đi đến
nơi khác. Đúng là tâm lý của con ngưòi - đến chỗ nào khổ ai cũng lo toan,
khó chịu, khi đến chỗ đầy đủ tiện nghi mặt mày ai cũng hớn hở vui cười.
Nếu cuộc đời chỉ bị lệ thuộc như vậy thôi, thì vòng luân hồi nầy chắc sẽ
quay không bao giờ ngừng nghỉ. Ở đây chúng ta phải làm sao, nhất là những
người Phật Tử, phải tự hiểu rằng cuộc đời nầy khổ vui không có gì là thực
tướng cả. Vì tất cả đều bị biến đổi bởi vô thường, khổ, không và vô ngã
nên không có gì để trói buộc tâm ta và cố gắng làm sao vượt ra khỏi sự đối
đãi nầy thì mới hiểu được chơn tinh thần của Đạo Phật vậy.
Khi đến các thành
phố Nam Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu v.v... nhất là càng đi về phía Nam
của Bắc Kinh thì người ta không còn cảm nhận nhiều ảnh hưởng chính trị của
phương Bắc nữa; nên đời sống của người dân ở đây rất thoải mái tự do. Nhà
cửa sạch sẽ, mới mẻ; những cao ốc vươn lên đến tận bầu trời... là những
biểu hiệu của sự tiến bộ và mong rằng Nam Kinh sẽ là nơi có nhiều du khách
đặt chân đến.
Tại chùa Kim Sơn và Vô Hy
▲
Trên đường đi đến
Vô Hy phái đoàn chúng tôi ghé thăm chùa Kim Sơn. Đây là một ngôi chùa khá
nổi tiếng ở vùng nầy. Chùa nầy còn gọi là Giang Thiên Thiền Tự
....................... . Có lẽ nằm gần con sông Dương Tử và cảnh trí
thiên nhiên trời đất bao la hùng vĩ; nên gọi là Giang Thiên cũng nên. Tên
nầy do vua Khang Hy đổi ra, sau khi đến chùa thăm phong cảnh tại đây.
Hầu hết các chùa của
Trung Quốc đều xây về hướng Nam. Chỉ có duy nhất chùa nầy xây về hướng Tây
mà thôi. Lý do xây về hướng Tây được giải thích rằng: Trước đây chùa cũng
xây về hướng Nam; nhưng thường hay bị hỏa hoạn. Khi cháy thì không có nước
để dập tắt ngọn lửa. Do vậy mà chùa đổi lại xây về hướng Tây; nếu hỏa hoạn
có xảy ra, lấy nước sông Dương Tử để chữa cháy cho kịp thời; nhưng lạ
thay, từ khi thay đổi hướng đến bây giờ, chùa không bị cháy nữa.
Tháp chùa Kim Sơn
Tại chùa nầy đặc
biệt thường hay tổ chức đàn cầu siêu, chẩn tế thủy lục. Có nghĩa là cầu
nguyện cho những người bị chết trôi và chết trên đất liền. Có nơi còn làm
trai đàn để cầu nguyện cho những người chết trên không và trong rừng sâu
nữa. Sau khi thăm Đại Hùng Bửu Điện chúng tôi đã lên một nơi cao nhất
trong chùa để xem phong cảnh chung quanh. Nơi đây có ghi lại 4 chữ là:
.................... Giang Thiên Nhất Lãm
Tương truyền rằng
chữ nầy của vua Khang Hy viết. Một ông vua hay chữ và có hiếu với mẹ, như
vua Tự Đức của Việt Nam chúng ta thời nhà Nguyễn vậy. Vua Khang Hy đến
thăm chùa với mẹ và đã tức cảnh sanh tình đặt bút viết đến 3 chữ và chữ
thứ 4 thì quên. Các vị Đại Thần đứng chung quanh không dám nhắc sợ vua
giận; nên chỉ nói bóng nói gió rằng hôm nay nhà vua đi thăm nơi đây với mẹ
và cùng xem phong cảnh chung quanh đó. Do vậy vua mới viết thêm chữ Lãm
( ) vào để trở thành 4 chữ như ngày nay còn an trí tại nơi nầy.
Chùa nầy có từ đời
nhà Đường, lúc bấy giờ có 2 ngọn tháp 7 tầng; nhưng đến đời nhà Minh thì
bị hư hết một tháp và tháp hiện có, mới xây lại cách đây 170 năm mà thôi.
Chánh điện của chùa mới xây lại cách đây 4 năm. Một phần tiền của do dân
địa phương đóng góp và phần chính là do các Phật Tử Singapore cúng dường.
Phía sau chùa có
dựng tượng của Thanh Xà và Bạch Xà. Tượng hình người; nhưng cốt rắn. Nơi
nầy gọi là Bạch Long Động. Tương truyền rằng: Nơi đây vào đời nhà Đường có
một vị Sư đến đây để tu hành và nhà Sư biết hốt thuốc chữa bịnh; nên dân
chúng đã đến nơi nầy càng ngày càng đông. Trong khi đó thì Thanh Xà lấy
chồng tại Trấn Giang nầy cũng dùng pháp thuật để chữa bịnh. Nhà Sư kêu hai
vợ chồng đến đây cùng cho thuốc; nhưng Thanh Xà không chịu, do đó dùng nọc
độc bằng lửa dữ phun ra trong am nơi nhà Sư ở và bỏ chồng mình, hiện
nguyên hình là cốt rắn xanh để bay về thiên giới.
Tại chùa Kim Sơn.
Sau khi đi thăm chùa
Kim Sơn phái đoàn đã lên xe Bus để đi Vô Hy đến thăm Linh Sơn Đại Phật tại
đây. Ở đây thuộc vùng Thái Hồ. Nghe người hướng dẫn viên bảo rằng chính
quyền cho xây tượng Linh Sơn Đại Phật ở đây vì lẽ Tây, Bắc, Nam đã có
những tượng lớn. Riêng tại miền Đông nầy chưa có, nên cách đây vài ba năm
tôn tượng Đức Phật A-Di-Đà nầy đã được làm xong. Khách thập phương hằng hà
sa số đến thăm. Tôi đã có nhân duyên đi thăm đủ cả 5 tượng của Trung Quốc,
đó là:
Giang Thiên Nhất
Lãm.
- Tượng lớn ở Vân
Cương Thạch Động thuộc Đại Đồng nằm về phía Bắc. Tượng được đục vào trong
núi đá.
- Tượng thứ hai cũng
bằng đá nằm ở miền Trung nước Trung Hoa, hiện tại là tỉnh Hà Nam và trước
đây là kinh đô Lạc Dương. Nơi nầy gọi là Long Môn Thạch Động. Tượng làm
thời Hoàng Hậu Võ Tắc Thiên; nên nét mặt của tượng là nét mặt của Hoàng
Hậu. Trong 5 tượng tồn tại ở Trung Quốc có lẽ tượng nầy là tượng đẹp nhất,
mặc dầu đã hơn 1.300 năm lịch sử.
- Tượng thứ ba ở Lạc
Sơn thuộc miền Tây Trung Quốc, hiện tại nằm ở tỉnh Tứ Xuyên.
- Tượng thứ tư gọi
là Thiên Đàn Đại Phật nằm ở đảo Lantau tại Hồng Kông.
-Tượng thứ năm nầy
gọi là Linh Sơn Đại Phật nằm ở Vô Hy thuộc tỉnh Giang Tô.
Hình 27: Đức Phật
Di-Đà tại Vô Hy, bằng đồng, cao 101 thước (xây dựng năm 1997)
Tượng tại Vô Hy bắt
đầu xây vào ngày 1.10.1994 đến ngày 15.11.1997 thì khánh thành. Nghĩa là
hơn 3 năm trường thi công. Tượng cao 88 thước với hình dáng của Đức Di-Đà
đang phóng quang. Kể cả đài sen, cao tổng cộng 101 thước. Hiện tại tượng
nầy là tượng cao nhất Trung Quốc. Từ xa nhìn đến vị trí của tượng chiếm
hết cả một hòn núi và cao hơn những hòn núi chung quanh nữa. Nhiều lúc
trên đầu của tượng phủ mây chung quanh, nếu gặp hôm trời xấu. Khoảng 700
tấn đồng được dùng để đúc tượng nầy và nơi đây có một chùa chính gọi là
chùa Huyền Vô.
Ở đây cũng xin mở
một dấu ngoặc - chẳng biết tại sao ở Trung Quốc vừa cấm phát triển Đạo
Phật dưới hình thức nầy hay hình thức khác; nhưng đồng thời Trung Quốc
cũng cho phép xây dựng những tượng Phật khổng lồ như thế nầy? Có phải đây
là một sự sám hối? một lời chuộc tội với Phật Giáo? hay là một cách để
kinh tài? Nhưng dẫu gì đi nữa thì Phật Giáo chơn chánh vẫn luôn luôn tồn
tại ngàn đời với núi sông, tình người, ngoại vật. Còn những gì không hợp
với chân lý thì trước sau gì cũng sẽ bị tan biến theo lẽ sinh diệt của sự
vô thường.
Trong lòng tượng có
thờ 10.000 tượng nhỏ Phật A-Di-Đà . Ngoài ra cũng có tạc lại những tượng
Phật lớn ở Đại Đồng, Vân Cương Thạch Động v.v... Phái đoàn mua vé lên trên
tòa sen trong khi trời mưa bão chập chùng bên ngoài. Tôi đã kê đầu vào
móng chân út của Ngài để đảnh lễ và tự mình lấy tay để đo thử độ lớn của
móng chân là bao nhiêu. Kết quả cho thấy 70 cm (bảy tấc). Nhìn từ đây lên,
không thấy thân hình bên trên của Đức Phật. Viết đến đây tôi lại nhớ đến
chuyện Tây Phương Du Ký của Ngài Khoán Tịnh Hòa Thượng đã về được Tây
Phương Cực Lạc do sự trợ dẫn của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Khi Ngài đến gặp
được Đức Phật A-Di-Đà, Ngài diễn tả là ngón chân của Ngài to bằng cả nước
Thái Lan, Singapore và Mã Lai hợp lại chắc cũng là một điều hiển nhiên;
khiến Ngài không thấy được từ dung của Đức Phật; nên Phật đã hóa hiện nhỏ
lại để Ngài Khoán Tịnh đảnh lễ.
Phái đoàn đứng dưới
hai bàn chân Linh Sơn Đại Phật.
Mỗi cõi nước đều do
phước báu mà thành tựu công đức. Ví dụ một hôm Ngài Mục Kiền Liên muốn
dùng thần lực của mình để quán sát âm thanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
xa đến độ nào, thế là Ngài thâu thần lại chỉ cố tâm nghe. Cuối cùng Ngài
đã đến được cõi của Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai. Tại đây Ngài Mục Kiền
Liên bị Đại Chúng Bồ Tát của Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai chỉ thấy
như một con kiến thật nhỏ bò trên miệng bình bát. Điều nầy có nói rất rõ
trong Đại Trí Độ Luận. Dĩ nhiên là sự thật; nhưng do cõi nước và phước báu
khác nhau; nên mới có kết quả như vậy. Nếu từ thế giới loài người chúng ta
nhìn xuống thế giới loài kiến cũng vậy thôi và ngược lại từ những loại vi
trùng li ti, chắc chúng thấy loài người là phước báu nhiều lắm rồi. Chứ
chúng ta đâu có biết rằng còn không biết bao nhiêu cõi nước trong tam
thiên đại thiên thế giới có nhiều hoặc ít phước báu hơn do sự gây tạo
phước và tội mà thành.
Từ Linh Sơn Đại Phật
nhìn xuống.
Chúng tôi quan sát
những cánh cửa ra vào dưới bệ tượng tất cả đều bằng đồng và bên trong có
thang máy lên đến tầng năm, lúc ấy mới chỉ là đài sen nơi Đức Phật đứng.
Tôi nhìn người mà ngẫm đến ta. Không biết bao giờ Phật Giáo Việt Nam mới
có được một kỳ công như thế ?
Trên đường về lại
khách sạn chúng tôi đã quan sát Thái Hồ qua làn sương mỏng và gió lạnh bên
ngoài khung cửa kính xe hơi, và được biết như sau: Vùng Thái Hồ có chiều
ngang rộng 45 cây số và chiều dài 75 cây số. Chiều sâu từ 2 thước trở
xuống. Chỗ sâu nhất là 5 thước. Trong hồ có 3 loại đặc biệt. Đó là đá Thái
Hồ, cá bạc và ngọc trai. Đá Thái Hồ là một loại đá có lỗ thông qua nhiều
nơi khác nhau trên cùng một hòn đá. Người ta hay dùng đá nầy để trang trí
trong cung điện của vua chúa hoặc hoa viên của những nhà giàu có.
Tại hồ nầy cũng có
một loại cá bạc mà thân hình chúng được cấu tạo bởi màu bạc cũng như các
chất bạch kim và ngoài ra tại Thái Hồ người ta có nuôi ngọc trai. Đây cũng
chỉ là ngọc trai của nước ngọt; nhưng được nhiều người xử dụng đến. Vì
chúng được lấy ra từ Thái Hồ. Người ta phải bỏ một hạt cát vào trong lòng
của con trai và khi con trai lớn lên, chung quanh hạt cát nầy bao bọc bởi
những chất cứng của con trai và lâu ngày trở thành ngọc trai. Khi người ta
lấy ngọc của con trai cũng có nghĩa là con trai ấy sẽ chết và từ ngọc trai
ấy người ta có thể dùng làm đồ trang sức, phấn son để làm cho đẹp da mặt
cũng như trị một vài bịnh đặc biệt khác.
Khi đến Thái Hồ
chúng tôi lại liên tưởng đến Động Đình Hồ, nơi phát xuất của Tổ tiên Việt
Nam chúng ta và giở bản đồ ra xem thì Động Đình Hồ ngày nay vẫn còn, hiện
nằm ở tỉnh Hồ Nam, gần địa danh gọi là Trường Sa. Động Đình Hồ có lẽ cũng
gần bằng một trong Ngũ Đại Hồ ở Mỹ. Tôi ước gì có dịp sẽ trở lại đây để
tìm vết tích của "cháu 3 đời vua Thần Nông là Đế Minh, kết duyên với nàng
Tiên sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục đến Hồ Động Đình sinh ra Lạc Long Quân. Lạc
Long Quân lấy Bà Âu-Cơ sinh 100 cái trứng và đẻ ra 100 người con v.v..."
thuyết nầy bây giờ người Việt Nam vẫn còn xử dụng để chứng minh cho 4.000
năm văn hiến của mình và hy vọng có ngày sẽ tìm ra gốc rễ ấy.
Tối hôm đó chúng tôi
ở lại tại khách sạn Holiday Inn của Mỹ và hôm đó gặp ngày mồng 1 tháng 9
âm lịch nên mọi người trong đoàn đều ăn chay; anh thông dịch viên đưa qua
một tiệm chay đặc biệt, nhập cảng rất nhiều đồ chay từ Đài Loan và có lẽ
đây là một tiệm chay duy nhất tại xứ Trung Quốc hơn 1 tỷ người mà phái
đoàn của chúng tôi đã đi qua. Những nơi không chuyên môn nấu chay, đặt đồ
họ nấu mà mình phải chỉ cách họ mới biết nấu. Vì lẽ 50 năm xã hội Cộng
Sản, đa phần người ta đã không biết ăn chay là gì. Chủ quán tại đây là một
Phật Tử. Bước lên tầng trên thấy có thờ Phật và lần đầu tiên tôi thấy một
người Phật Tử Trung Quốc chắp tay chào quý Thầy, quý Cô trong phái đoàn.
Trên tường cũng có viết 4 chữ đại tự: Từ, Bi, Hỷ, Xả, cũng như một chữ
Thiền rất lớn. Các cửa sổ và các hình chắn giữa các bàn ăn đều có khắc
chạm hình hoa sen trông rất đẹp mắt.
Ở cái xứ đất rộng
người đông nầy quả thật làm thân lữ thứ rất bơ vơ; nếu chúng ta không biết
ít nhiều về ngôn ngữ và phong tục, tập quán. Cũng may cho chúng tôi là
trong đoàn có nhiều người biết nhiều thứ tiếng khác nhau nên cũng đỡ buồn
tẻ. Nếu ngôn ngữ nầy không xử dụng được thì lại dùng đến ngôn ngữ khác, mà
cuối cùng nếu ngôn ngữ nào cũng chẳng hiểu thì cũng có thể nói với nhau
bằng cách ra dấu tay với nhau, mọi việc rồi cũng huề. Tại đây không khí đã
thanh lịch, mà chủ quán là một Phật Tử nữa; nên câu chuyện lại dòn tan như
những gì đã nổi trôi trong 6 nẻo luân hồi.
Tô Châu
▲
Hôm nay là ngày 10
tháng 10 năm 1999 tại Đài Loan kỷ niệm 50 năm lập quốc; trong khi đó cách
đây 9 ngày thì Trung Quốc kỷ niệm 50 năm chủ nghĩa Cộng Sản đã toàn thắng
tại lục địa nầy. Cũng một quốc gia mà hai thể chế, nghĩ lại cũng thấy lạ
đời; nhưng đó là lý tưởng của con người; nên ai thích thì chết sống cho lý
tưởng ấy, để rồi thù oán nhau, chém giết lẫn nhau và gây khổ cho nhau.
Tại Tô Châu có ngôi
chùa Hàn Sơn thật nổi tiếng. Ngôi chùa nổi tiếng không phải vì ngôi chùa
lớn hay đẹp; mà ngôi chùa nổi tiếng chỉ vì một bài thơ của thi nhân nổi
tiếng từ đời nhà Đường tên là Trương Kế. Bài thơ nầy được viết lại bằng
chữ Hán như sau:
Dịch âm:
Phong Kiều Dạ Bạc
Nguyệt lạc ô đề
sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa
đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại
Hàn Sơn Tự
Dạ bán chung thinh
đáo khách thuyền.
Trương Kế
Dịch sát nghĩa:
Cây phong bên cầu
nước bạc ban đêm
Trăng soi quạ kêu
sương đầy trời
Cây phong bên bờ
sông lửa chài đối lại cảnh buồn
Ngoài thành Cô Tô có
chùa Hàn San
Nửa đêm nghe tiếng
chuông vang đến thuyền của khách.
Hàn Sơn tự tại Tô
Châu
Câu chuyện được kể
lại rằng: Có một chàng nho sinh đi thi về, ghé trọ lại trên thuyền đậu
trên sông gần đó. Nửa đêm ông ta nghe tiếng chuông và thức giấc dậy. Bài
thơ nầy thuộc loại thơ Đường gồm 4 câu, mỗi câu 7 chữ, gọi là thất ngôn tứ
cú. Nếu nói nội dung của bài thơ thì Trương Kế diễn tả tâm sự của mình như
thế cũng chỉ là chuyện bình thường thôi; nhưng âm điệu của bài thơ mới là
điều đáng kể. Các thi nhân, học giả Việt Nam của chúng ta cũng đua nhau
dịch bài thơ nầy; nhưng nhiều khi đúng được vần điệu, thì sai về ý nghĩa.
Ví dụ chữ giang phong mà dịch gió sông là sai. Chữ phong ( ) đây có
nghĩa là cây phong, là một cây sau sau. Trong Chinh Phụ Ngâm có diễn tả
rằng:
"... rừng cây phong
đã một màu thu sang" ...
Vậy phong đây là cây
chứ không phải là gió. Trước đây tôi cũng nghĩ là gió; nhưng sau khi đối
chiếu lại bản chính nơi chùa Hàn San và bản nầy cũng có treo tại chùa
Khuông Việt ở Na-Uy, tất cả chữ phong đều viết là ( ) , có nghĩa là
cây phong chứ không phải gió.
Trần Trọng Kim một
học giả của Việt Nam đã dịch bài nầy ra như sau:
"Trăng tà tiếng quạ
kêu sương
Gió sông hương lửa
sầu vương mái chài
Thuyền ai đậu bến Cô
Tô
Nửa đêm nghe tiếng
chuông chùa Hàn San"
Thật ra dịch như thế
là quá tuyệt vời; nhưng so ra ý nghĩa của câu chữ Hán có nhiều chữ bị ép
như "tiếng quạ kêu sương" chẳng hạn. Thật sự trăng đã xuống, có tiếng quạ
kêu trong bầu trời đầy sương, chứ không phải kêu sương, nó trở thành một
hình ảnh khác và hình ảnh cây phong bên bờ sông chứ không phải gió sông.
Nếu phân tích ra từng chữ thì bài thơ nó mất hay đi; nên xin để nguyên văn
như vậy thì hay hơn. Dẫu sao đi nữa trên cuộc đời nầy cái gì nó cũng tương
đối thôi, chứ có cái gì tuyệt đối đâu.
Tại đây còn một
chiếc cầu tồn tại đã 1.400 năm và tương truyền rằng chiếc cầu nầy có trước
thời thi nhân Trương Kế đến đây. Trước chùa Hàn Sơn có 3 chữ đại tự rất
đẹp viết là .................. (Hàn Sơn tự). Có chuyện kể rằng sở dĩ
chữ đẹp như vậy cho nên người viết đòi 3.000 đồng để viết 3 chữ, mà chùa
thì chỉ có 2.000 đồng nên chỉ viết có 2 chữ, còn chữ Tự ( ) mới
viết vào sau, nên nét viết không sắc sảo bằng.
Người thông dịch
viên tiếng Anh hoàn hảo tại đây cũng có cho biết rằng: Tô Châu ngày nay
cũng chính là Cô Tô ngày trước và tại đây Phật Giáo Nhật Bản cũng đã xây
một ngôi tháp 5 tầng để kỷ niệm Ngài Giám Chân và Ngài Không Hải người
Nhật Bản ở những thế kỷ thứ 7, thứ 8 đã đến Trung Hoa học đạo và sau đó
mang đạo Phật về lại Nhật; nên người Nhật đến thăm chùa nầy rất đông.
Năm 1974 khi tôi còn
ở Nhật, tôi đã coi phim về Ngài Giám Chân rồi. Phim đóng rất công phu và
hình như lúc bấy giờ được giải thưởng gì đó tại Nhật và Trung Quốc mà tôi
quên rồi. Nhiều vị Thiền Sư người Nhật đến Trung Quốc học đạo như Ngài Đạo
Nguyên (Dogen) chẳng hạn, khi về lại Nhật, Ngài đã biến cải hoàn toàn
thành loại Thiền của Nhật Bản. Còn Việt Nam chúng ta theo một số sử sách
cho biết có những Đại Sư từ Việt Nam sang Trung Quốc để dạy đạo như Ngài
Khương Tăng Hội chẳng hạn; nhưng ngày nay tại Trung Quốc không còn bao
nhiêu di tích về vấn đề nầy cả. Có lẽ thời gian lâu quá rồi, mọi việc đã
đi vào quên lãng chăng?
Cầu đá cổ trước
chùa Hàn Sơn.
Người Trung Hoa ở
ngoại quốc đã gởi tiền về đây để xây dựng lại chùa nầy và những Đại Hồng
Chung cũng được đúc lại. Có lẽ cái chuông thời Trương Kế không còn nữa và
ngày nay người ta cố gắng tạo lại phong cảnh xưa để cho du khách đến càng
ngày càng đông hơn.
Nội viên chùa Hàn
Sơn ở Tô Châu.
Tại đây cũng có thờ
tượng Ngài Hàn Sơn và Ngài Thập Đắc nữa. Không biết câu chuyện của hai
Ngài nầy có liên hệ gì với chùa nầy không, nhưng nhân đây cũng xin kể lại
chuyện của hai Ngài như sau: "Ngài Hàn Sơn là người tu hành trong núi
tuyết, lạnh lẽo quanh năm, cuối cùng thì đã gặp Ngài Thập Đắc là một đứa
con rơi, do Hòa Thượng nhặt được trước cửa chùa, nên Hòa Thượng đã đặt tên
cho là đứa trẻ nhặt được (Thập Đắc). Hai vị nầy vào ở tu chung trong một
chùa; nhưng rất nghịch ngợm. Không lo làm công việc chùa, không thuộc
kinh, không bái sám. Thường thường chơi nghịch; một người cỡi lên Voi
trắng để làm Ngài Phổ Hiền; một người khác hay cỡi lên lưng con Thanh sư
để làm Ngài Văn Thù. Một hôm Hòa Thượng bắt được mới quở cho một phen. Từ
đó hai Ngài chỉ lo làm những nhiệm vụ ở nhà bếp.
Một hôm trong làng
nọ có một quan đang bệnh nặng và được Ngài Di-Lặc báo mộng cho rằng hãy
đến chùa đó để gặp hai Ngài Hàn San và Thập Đắc để xin thuốc uống thì bệnh
hẳn lành. Quả thật như vậy, sau khi lành bệnh vị quan kia cùng với gia
nhân đến chùa lễ tạ Phật và muốn tìm cho được hai Ngài để đảnh lễ. Cả chùa
Tăng chúng lại ngạc nhiên, vì lâu nay dưới mắt họ, hai Ngài chỉ là những
người làm biếng; nhưng không ngờ Ngài là hóa thân của hai Ngài Bồ Tát
Thượng Thủ của Đức Phật. Đó là Ngài Văn Thù và Ngài Phổ Hiền. Hai Ngài
biến dạng không còn thấy nữa và có lời trách rằng sao Ngài Di-Lặc cho biết
gì mà sớm thế".
Sau khi chúng tôi đi
thăm chùa Hàn San thì xe Bus chở đi dạo phố và thăm con kênh đào đã có từ
1.300 năm nay, có chiều dài là 45 cây số. Đời nhà Thanh, vua Càn Long đã
thăm Tô Châu đến 6 lần cũng bằng thuyền, đi từ Bắc Kinh.
Vọng Cố Nhân Lầu tại
Chuyết Chính Viên ở Tô Châu
Tiếp theo chúng tôi
đã đi thăm vườn "Chuyết Chính Viên". Ngôi vườn nầy do một ông quan giàu có
tạo nên cách đây 500 năm về trước. Đây là một tiểu quốc nhỏ của một ông
quan xưa. Vườn nầy rộng độ 4 mẫu đất, nằm giữa thành phố Tô Châu và trong
vườn có nơi ngắm nguyệt, thưởng hoa và cách 400 hay 500 năm về trước mà
các cánh cửa đều làm bằng kiếng màu thì phải nói rằng chỉ có những người
giàu có mới làm nên được mà thôi. Từ trong nhà nhìn mặt trời qua bốn mùa
Xuân Hạ Thu Đông màu sắc sẽ thay đổi. Đây là một lối thưởng ngoạn của giai
cấp quan lại giàu có lúc bấy giờ. Trong tất cả những ngôi nhà ở Chuyết
Chánh Viên nầy có tất cả là 1.000 cửa sổ và mỗi cửa sổ chạm trổ cũng như
đục đẽo gỗ đá khác nhau, không có cái nào giống cái nào cả. Chùa Viên Giác
tại Hannover chỉ có 99 cái cửa sổ mà cửa nào cũng giống cửa nào; trong khi
đó Chuyết Chánh Viên nầy có cả 1.000 cái cửa sổ thì phải biết tòa lâu đài
nầy nó to lớn biết là dường nào rồi.
Trong vườn nầy có
trồng những cây tùng, cây bách đã 400 - 500 năm cùng thời với chủ của nó
mà ngày nay vẫn còn tồn tại. Ngoài ra cũng có một số cây ăn trái, cây soái
để ướp trà. Cây soái không cao lắm; nhưng nở hoa thơm ngát cả một bầu
trời. Đứng gần cây soái mình cũng thơm lây. Quả thật, nếu chúng ta luôn
luôn gần người Đức Hạnh, Đạo Đức chắc chắn chúng ta sẽ được ảnh hưởng lây.
Nếu gần người ác thì trước sau gì chúng ta cũng sẽ bị những việc dở, việc
quấy nó quấy rầy mình.
Sau khi thăm Vườn
Chuyết Chánh, chúng tôi đã đến thăm một nơi dệt lụa. Trông những cái kén
nhỏ xíu; nhưng phải nhả ra hằng trăm thước tơ. Trong ruột kén có chứa một
con nhộng con. Đây là hóa thân của con tằm đã bao ngày xe tơ và chọn cho
mình một kiếp sống như thế. Ai có học luật Phật rồi, khi nhìn vào đây thì
không nỡ nào mặc những áo làm bằng tơ tằm, trông tội nghiệp làm sao! Nhưng
đã có không ít người dùng những loại hàng quý giá như thế!
Bên Lan đình
Nội thất trong
Chuyết Chính Viên
Cùng Thầy Thông Trí
bên Bạch Liên hồ
Riêng tôi không phải
giống con tằm; nhưng là nghiệp viết vì thiết nghĩ rằng nếu ngày nay có cơ
hội nầy mà không viết thì còn chờ đến lúc nào nữa mới viết. Do vậy mà cứ
giờ nầy qua giờ khác miệt mài với bút với giấy, với bàn với đèn. Đúng là
cái nghiệp văn chương; nhưng biết làm sao hơn, khi tôi muốn lưu lại một
cái gì đó ở tương lai khi bước chân mình đã trôi qua đi với thời gian và
không biết đến bao giờ mới có cơ hội đến cõi nầy nữa.
Hàng tơ lụa
Sau đó chúng tôi về
lại khách sạn, ăn cơm tối và một số vị khác thì đi dạo phố. Vì Tô Châu
cảnh rất đẹp, hạ giới thật khó có nơi nào bằng. Tôi đi rất nhiều nơi và
đến nhiều chỗ; nhưng khi đến Trung Quốc rồi thì thấy cảnh vật ở đây chẳng
có nơi nào bằng.
Ngày nay tại Trung
Quốc có nhiều cửa hàng tư nhân và tại đây người ta bày bán đủ mọi thứ đồ
cần dùng cho khách du lịch. Vì vậy mọi người đều có cơ hội để đi mua sắm
và về làm quà cho bạn bè thân thích nơi mình ở.
Người xưa đâu còn
nữa.
Trên đường đi và đến Thượng Hải
▲
Chúng ta ai cũng
biết bài hát "Bên Bờ Thượng Hải" bằng tiếng Tàu cũng như tiếng Việt hoặc
tiếng Nhựt, vì bài hát nầy rất phổ thông và cũng đã có nhiều người ước mơ
đến Thượng Hải được một lần. Vì Thượng Hải được xem như là Hoàng Hậu của
Đông Phương và Paris của Trung Quốc; nếu so sánh Sàigòn là hòn ngọc của
Viễn Đông, thì Thượng Hải có một vị trí đặc biệt khác. Trong khi diện tích
của Bắc Kinh có đến 16.800 cây số vuông mà chỉ có 12 triệu 600 ngàn người
ở; thì Thượng Hải lại đông đúc hơn, có vẻ Tây phương hơn. Diện tích của
Thượng Hải có 6.200 cây số vuông mà có đến 14 triệu 200 ngàn dân. Dân số ở
đây đông hơn Bắc Kinh mà có diện tích để ở gần bằng một phần ba của Bắc
Kinh. Đây là thành phố có mật độ cao nhất nhì trên thế giới, nếu so với
Tokyo hay New York.
Lịch sử của Thượng
Hải có nhiều biến đổi hơn những nơi khác, Vì vậy năm 1842 sau chiến tranh
nha phiến người Anh đã có mặt nơi đây; nhưng trước đó thì Thượng Hải thuộc
Pháp. Khoảng giữa thế kỷ thứ 18, Thượng Hải chỉ có 50.000 dân và đến năm
1900 có một triệu dân cư ngụ, trong đó có 60.000 người ngoại quốc. Thành
phố nầy cũng đã bị Nhật chiếm và năm 1921 Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng đã
được thành lập tại đây; đến năm 1949 thì Thượng Hải trở thành một thương
cảng tự do cho đến bây giờ. Ai đó đang đi trên đường phố của Thượng Hải có
thể nghĩ rằng mình đang đi đâu đó trên hè phố của Paris hoặc London.
Tôi đi trên xe Bus
và ngồi đếm thử cứ 10 chiếc xe hơi tại Thượng Hải thì đã hết 8 chiếc hiệu
Volkswagen của Đức được sản xuất tại đây. Nhưng đa phần người Trung Quốc
nói là xe của họ sản xuất. Trên thực tế nhân công của Trung Quốc; nhưng
máy móc và nhãn hiệu của Đức. Hai chiếc còn lại thuộc về Nhựt và Mỹ. Giữa
Trung Quốc và nước Đức có số mậu dịch lớn như vậy cho nên các chính khách
giữa hai nước cũng thường hay đến thăm viếng nhau. Bên Đức thì đặt ra vấn
đề nhân quyền; trong khi đó Trung Quốc lại phớt lờ việc nầy. Vì cho rằng
đó là việc nội bộ của họ. Tại đây lá cờ Đảng Cộng Sản chỉ được treo nơi
công sở, còn chung quanh dân chúng không trang hoàng cờ xí để mừng Quốc
Khánh rực rỡ như ở thủ đô chính trị Bắc Kinh.
Lá cờ của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc có một ngôi sao lớn và 4 ngôi sao nhỏ chung quanh. Ngôi sao
lớn tượng trưng cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Còn 4 ngôi sao nhỏ tượng
trưng cho học sinh, nông dân, công nhân và thương nhân. Đây là 4 thành
phần trung thành với Đảng. Nếu xét cho cùng thì giới trí thức không có mặt
nơi nầy. Như vậy Đảng Cộng Sản là một Đảng của nông dân, công nhân, và
người lãnh đạo Đảng lợi dụng lòng tin của những giai cấp nầy để đè đầu ức
hiếp họ. Nếu thành phần trí thức có mặt trong Đảng Cộng Sản thì những
người lãnh đạo khó làm việc; nhưng mỗi thế hệ lại khác nhau; nên nhiều
Đảng Cộng Sản Nga Sô và Đông Âu đã thoái hóa. Lý do là cao trào dân chủ và
trí thức dâng cao thì người Cộng Sản không thể mị dân được nữa.
Đặng Tiểu Bình chủ
trương khác Mao Trạch Đông rằng: "Dẫu mèo trắng hay mèo đen không cần
biết, chỉ cần biết bắt chuột là đủ". Từ tinh thần nầy, nước Trung Hoa Cộng
Sản đã bắt đầu đổi mới từ năm 1976 đến nay và Cộng Sản Việt Nam không còn
bám víu Liên Sô được nữa, nên năm 1986 cũng đã bắt đầu áp dụng chính sách
mở cửa. Nếu không có chính sách nầy thì chúng tôi cũng khó mà có mặt ở
Trung Quốc và ngay cả Việt Nam sau nầy cũng đã thay đổi đường lối nầy; nên
nhiều người đã về lại Việt Nam để thăm quê hương của mình sau bao nhiêu
năm xa cách. Điều ấy tốt hay xấu, chúng ta chưa cần bàn đến, chỉ biết rằng
ai là con người đều cũng phải có quê hương. Nếu làm người thiếu quê hương
thì không lớn khôn trọn vẹn được. Chủ nghĩa nào rồi cũng khó mà tồn tại
ngàn năm. Chỉ có quê hương, tình người, Dân Tộc và Đạo Pháp mới là những
điều đáng nói mà thôi.
Trước đây thành phố
Thượng Hải cũng chỉ là thành phố ngư nghiệp; nhưng kể từ thế kỷ thứ 13 trở
đi Thượng Hải trở thành một thành phố thương mại và đến năm 1842 đời nhà
Thanh đã mở ra 5 hải cảng để buôn bán với ngoại quốc, mà Thượng Hải là một
trong những hải cảng quan trọng nhất của Á Châu ngày nay. Người Thượng Hải
cũng lịch sự, sang trọng không kém gì người Âu Mỹ. Nếu so Thượng Hải với
thành phố Heidelberg của Đức thì Thượng Hải lớn hơn 100 lần như vậy.
Sau khi dùng cơm
trưa tại khách sạn, cả phái đoàn chúng tôi đi thăm Dụ Viên ( ) ở tại
Thượng Hải. Đây là một ngôi vườn của một vị quan Thượng Thư của Triều
Đình, nhỏ hơn Chuyết Chính Viên ở Tô Châu; nhưng có nhiều điểm đặc biệt
hơn. Trước đây Dụ Viên tọa lạc trên 5 mẫu đất ở ngay trung tâm phố Thượng
Hải và tất cả những công trình nầy phải dựng trong vòng 20 năm mới xong.
Bây giờ sau khi cộng sản nắm chính quyền, họ tổ chức thu gọn lại nên ngôi
vườn nầy chỉ còn lại 2 mẫu. Trong nầy có miếu thờ Thần Hoàng để bảo vệ cho
dân chúng Thượng Hải. Vị Thần Hoàng nầy được hiểu như là một người có
thật. Vào thời nhà Minh, vua mời ông ta ra làm quan; nhưng ông đã từ chối
và ông chỉ phát nguyện khi ông chết, ông sẽ là người giữ gìn Thượng Hải và
kể từ đó trở đi người ta có miếu thờ Thần Hoàng. Vì vậy ở tại Dụ Viên nầy
có nhiều người đến thăm miếu và cầu nguyện tại đây.
Dụ Viên tại Thượng
Hải
Tối hôm ngày 11
tháng 10 năm 1999 chúng tôi được Ban Tổ Chức Du Lịch đãi một buổi xem xiệc
Thượng Hải để đền bù về những thiếu sót, sơ hở tại Cửu Hoa Sơn vừa rồi về
chỗ ăn, chỗ nghỉ tại đó. Phải thành thật mà nói cách tổ chức du lịch của
Trung Quốc quá hoàn hảo. Đi đâu và đến đâu cũng có người lo tiếp đón và
hướng dẫn, từ khách sạn cho đến du lịch. Chỉ khổ một nỗi của phái đoàn là
đến đâu cũng phải nói với người thông dịch bảo cho đầu bếp biết rằng đừng
cho dầu vào đồ ăn nhiều; nhưng rồi đâu cũng vào đấy. Cho đến việc phái
đoàn muốn dùng rau tươi, bảo chỉ luộc với nước sôi thôi, mà họ cũng đem
vào nhúng trong dầu. Đem ra, ai cũng hỡi ôi! Nhiều người khàn cả cổ không
nói nên lời. Nhiều người ho ra đàm và cảm cúm cũng chỉ vì không khí ô
nhiễm cũng như cho quá nhiều dầu trong đồ ăn.
Dụ Viên
Bác sĩ Trâm mỗi lần
giải thích cho người thông dịch là mỗi lần không hiểu nổi tại sao họ không
làm theo mình. Có lẽ vì họ tự ái nghề nghiệp chăng? hay các người đầu bếp
họ chỉ lo bảo thủ nghề nghiệp của họ. Nơi nào mà được những đĩa rau luộc
không có dầu để chấm xì-dầu là ai cũng hoan hô, mừng rỡ. Mấy ngày đầu ai
ăn đồ Tàu cũng rất hoan hỷ; nhưng ăn từ 3 ngày đến một tuần thì ớn lạnh;
lúc bấy giờ chỉ còn mì gói, muối mè, xì-dầu là tốt nhất. Không biết người
ngoại quốc hay người Hoa họ ăn món Việt Nam họ nghĩ sao, chứ người Việt
Nam mà ăn đồ Trung Quốc cảm thấy nó ngán đến cần cổ. Chỉ trừ các thức ăn
từ tỉnh Quảng Đông trở xuống có phần giống với Việt Nam nên thức ăn lại
hợp khẩu vị hơn.
Trong Dụ Viên ở
Thượng Hải
Một điều đặc biệt
khác nữa là người Trung Quốc không ăn đồ ăn với cơm là món chính như người
Nhựt hay Việt Nam mình, mà cơm lúc nào cũng cho mang ra sau cùng, khiến
cho cả đoàn đều chờ dài cả cổ. Trong khi đó những người bồi bàn cứ đứng
nhìn tại sao mình lại không bắt đầu cầm đũa để họ còn phải dọn bàn nữa.
Quả là phong tục tập quán có khác nhau rất nhiều giữa các dân tộc trên quả
địa cầu nầy. Do vậy mà cái nào hay, cái nào dở. Cái nào tốt, cái nào
xấu... nó chỉ nằm ở chỗ đối đãi và lý luận theo lối nhị nguyên mà thôi.
Tại rạp hát xiệc hôm
đó toàn là người ngoại quốc. Tôi tình cờ ngồi gần một đoàn du khách Nhật
Bản, tôi giả lờ như không biết tiếng Nhựt để xem họ nói chuyện hay bình
phẩm những gì. Cuối cùng thì được nghe là: Tại sao không giới thiệu chương
trình bằng tiếng Nhựt, mà chỉ có tiếng Anh và tiếng Trung Quốc? Tôi ngồi
bên mà cười thầm cho cái tinh thần đế quốc của người Nhựt vẫn còn nơi dòng
máu của họ. Thật ra vì người Nhựt đi du lịch nhiều và đây là mối lợi lớn
của những nước mà họ đến; nên tại phi trường, khách sạn v.v... đa phần đều
có xử dụng tiếng Nhựt như ở Úc và ngay cả ở Mỹ nữa; nhưng đâu phải nhứt
thiết chỗ nào cũng phải nói tiếng Nhựt đâu. Làm như thế người Nhựt sẽ lười
biếng không học tiếng Anh. Người Nhựt cũng có nhiều người nói được nhiều
thứ tiếng nhưng không giỏi mấy. Vì lẽ ngôn ngữ của họ mẫu âm nhiều, tử âm
ít; nên khi đọc khỏi cần nhấn dấu giọng, mọi người đều hiểu; nhưng tiếng
ngoại quốc thì ngược lại; nên cần phải có dấu nhấn mới đúng giọng được.
Những màn múa sư tử,
xoay đĩa, nhảy vòng, đi xe đạp v.v... đã làm cho nhiều người xem xiệc
nhiệt liệt tán thưởng. Vì tất cả đều điêu luyện. Trên một chiếc xe đạp
bình thường mà có đến 12 người nam nữ, lớn nhỏ chồng chất lên đó. Nếu là
người Âu Mỹ chắc chiếc xe đạp nầy sẽ bị xẹp xuống. Vì thể lực của người Âu
Mỹ nặng gấp 2, gấp 3 người Á Châu mình.
Đẹp nhất là màn múa
sư tử. Vì tại Âu Mỹ không có. Ngoài ra tại Trung Quốc cũng có múa rồng;
nhưng ở Việt Nam chúng ta thì có múa lân. Con lân khác con sư tử và con
rồng; nhưng múa lân thì vui nhộn hơn và rầm rộ hơn. Tuy nhiên múa sư tử và
múa rồng cũng có cái hay đặc biệt của nó.
Sau khi xem xiệc
phái đoàn đã ra về trong sự hỉ hả của tâm hồn. Vì đây là một sự đền bù rất
xứng đáng, cái hay, cái đẹp ở đâu ai cũng thích. Cái dở, cái xấu ở bất cứ
nơi nào cũng bị ghét gỏng chối từ. Vì vậy là con người nên gạn đục khơi
trong để nơi tận cùng của tâm thức mình ai ai cũng sẽ trở về con đường
toàn thiện và toàn giác.
Phái đoàn ai cũng
muốn ở lại Thượng Hải thêm một ngày nữa; nhưng điều ấy không đơn giản.Vì
lẽ khách sạn, nơi ăn, chốn ở v.v... đã được định trước; nên không có cách
gì hơn là phải chuẩn bị hành lý để lên đường và lần nầy chúng tôi cũng
được đi một đoạn máy bay nội địa lần thứ hai trong chuyến hành trình dài,
lâu và xa xôi diệu vợi nầy.
Hôm nay thì có nhiều
người trong đoàn đã bắt đầu nhớ nhà nên đã mua Carte điện thoại để gọi đi
khắp nơi để báo tin và hỏi han. Đây cũng là một chuyện bình thường của
nhân thế mà thôi. Chưa đi thì mong đi. Đi rồi thì mong đến. Đến rồi thì
mong cho mau xong. Xong rồi thì mong về liền. Về xong rồi lại chuẩn bị cho
một cuộc hành trình khác. Quả là con người có nhiều điều để đáng nói đến.
Đến nơi Đường Minh Hoàng
du nguyệt điện
▲
Thành Đô
Từ 8 giờ sáng ngày
10 tháng 10 năm 1999 phái đoàn chúng tôi đã lên xe Bus để đến phi trường
Thượng Hải, chuẩn bị cho chuyến bay dài 3 tiếng 40 phút đồng hồ. Đây là
chuyến bay dài nhất trong nội địa Trung Quốc. Có thể hơn 2.000 cây số. Phi
trường Thượng Hải là một trong những phi trường văn minh nhứt nhì thế
giới, có thể so sánh với các phi trường Âu Mỹ; còn phi trường Bắc Kinh thì
còn lâu lắm mới có thể so sánh được.
Tại phi trường chúng
tôi đã làm thủ tục hải quan và có nộp tiền mới 100 Nhân Dân Tệ cho nhân
viên thâu thuế phi trường nhưng họ không biết. Vì đồng bạc nầy mới phát
hành tại Trung Quốc hôm ngày 1.10.1999 vừa qua. Tại mỗi phi trường nội địa
Trung Quốc, khách ngoại quốc cũng như hành khách nội địa phải đóng thuế
mỗi người 50 Nhân Dân Tệ. Xa lộ tại Trung Quốc cũng vậy, phải đóng nhiều
đoạn khác nhau trên suốt một lộ trình. Nhiều lúc đi đường thật xấu; nhưng
vẫn bị đóng thuế. Tôi hỏi Lương Nghị ngồi bên rằng tại sao đường như thế
nầy mà phải chịu thuế? Lương Nghị trả lời rằng: "Đóng thuế để chính phủ
làm đường mới" và cứ thế mà người dân đã an tâm để làm bổn phận, chẳng
thấy ai kêu nài việc gì cả, mặc dầu cuộc sống của họ rất kham khổ.
Tại phi trường
Thượng Hải tôi có nghe loan báo các chuyến bay đi đâu bằng tiếng Nhựt,
ngoài tiếng Anh và tiếng Trung Hoa. Nghe đâu từ Osaka bay qua Thượng Hải
chừng 2 tiếng đồng hồ và vật giá ở đây rất rẻ so với Nhật; nên từng đoàn
người Nhật đã đến đây để du lịch. Có lẽ đây cũng là địa bàn cũ mà người
Nhật đã có mặt lâu năm tại đây nên họ cũng muốn trở lại nơi xa xưa để thăm
lại nơi mà Nhựt đã chiếm để làm thuộc địa cũng nên.
Phái đoàn đã đến phi
trường Thành Đô Chengtou lúc 13 giờ 40 phút, được một anh thông dịch tên
là Khang Cường nói rành tiếng Đức và sẽ hướng dẫn phái đoàn gần một tuần
lễ tại địa phương nầy.
Từ Thành Đô đến Tào
Ngư Than phải cần 4 tiếng đồng hồ. Do vậy trên xe Bus anh ta có nhiều thì
giờ để giới thiệu về Thành Đô là thủ phủ của Tứ Xuyên và các danh lam
thắng cảnh tại đây. Anh thông dịch có kể rằng có một người Đức tên là
Berthold Brecht đã viết một cuốn sách về người con gái của Tứ Xuyên. Diện
tích của tỉnh Tứ Xuyên rộng 567.000 cây số vuông, có 108.000.000 (108
triệu) dân cư đang sinh sống, nghĩa là tỉnh nầy có diện tích bằng nước
Pháp. Tại tỉnh nầy có lịch sử từ 2.300 đến 2.500 năm. Tỉnh nầy có liên hệ
với các tỉnh của miền Nam Trung Hoa bởi đường văn minh tơ lụa qua sự
chuyên chở của sông nước.
Vào thế kỷ thứ 10 có
một vị quan đến đây cai trị và vị quan nầy rất thích hoa phù dung nên đã
trồng khắp Thành Đô toàn bằng cây phù dung; nên thành phố nầy cũng mang
tên Thành Phố Phù Dung. Điều ấy cũng giống như thành phố Quảng Châu ngày
nay mà ngày xưa đã gọi là Dương Thành. Có lẽ nơi đây có nhiều đoàn dê đã ở
và được nuôi nấng tại đây. Hoa phù dung là một loại hoa sớm nở tối tàn thế
mà cũng có nhiều người thích. Có lẽ ông quan nầy muốn thưởng ngoại về tánh
vô thường của vạn hữu sớm thay đổi như thế chắng?
Thành phố Thành Đô
cũng còn gọi là Thành Phố Tơ Lụa. Vì một phần ba tơ lụa của Trung Quốc
được sản xuất tại đây. Dọc đường trên xe Bus chúng tôi đáo mắt nhìn hai
bên đường thấy đất đai tại đây rất mầu mỡ. Người nông dân chỉ có một thửa
ruộng nhỏ nhưng trồng đủ thứ hoa mầu nào rau, nào lúa, nào cải, nào đậu,
nào khoai, nào sắn v.v...; nhưng cây nào cũng bụ bẫm xinh tươi; nhìn hoài
không thấy chán. Nhiều lúc tôi muốn dừng lại để chụp một vài tấm hình để
lưu niệm; nhưng sợ trễ giờ đến khách sạn; nên lại cố gắng không nghĩ lâu.
Vả lại có chỗ nghỉ dọc đường đi chăng nữa cũng không đàng hoàng lắm. Do đó
mọi người lại vội vã lên xe để đi tiếp.
Dân số Thành Đô có
9.600.000 dân, sống trên diện tích 162.400 cây số vuông. Chung quanh Thành
Đô là núi, ở giữa là thung lũng; nên 80% dân chúng tại đây sống về nghề
nông nên việc trồng dâu nuôi tằm cũng rất dễ dàng và kể từ những thế kỷ
thứ 7, thứ 8 đã có sự liên hệ buôn bán với Ấn Độ và Trung Đông. Vì tại đây
có sông Cẩm Giang chảy ngang qua thành phố nầy. Chữ Cẩm cũng có nghĩa là
tơ lụa, vải sợi. Tại đây cũng là một thành phố văn hóa, vì có thi hào Đỗ
Phủ (712-770) đời nhà Đường xuất thân. Tại đây cũng có công viên và nhà
thờ để tưởng niệm nhà thơ Đỗ Phủ nầy. Tại đây thời Tam Quốc (Ngụy, Thục,
Ngô) Lưu Bị cũng xuất thân từ thành phố nầy. Truyện Tam Quốc có lẽ ai
trong chúng ta cũng đều có nghe hoặc đọc qua, thiết tưởng ở đây không cần
nhắc lại nữa. Chỉ có một điều là phái đoàn chúng tôi đã đến được nơi sinh
trưởng của thi hào Đỗ Phủ cũng như nơi sinh trưởng của Lưu Bị là ai nấy
cũng đều vui mừng rồi.
Đi dọc đường anh
thông dịch viên cũng có giới thiệu ở gần đây có những rừng trúc lớn và
những con gấu Panda vẫn còn sống với thiên nhiên tại đây. Gấu Panda đã
được gởi tặng qua Mỹ và một vài nước ở Âu Châu và những nơi nầy gấu Panda
được nuôi trong các Sở Thú, được nuôi nấng rất kỹ và thức ăn chỉ toàn là
lá tre. Tại vùng Tứ Xuyên nầy vào mùa Hè nhiệt độ từ 24 đến 26 độ C. Có
lúc nóng nhất vào tháng 8 lên đến 35 độ C. Về mùa Đông có năm nhiệt độ
xuống chỉ còn 4 hay 5 độ C. Những thành phố tại Tứ Xuyên cũng phát triển
kỹ nghệ nhiều nên nhiệt độ lại ấm dần lên và ô nhiễm càng nhiều. Vì vậy
cho nên những thập niên gần đây tuyết không còn rơi nữa. Mùa Xuân nơi đây
thường đến sớm và mùa Thu là mùa đẹp nhất tại Tứ Xuyên. Tại đây cũng có 4
mùa rõ rệt và đầu bếp nổi tiếng trên thế giới cũng là những đầu bếp đến từ
Tứ Xuyên. Tuy nhiên thức ăn của Tứ Xuyên rất cay. Cay hơn ca-ri của Ấn Độ
và muối ớt của Việt Nam rất nhiều. Tại đây cũng có trường phái hội họa rất
nổi tiếng của các thời kỳ trước, nay còn tồn đọng lại. Tại Tứ Xuyên cũng
có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Nga Mi Sơn và tượng Phật Lạc
Sơn.
Sau hơn một tiếng
đồng hồ giới thiệu thì mọi người đi vào giấc ngủ êm đềm của quê hương Tứ
Xuyên với ruộng đồng và với mây ngàn nội cỏ. Sau đó chúng tôi cũng đã đến
Tào Ngư Than, nơi mà Đường Minh Hoàng đã chạy trốn và ẩn nấp nơi đây nhiều
ngày tháng. Các bô lão trong làng cũng đã cho nhà vua ăn những miếng cơm
cháy và nhà vua đã dùng ngon lành còn hơn là những món ngự thiện tại hoàng
cung và về sau vua cũng như Dương Quý Phi có về đây để đi lễ chùa tạ ơn
Tam Bảo đã che chở cho vua trong những thời kỳ khó khăn nhất.
Cuối cùng rồi phái
đoàn chúng tôi cũng đã đến khách sạn Vọng Hồ, một khách sạn nằm sâu trong
rừng núi và dường như ít có khách trần ai dạo cảnh nơi nầy; nên không gian
trống vắng và cảnh vật lại tang thương đến thế là cùng.
Tại Tào Ngư Than ▲
Có nhiều người trong
đoàn khi đến vùng nầy thì rất thích thú, vì có sơn thủy hữu tình. Vì vậy
nên Đường Minh Hoàng ngày xưa đến đây để yêu thiên nhiên và cảnh vật chung
quanh cũng là điều hữu lý; nhưng với khách du lịch Âu Mỹ thì không nên ở
lại Tào Ngư Than, vì nơi đây thiếu những tiện nghi tối thiểu cần thiết của
một khách sạn. Do đó nên tìm khách sạn ở nơi khác và đến Tào Ngư Than thăm
thì hay hơn. Tại nơi đây du khách nội địa đến thăm nhiều hơn khách ngoại
quốc, do vậy các khách sạn ở đây chỉ dành cho khách bình dân mà thôi. Dĩ
nhiên khi đi hành hương chúng ta không cần đòi hỏi những tiện nghi tuyệt
đối; nhưng những tiện nghi căn bản phải có. Ví dụ như nước nóng, khăn lau
mặt v.v... nhưng ở khách sạn Vọng Hồ khi mở vòi nước ra thì một làn nước
đục ngầu tuôn chảy xối xả vào bồn rửa mặt, khiến cho khách phương xa cứ
ngỡ là tại khách sạn nầy lâu lắm mới có khách đến, hoặc giả họ lơ là về
vấn đề vệ sinh; nên có nhiều người đã đề nghị với tôi là lần sau không
nhất thiết phải đến Tào Ngư Than nữa. Hoặc có đến chỉ nên ở một đêm là
vừa. Còn ở đây tới hai đêm, xem ra phí phạm thời gian trong chuyến lữ hành
nhiều quá. Hoặc giả ở chỗ khác, rồi đến đây xem cũng không sao.
Thiên Tháp Phật Quốc
ở Tào Ngư Than.
Phái đoàn chúng tôi
lên xe Bus để đi thăm chùa Kim Chu, do một cô hướng dẫn viên nói tiếng Anh
đơn giản tại nhà quê nầy và cô ta cũng than là muốn lên phố lớn để làm
nghề nầy cũng như trau giồi Anh ngữ; nhưng chủ của cô không muốn. Vì chỉ
có cô ta ở nơi đây biết nói một ít tiếng Anh, do vậy cô ta phải bám trụ
tại xứ nầy. Theo cô giải thích thì Tào Ngư Than là một địa danh mới được
khai mở cho khách du lịch ngoại quốc, cho nên những phương tiện công cộng
còn yếu kém lắm.
Tại chùa Kim Chu nầy
chúng tôi đã tụng kinh, cúng dường và có gặp một Ni Cô tu tại đây. Chùa
rất xưa và khung cảnh chung quanh rất hùng vĩ. Nếu ai đến tuổi về hưu,
không còn bôn ba với ngoại cảnh nữa; nên về đây để đọc sách, tụng kinh
cũng như vui thú thiên nhiên thì rất hợp tình hợp lý.
Tiếp theo chúng tôi
đã đi thăm Thiên Tháp Phật Quốc. Trên thực tế thì tại đây chỉ còn lại
khoảng 100 ngôi bảo tháp làm bằng đá mà thôi. Có cái tạc sát vào tường, có
cái rời rạc chung quanh tượng Đức Thích Ca nhập Niết Bàn được khắc sâu vào
trong núi đá... Vì thời gian năm tháng bị hao mòn; nên những tháp đứng lẻ
loi bị gió mưa, bão táp làm hư hại, nên chỉ còn 100 ngôi bảo tháp cũng
nên.
Tào Ngư Than
Mọi người đã lên nơi
tượng Đức Phật Nhập Diệt để tụng kinh và đốt nhang cũng như chiêm bái,
thưởng thức cảnh đẹp của cảnh Tào Ngư. Từ đây là núi, đứng nhìn xuống sông
và bên kia cũng là núi, có sương mai bao phủ; nên khiến cho núi đồi trở
nên chập chùng biến hiện và cảnh càng đẹp hơn. Chung quanh tượng Đức Phật
Nhập Diệt có một vài người ngồi xem tướng số và một số họa sĩ nghiệp dư
cũng đến đây để vẽ tranh và mong tìm một chút lợi nhuận cho cuộc sống của
mình. Tướng số thuộc về mê tín dị đoan, ở xã hội Trung Hoa bị bài trừ;
nhưng có lẽ đây là làng quê chẳng ai để ý đến. Nếu có một họa sĩ nào hữu
danh đến đây để xem phong cảnh, rồi vẽ nên những bức họa tuyệt vời thì có
lẽ Tào Ngư Than lại nổi tiếng nhiều hơn chăng?
Tiếp đến cả đoàn đến
thăm chùa Quan Âm. Chùa nầy nằm trên một vị trí rất đẹp. Chùa nằm trên núi
cao nhìn xuống bãi biển Tào Ngư trông rất hùng dũng và nên thơ. Nếu cảnh
nầy vào một buổi thiều Thu, ngồi đây mà ngâm thơ thưởng nguyệt thì rất
tuyệt vời. Trước chùa có một bình phong tạc hình Đức Quan Thế Âm cỡi trên
Khổng Tước rất đẹp và lên nữa thì có tạc Pháp Hội Linh Sơn, nơi có Đức Bổn
Sư đang thuyết pháp, hai bên có Ngài Văn Thù và Ngài Phổ Hiền ngồi hầu.
Chung quanh là các vị Bồ Tát và các vị A-La-Hán đang thính pháp văn kinh.
Cuối cùng nơi điện chính có thờ tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn trông
rất đẹp và hùng vĩ.
Chùa Kim Chu
Chùa Viên Giác tại
Hannover cũng đã đặt một tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn gồm ngàn tay
ngàn mắt, cao 5 thước bằng gỗ mít và tượng nầy đang được thếp vàng. Tượng
được tạc gần Hà Nội và sau một năm thi công bây giờ tượng mới xong. Có lẽ
trong năm 2000 tượng sẽ đến chùa Viên Giác. Đây là một công trình điêu
khắc có một không hai mà Phật Giáo Việt Nam của chúng ta đang có tại hải
ngoại.
Ngoài ra chùa Viên
Giác cũng đang đặt để tạc một bức tượng Địa Tạng cao hơn 3 thước bằng đá
non nước ở Việt Nam. Sau chừng một năm nữa, tượng sẽ đến Hannover. Tượng
nầy sẽ được tôn trí nơi nghĩa địa của chùa gần đó.
Dưới chân Phật Nhập
Diệt tại Tào Ngư Than
Tại chùa nầy hiện có
một số Sư Cô đang tu niệm tại đây. Khi gặp Ni Sư Diệu Tâm, Sư Cô Minh Hiếu
và Cô Tuệ Đàm Nghiêm, xem ra quý Sư Cô tại đây cũng quyến luyến lắm, mặc
dầu ngôn ngữ không thông; nhưng qua cách diễn tả, mọi người chung quanh
hiểu được điều đó. Chúng tôi trở lại xe Bus và về lại khách sạn dùng trưa
và nghỉ ngơi một chút để sau đó còn tiếp tục chương trình của buổi chiều
nữa.
Buổi chiều trên bãi
Tào Ngư rất đẹp. Chúng tôi đã lên thuyền rồng và dạo chơi trên dòng sông
Thanh Giang nầy độ 2 tiếng đồng hồ. Ngày xưa Đường Minh Hoàng du nguyệt
điện có lẽ nhờ những cảnh đẹp nầy chăng - mà ông ta mới mộng mơ về một thế
giới khác? Thuyền rồng bây giờ vua không đi nữa, mà chỉ để dành cho những
du khách như chúng tôi đi. Nhìn chung quanh thấy cảnh vật im lặng như tờ.
Chỉ có nước chảy róc rách, thỉnh thoảng có những con cá phóng lên khỏi mặt
nước để tìm một cảm giác xa lạ nào đó trong không khí, rồi lại tìm vào
trong thế giới lạnh lẽo của kiếp chúng sanh nầy.
Trên thuyền rồng -
sông Thanh Y
Đi trên thuyền chúng
tôi nhìn phong cảnh hai bên chùa tháp rất đẹp. Cả một khung trời bao la vi
diệu, chỉ có con người và cảnh vật, khiến cho ai nấy trên thuyền cũng lặng
yên để như tự tìm vào nơi tâm tư mình một hình ảnh nào đó xa xôi trong quá
khứ và mong mỏi một sự trở về.
Có đi ra rồi mới
biết phong cảnh của các nơi khác. Nếu chỉ có một nơi thì không có đối
tượng để so sánh. Cho nên câu "đi ngày đàng học sàng khôn" là vậy.
Buổi chiều còn thời
gian mọi người đi dạo phố để mua chuối và thăm viếng phố sá nhà quê. Sau
khi đi phố về, quý Thầy, quý Cô kể rằng ra gặp người dân địa phương cho
tiền họ không lấy. Có lẽ ở đây họ không biết tham lam và xin xỏ là gì. Vì
họ thấy lạ và những người nầy nói không cùng ngôn ngữ với mình; nên phái
đoàn bị họ bao vây lại xem rất đông.
Dọc đường trở về
khách sạn thấy có nhiều người, kể cả đàn ông lẫn đàn bà đã khiêng, đội,
khuân vác những mẻ đất rất là nặng nề; nhưng trên môi họ vẫn nở một nụ
cười rất tươi tỉnh. Dường như họ không biết mệt nhọc là gì ?
Cũng là người Trung
Quốc, nơi hiền lành nầy cho tiền họ không lấy, và cũng là người Trung Quốc
nhưng tại Thành Đô một nơi có nhiều người đô hội, khi ra đường nếu không
giữ của thì phải giữ thân cho cẩn thận. Nếu không sẽ bị rạch túi. Điều ấy
tôi đã lưu ý cả đoàn; nhưng khi về lại Thành Đô, lúc đi phố vẫn có người
bị rạch túi như thường. Quả thật chúng sanh là thế. Có người thế nầy và có
nơi thế khác; chẳng có nơi nào giống nơi nào cả là vậy.
Hướng đến Nga Mi Sơn ▲
Trong đời tôi có
nhiều lời nguyện và những lời nguyện đã được viên thành, đó là đi chiêm
bái và đảnh lễ Tứ Thánh Địa ở Ấn Độ và Tứ Đại Danh Sơn ở Trung Quốc. Tứ
Thánh Địa là nơi Đức Phật Đản Sanh, nơi Đức Phật Thành Đạo, Thuyết Pháp
lần đầu tiên và nhập Niết Bàn. Đây là bốn cảnh quan trọng trong cuộc đời
của Đức Phật. Ngoài ra còn những nơi quan trọng khác như Kỳ Viên Tịnh Xá ở
nước Xá Vệ; Trúc Lâm Tịnh Xá tại Vương Xá Thành v.v... như trong kinh Đại
Bát Niết Bàn có truyền dạy lại rằng:
"Sau khi Như Lai
diệt độ; nếu có thiện nam tử và thiện nữ nhân nào có duyên đến chiêm bái,
đảnh lễ nơi tứ động tâm, cũng giống như đã gặp Phật và thiện nam tử, thiện
nữ nhân nầy đã bao đời có trồng căn lành và nhân duyên với Phật Pháp; nên
trong hiện tại mới được như vậy".
Vì lẽ đó nên đã có
nhiều chuyến hành hương chiêm bái Phật tích và từ năm 1989 đến nay, tôi đã
có nhân duyên 4 kỳ đến chiêm bái tứ động tâm nầy.
Riêng tứ đại danh
sơn của Trung Quốc do các Tổ Sư Trung Hoa thành tựu các công đức tu hành;
nên 4 ngọn núi danh tiếng của Trung Hoa đã trở thành những đạo tràng thanh
tịnh để xiển dương giáo lý Đại Thừa. Đó là:
- Ngũ Đài Sơn, nơi
thị hiện của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, ngày nay nằm tại tỉnh Hà Bắc gần
Bắc Kinh.
- Nga Mi Sơn, nơi
thị hiện của Đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, ngày nay nằm tại tỉnh Tứ Xuyên.
- Phổ Đà Sơn, nơi
thị hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, ngày nay nằm gần Thượng Hải.
- Cửu Hoa Sơn, nơi
thị hiện của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, ngày nay nằm tại tỉnh An Vi, trung
tâm của nước Trung Hoa.
Cảnh trí Nga Mi Sơn
Đây gọi là tứ đại
danh sơn vì tôi đã có nhân duyên đến thăm cũng như đảnh lễ nơi thị hiện
của 4 vị Bồ Tát nầy, mà trong kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Đại Bát Niết Bàn,
Đại Bảo Tích, Đại Bát Nhã v.v... quý Ngài Bồ Tát nầy đều hiện hữu và sau
nầy với tinh thần Đại Thừa nầy Ngài Tuyên Hóa qua Mỹ Quốc cũng đã tuyên
dương qua bốn nơi như San Diego, Los Angeles, San Francisco và Vancouver
làm 4 đạo tràng của 4 vị Bồ Tát nầy. Tất cả những nơi nầy tôi đã đi và đã
đến. Kể ra như thế thì nhân duyên đã hội đủ; nên trong đời mình cũng đã
tròn lời ước nguyện. Ngày nay tôi ngồi nơi đây, hôm nay ngày 31.12.1999
viết đoạn nầy tại Niệm Phật Đường Viên-Ý ở Ý quốc nầy, viết về Đại Danh
Sơn thứ 4 và cũng là nơi đi sau cùng trong 4 danh sơn. Xin hồi hướng công
đức nầy lên ba ngôi Tam Bảo để tạ ơn chư Phật và chư Bồ Tát, đã gia hộ cho
cá nhân tôi cũng như nhiều vị có cơ hội đi hành hương chung với chúng tôi
được thành tựu viên mãn nhiều nguyện ước.
Nga Mi Sơn là một
quần thể núi rất đẹp và tự nhiên; nên ngọn núi nầy ngày nay đã trở thành
"di sản tự nhiên và văn hóa của thế giới".
Núi tại Nga Mi Sơn
cao từ 2.600 thước đến 3.099 thước, kể từ mặt biển. Nơi đây có nhiều ngôi
chùa Phật Giáo cổ và là thánh địa của Phật Giáo. Nơi đây cũng là thiên
đường của thú vật, vì cảnh trí còn tự nhiên cũng như không khí trong lành.
Tại Nga Mi Sơn có nhiều cảnh trí đẹp đẽ. Ví dụ như Tiên Sơn Phật Quốc, Nga
Mi Thiên Hạ Tú, Kim Đỉnh Nhựt Xuất, Kim Đảnh Tường Quang, Báo Quốc Tự, Vạn
Niên Tự v.v...
Nơi đây đã có gần
2.000 năm lịch sử phát triển về văn hóa Phật Giáo. Tại Thánh Địa nầy có
hơn 30 ngôi chùa danh tiếng. Tại chùa Vạn Niên có thờ Đức Đại Hạnh Phổ
Hiền bằng đồng có tính cách lịch sử và đây cũng là chìa khóa để mở cánh
cửa vào thánh tích nầy. Tại đây cũng có hơn 3.000 loại cây cỏ khác nhau và
hơn 2.300 loại động vật sinh sống.
Sở dĩ mà Nga Mi Sơn
được ca tụng như thế vì Nga Mi có nghĩa là lông mày đẹp của người con gái
và sơn có nghĩa là núi. Do vậy ngọn núi nầy riêng về cảnh trí thiên nhiên
đã là "thế gian đệ nhứt cảnh" rồi, không đâu sánh kịp. Mà thật thế, ở
Trung Quốc cảnh trí trùng trùng điệp điệp và bất cứ nơi nào thuộc về thiên
nhiên thì trên thế giới nầy chẳng có nơi nào hơn. Do vậy sau khi đi Trung
Quốc về, tôi có nói rằng: "Tại Mỹ quốc có văn minh nhưng không có văn hóa.
Ngược lại tại Trung Quốc có văn hóa, nhưng không có văn minh". Nói như thế
nhiều người bảo rằng hơi quá đáng; nhưng đứng trên bình diện tương đối;
nếu có ai trong quý vị đã tham quan những nơi nầy rồi, có lẽ nhận xét của
tôi cũng không phải chủ quan mấy.
Từ 9 đến 12 giờ ngày
14.10.1999 phái đoàn của chúng tôi đã di chuyển bằng xe Bus từ Tào Ngư
Than đến chân núi Nga Mi. Sau đó chúng tôi dùng cơm trưa tại khách sạn và
đem hành lý vào đây gởi; đoạn sang xe Bus nhỏ cho dễ đăng sơn và hơn 2
tiếng đồng hồ, chúng tôi đã đến trạm dây Cable. Nhiệt độ ở đây bắt đầu
lạnh và không khí ẩm thấp. Nhiều người đã cảm thấy lạnh và có nhiều người
gạ cho mướn áo đi mưa. Sau 15 phút đi dây Cable, mọi người đã lên đến tận
đỉnh của núi Nga Mi. Nơi nầy gọi là Kim Đính, có nghĩa là Đỉnh Vàng; có
nghĩa là từ đây; nếu xem được mặt trời mọc, hình ảnh của mặt trời không
khác gì màu hoàng kim rực rỡ chiếu sáng tỏa cả một khoảng trời đất bao la
vi diệu ấy. Khi lên đến khách sạn Ngọa Vân lầu ở độ cao 3.099 thước ai ai
cũng thấy khó thở và những bước đi rất nhẹ nhàng, giống như người trên
tiên giới. Vì lẽ nơi nầy cao nên khí Oxygen rất mỏng. Nếu người nào áp
huyết thấp, cảm thấy khó thở. Tại đây khách sạn rất đẹp. Tuy nhiên nhiều
người cảm thấy bất an, vì thời tiết thay đổi đột ngột; nên đã có lắm người
bệnh. Bác sĩ Lữ và Bác sĩ Trâm đã tận tâm làm việc trong thời gian nầy và
chính cá nhân tôi cũng bắt đầu thấy khó chịu.
Suốt một đêm ở Ngọa
Vân lầu nơi Kim Đính ai cũng khó ngủ. Vì đúng là ngọa vân, chung quanh
phòng chúng tôi đều có những cụm mây bao phủ. Hay nói đúng hơn là nằm trên
mây. Chúng tôi hiện giờ giống như người thoát tục, ai cũng tưởng mình là
Tiên. Vì bước đi rất nhẹ nhàng và hơi thở trở nên nặng nề. Cho nên những
người ở thế giới bên trên nhẹ nhàng hơn là những người ở hạ giới cũng
phải. Khi đi lên thì thân cũng như tâm phải hướng thượng, rời xa những khổ
đau tục lụy của thế gian; nên những ai về tiên cảnh hoặc thế giới của chư
vị Bồ Tát và chư Phật đều có một tâm thức giải thoát. Còn những chúng sanh
có tình thức và cưu mang bởi thất tình lục dục hay tam độc tham, sân, si,
như loài người trở xuống thì chắc chắn không có được một thân thể nhẹ
nhàng được.
Sau khi dùng điểm
tâm tại khách sạn, phái đoàn chúng tôi đã bắt đầu đi hành hương chiêm bái
các chùa trên đỉnh núi và chùa chúng tôi đến đầu tiên gọi là Ngọa Vân
Thiền Tự. Đúng là chùa cổ mà chùa nầy lại chìm ngập trong mây mù. Ngày xưa
các Thiền Sư lánh tục vào đây chắc là an lạc lắm. Còn ngày nay những vị
đang tu hành tại nơi đây, chắc chắn bị quấy rầy. Vì lẽ khách hành hương
đến đây mỗi ngày đều tấp nập. Chúng tôi đảnh lễ Tam Bảo và cúng dường, sau
đó chúng tôi tiếp tục leo núi và lên dốc, nhưng đường ở đây rất tốt và có
những tượng đá tạo thành những nấc thang để khách hành hương dễ đi. Trên
đường đi có nhiều người Trung Quốc mang khỉ con đến để làm xiệc cho những
người tham quan xem. Loại khỉ nầy rất đặc biệt. Tuy nhỏ; nhưng đuôi của
chúng dài và quấn quanh tay chân của khách hành hương; nếu có lệnh của
chủ.
Tiếp đến chúng tôi
đi chùa Hoa Tạng. Nơi nầy có thờ Đức Phổ Hiền rất cũ. Sau khi tụng kinh
niệm Phật và cúng dường, phái đoàn xin phép vị thủ tự đi xuống Đại Hùng
Bửu Điện để làm lễ quy y Tam Bảo cho người hướng dẫn viên tên là Lương
Nghị và lễ Thọ Thập Thiện cho Đạo Hữu Huệ-Ân Trần-Thị Hồng-Châu đến từ Ý.
Ở đây cũng xin mở một dấu ngoặc để nói thêm một ít về anh thông dịch viên
tiếng Việt nầy.
Anh ta còn trẻ lắm,
sinh năm 1974; nghĩa là tròn 25 tuổi, mà đã đi làm nghề hướng dẫn viên du
lịch 3 năm rồi. Anh ta tên là Lương Nghị, sinh tại Nam Ninh, thủ phủ của
tỉnh Quảng Tây trong một gia đình trung lưu, cha làm giáo viên Trung Học
Đệ Nhị Cấp, mẹ làm công nhân viên và Lương Nghị có 3 anh em.
Tôi có hỏi, tại sao
Lương Nghị không học tiếng khác mà học tiếng Việt để làm gì?
Lương Nghị trả lời
rằng: Vì ở gần biên giới Việt Nam và tiếng Việt dễ học hơn các tiếng khác.
Mặc dầu ba của Nghị muốn Nghị học văn học Trung Quốc để trở thành Thầy
giáo như ông ta; nhưng Nghị không thích nghề giáo lắm; nên đã chọn nghề
hướng dẫn viên du lịch và có lẽ đây mới là cơ duyên để gặp phái đoàn của
chúng tôi.
Nguyên là phái đoàn
đi lần trước không có loại National Guide nầy và lần nầy tôi yêu cầu chị
Mỹ-Anh bán vé máy bay của hãng du lịch tại Đức; nên có một người như thế
để có chuyện gì thì phái đoàn nhờ vả cũng dễ, chứ tiếng Trung Quốc không
thông thì cũng không biết làm sao bây giờ. Còn Guide địa phương thì nói
tiếng gì cũng được và khi yêu cầu thì theo thứ tự ưu tiên như sau: Guide
National dịch từ tiếng Trung Quốc ra tiếng Việt Nam. Còn Guide địa phương
có thể dịch ra tiếng Đức, Anh, Nhựt là những yêu cầu tiếp theo. Nghĩa là
nói tiếng nào cũng được. Vì trong đoàn của chúng tôi có nhiều người có khả
năng dịch được nhiều ngoại ngữ.
Sau mấy ngày đi
chung với phái đoàn, Sư Cô Minh Hiếu thấy Lương Nghị hút thuốc, nên đã bảo
rằng: Nếu Nghị bỏ hút thuốc thì Cô sẽ cho 400 Nhân Dân Tệ, tương đương với
100 Đức Mã và bằng lương 1 tháng của thông dịch viên chứ đâu có ít. Anh ta
nghe nói như vậy; nên đã hăng say phát nguyện và cương quyết bỏ hút thuốc.
Ban đầu có lẽ anh ta nghĩ về số tiền to lớn ấy; nhưng sau khi đi hết 21
ngày với phái đoàn, Sư Cô Minh Hiếu biếu 400 Yuan thì anh ta bảo rằng: Con
không dám nhận. Vì lẽ ban đầu chỉ có tính cách thử thách; nhưng bây giờ
thì con đã tự chinh phục với chính mình rồi. Dĩ nhiên là ai cũng hài lòng
và còn biếu tiền thêm cho anh ta nhiều hơn như thế nữa. Anh ta đã nhận hết
trong niềm tự hào và hoan hỷ của mọi người.
Điều ấy không quan
trọng bằng việc quy y Tam Bảo. Ban đầu Nghị chỉ mới là người làm quen với
Đạo Phật; nhưng hôm nay ngày 15.10.1999 nầy Lương Nghị đã phát tâm quy y
Tam Bảo. Trong thời gian đi chung đoàn quý Ni Sư và quý Sư Cô cũng như quý
Phật Tử đã khuyến khích anh ta nên quy y, vì đây là một cơ hội tốt nhất.
Thế là anh ta đã phát nguyện và lễ quy y Tam Bảo đã được tổ chức tại chùa
Hoa Tạng nầy.
Hôm đó giới tràng là
chánh điện chùa Hoa Tạng. Giới Sư gồm 5 vị: Tôi, Đại Đức Thông Trí, Ni Sư
Diệu Tâm, Sư Cô Minh Hiếu và Cô Tuệ Đàm Nghiêm. Như vậy là một lễ đúng
pháp và đúng luật. Nơi nào không có chư Tăng, nếu có đủ 5 vị cũng trở
thành một Giới Đàn Tỳ Kheo; nhưng nơi đây chúng tôi chỉ truyền ngũ giới và
thập thiện; nên việc hình thức không phải là điều đáng chú ý. Điều đáng
nói tại đây là giới thể và giới tướng nơi giới tử được thể hiện trọn vẹn
là đủ rồi.
Toàn cảnh chùa Hoa
Tạng trên đỉnh Nga Mi Sơn cao 3099 thước
Một số các giới tử
đã thọ giới rồi thì hộ giới ngồi phía sau và 2 vị thọ giới thì quỳ phía
trước. Tôi giảng qua bằng tiếng Việt và bảo 2 người lặp lại. Sau đó tôi
hỏi giới tử và giới tử nếu thấy thọ lãnh được thì đáp rằng "Mô Phật" dạ
giữ được. Nếu giới nào giữ chưa được thì đáp rằng: "Dạ, con xin cố gắng".
Giữ mấy giới cũng tốt, chứ không nhất thiết phải giữ đủ 5 hay 10 giới.
Việc thọ giới chỉ có tính cách tự nguyện, chứ không có tính cách bắt buộc.
Nếu người nào siêng năng giữ gìn giới pháp thì Phật tánh dễ hiển bày; nếu
người nào lười biếng thì tự mình phải chịu trách nhiệm với bản thân mình,
chứ cũng chẳng có ai bị phạt vạ cả. Nếu điều ấy mình chưa làm được. Tôi có
nghe Lương Nghị phát nguyện giữ 3 giới và 2 giới thì cố gắng giữ. Cuối
cùng cho pháp danh của Lương Nghị là Thiện Tâm. Còn Đạo Hữu Huệ An vẫn giữ
pháp danh ấy, vì lẽ chỉ thọ giới thập thiện của người tại gia; nên không
cần phải đổi pháp danh.
Lễ Quy Y Tam Bảo cho
Thiện-Tâm Lương-Nghị và lễ truyền Thập Thiện cho Đạo Hữu Huệ-Ân
Một lễ quy y đơn
giản; nhưng đã khắc sâu vào tâm khảm của mọi người và Lương Nghị cũng rất
vui, hôm nay có một tên mới. Đó là Phật Tử Thiện Tâm. Anh ta đã phát tâm
cúng dường Tam Bảo sau lễ thọ giới và phát nguyện thọ trì các giới cấm đã
hứa trước Tam Bảo. Phái đoàn bắt đầu trở lại khách sạn, chuẩn bị ăn trưa
và xuống núi.
Từ đỉnh Nga Mi
Khi xe Bus đưa chúng
tôi xuống đến lưng chừng núi sau một tiếng rưỡi đồng hồ thì ghé vào chùa
Vạn Niên. Chùa nầy trước đây có tên là Thánh Thọ Vạn Niên tự.
Tương truyền rằng
Vua nhà Đường vì muốn báo ân cho mẹ nên nhà vua đã cho xây chùa nầy. Nên
có nghĩa là Thánh Thọ và cầu nguyện cho mẹ mình được sống lâu 10.000 năm;
cũng có nghĩa cầu nguyện cho ngôi vua tồn tại lâu dài như thế; nên mới có
tên là Vạn Niên. Thế nhưng cuộc đời vô thường, thế sự đổi thay. Đâu có ai
sống lâu như thế và đâu có triều đại nào dài đến 1.000 năm mà cầu nguyện
đến 10.000 năm. Có thể đó cũng chỉ là một ước mơ, mà ước mơ đó khó thành
tựu. Có lẽ những ông vua nầy thấy mình có thế lực và nghĩ rằng chắc không
thể thay ngôi đổi chủ; nên mới mong mỏi được như vậy cũng nên.
Chùa Vạn Niên
Tại chùa nầy có một
tượng đồng Ngài Phổ Hiền, cao 7 thước 40 và nặng 62 tấn được đúc vào năm
980. Nghĩa là hơn 1.000 năm về trước. Quả thật thời đó mà đã có được những
kỹ thuật đúc đồng như thế nầy là một điều quá tiến bộ.
Nơi có tượng Phổ
Hiền, cao 7m40, nặng 62 tấn được đúc bằng đồng vào năm 980 ở Nga Mi Sơn
Chùa nầy rất lớn và
kiến trúc rất đẹp. Vì là của vua xây và xuất từ ngân quỹ của quốc gia để
dựng thành; nên mới được như vậy. Còn những chùa xây sau nầy, ít có nơi
nào sánh bằng. Chùa nầy có lầu bát nhã để chuông trống xưa. Có tàng kinh
các để chứa Đại Tạng kinh và có gác chuông U Minh để sớm ngày hai buổi cầu
nguyện cho cõi âm được siêu và cõi dương được thái bình. Những loại chuông
như thế nầy bắt đầu có từ thời nhà vua Lương Võ Đế . Vì khi Hoàng Hậu Y
Thị băng hà; nhưng không siêu, mỗi đêm hay hiện về bằng thân rắn báo mộng
cho vua biết rằng: Hoàng Hậu không siêu. Nhà vua mới hỏi Hòa Thượng Chí
Công phải làm sao?
Bát Nhã đường
Hòa Thượng bảo rằng
phải tụng kinh bái sám, làm đàn chiêu mộ chúng sanh cũng như phải đúc
chuông để ngày đêm 2 thời gióng chuông U Minh cầu nguyện.
Nhà vua đã cho thực
hiện như vậy và quả nhiên Hoàng Hậu sau thời gian 49 ngày đã được hóa
sanh.
Kể từ đó tại Trung
Quốc, Việt Nam, Đại Hàn cũng như Nhật Bản bắt đầu đúc những quả Đại Hồng
Chung để tôn trí và thỉnh chuông U Minh ngày 2 buổi cầu nguyện cho thế
giới hòa bình, nhân sinh an lạc.
Lúc đi xuống núi
chúng tôi không đi dây Cable nữa mà đi bộ xuống. Đi giữa đường thấy có một
bảng viết bằng tiếng Anh và chữ Hán rằng: "Con đường nầy Đặng Tiểu Bình đã
đi". Chỉ vỏn vẹn có mấy chữ thôi; nhưng lòng tôi lại chùng xuống. Vì lẽ
không biết những người lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc, Việt Nam cũng như Bắc
Hàn hiểu gì, biết gì và sợ gì mà không cho Phật Giáo phát triển? Họ sợ thế
lực? Vì lẽ Phật Giáo không muốn có quyền lực. Họ sợ chính quyền bị sụp đổ?
Vì Phật Giáo chưa bao giờ cướp chính quyền để giành quyền lãnh đạo đất
nước. Suốt cả mấy ngàn năm lịch sử ở Việt Nam, Trung Quốc, Đại Hàn và Nhật
Bản đã chứng minh điều đó. Đã có nhiều ông vua bỏ ngôi, trốn cung điện,
ngai vàng, vợ đẹp con ngoan như vua Lý Huệ Tông, vua Trần Thái Tôn, vua
Trần Nhân Tôn và trong lịch sử Phật Giáo chưa có một vị Sư nào từ bỏ cuộc
sống tu hành của mình để trở thành một vị vua cả. Lý công Uẩn của Việt Nam
hay Chu Nguyên Chương của Trung Quốc là trường hợp khác. Các vị nầy là
những Phật Tử có nhân duyên với chùa, nên sau đó làm vua khai nguyên triều
đại nhà Lý của Việt Nam cũng như nhà Minh của Trung Quốc. Các vị nầy không
phải là những nhà Sư, mà là những Phật Tử thuần thành sống ở chùa và sau
đó trở thành vua để chăn dân trị nước.
Tại mỗi chùa có
nhiều vị Sư chăm lo hương khói cũng như thỉnh chuông cho khách hành hương
lễ Phật, cầu nguyện; nhưng xem ra những vị nầy không đượm mùi thiền mấy.
Có lẽ chỉ là những người làm nhiệm vụ ăn lương nhiều hơn là những người tu
hành chơn chánh, hiểu biết giáo pháp của Như Lai. Chùa chiền tại Trung
Quốc ngày nay tồn tại đều nằm dưới dạng thức như vậy; nên xem ra rất buồn,
mặc dầu có nhiều người muốn tìm hiểu đến Đạo Phật. Đạo Phật đã có mặt
2.000 năm lịch sử tại Trung Quốc, chỉ có 38 năm Quốc Cộng phân tranh và 50
năm thuần túy xã hội chủ nghĩa mà đã ra nông nỗi ấy; nên ai là một Phật Tử
thuần thành thật cũng cảm thấy không an tâm một chút nào cả.
Tượng Phật Lạc
Sơn ▲
Tượng Phật Lạc Sơn
là một trong năm tượng Phật lớn tại Trung Quốc có một chiều dài lịch sử
hơn 1.200 năm và có những câu chuyện liên quan đến tượng Phật nầy, kể ra
nghe rất động tâm và chúng tôi đã có cơ duyên đến đó. Tượng nầy cũng nằm
tại tỉnh Tứ Xuyên cách Nga Mi Sơn chừng 50 cây số. Nhiều nhà thơ đời
Đường, Tống đã diễn tả độ lớn của tượng Phật nầy bằng câu: Núi là Phật,
Phật là núi; như thế đủ biết tượng Phật lớn biết là bao.
Tượng nầy do Đại Sư
Hải Thông chủ trì xây dựng và tạc nên kể từ năm 713 đến 803 mới xong;
nghĩa là 90 năm trời ròng rã. Tượng cao 71 thước và 10 thước bề ngang. Chỉ
cái đầu của Đức Phật Di Lặc nầy cũng đã cao đến 14 thước 70 và chân của
Ngài dài 11 thước, rộng 5 thước 50. Một trăm người có thể đứng chung quanh
tượng được. Đây là tượng đá lâu đời nhất và có thể nói rằng lớn nhất thế
giới. Tượng Phật nầy cũng đã được Liên Hiệp Quốc liệt vào di sản văn hóa
của thế giới và được bảo trì một cách cẩn thận.
Lạc Sơn Đại Phật
Nguyên nhân để tạo
nên Đại Phật nầy có một lịch sử như sau:
Tại núi Lạc Sơn nầy
có 3 dòng sông chảy rất xiết và xoáy mạnh nơi nầy. Đó là sông Dân, sông
Đại Độ và sông Thanh Y; nên có không biết bao nhiêu cư dân bị chết chìm
nơi đây. Do vậy mà lòng từ bi của Đại Sư Hải Thông lại được thể hiện. Đại
Sư đề nghị với quan lại và vua chúa triều đình nhà Đường lúc bấy giờ rằng:
Nếu tại đây tạo dựng được một tượng Phật thì dòng nước kia sẽ hiền hòa
hơn. Vì có sự gia hộ của chư Phật và chư vị Bồ Tát. Do đó sinh mạng của
con người không bị hy sinh nhiều như xưa nay nữa. Đại Sư được triều đình
cho phép và dân chúng ủng hộ. Sau thời gian không lâu, Đại Sư đã quyên góp
được một số vàng lớn, Ngài dự định chuẩn bị khởi công xây dựng; nói đúng
hơn là điêu khắc tượng Phật nầy.
Một tin chẳng may đã
đến với Đại Sư. Đó là câu chuyện của ông quan sở tại nầy. Vị quan nầy thay
vì hỗ trợ cho Đại Sư Hải Thông để sớm đạt thành ước nguyện an dân hộ quốc,
thì vị quan lại nầy bảo Đạo Sư Hải Thông phải nộp hết tất cả những tiền và
vàng quyên góp được cho ông ta.
Khi Đại Sư nghe như
vậy cảm thấy bất bình; nhưng Ngài cũng từ tốn trả lời rằng: "Tất cả tiền
bạc đây là của tín thí do tôi quyên góp để điêu khắc tượng Đại Phật, do đó
tôi không có lý do gì để đưa cho Ngài cả. Nếu ông muốn lấy gì nơi thân thể
của tôi thì cứ lấy, chứ tuyệt nhiên tôi sẽ không đưa tiền lạc quyên được
cho ông".
Sau khi nghe nói như
vậy, vị quan nầy tức giận và bảo rằng: Tôi muốn lấy cặp mắt của nhà Sư.
Sau khi nghe vậy,
Đại Sư Hải Thông vẫn hoan hỷ chịu đựng cho ông quan kia ra lệnh móc mắt và
nhà Sư bắt đầu mù từ đó; nhưng công việc khuyến giáo dân chúng để khắc
tượng Phật vào núi đá vẫn tiến hành.
Hải Thông Đại Sư
Khi vua nhà Đường
nghe được tin ấy rất cảm động; nên đã đổi vị quan tham ô ấy đi nơi khác và
đổi một vị quan Phật Tử đến đây để hộ trì cho Đại Sư Hải Thông xây dựng
tượng nầy cho đến lúc hoàn thành. Ngày nay nếu quý vị đi hành hương đến
núi Lạc Sơn nầy vào nơi chùa gần tượng Phật, nơi ấy có thờ 3 tượng rất
sống động. Tượng ở giữa của Ngài Hải Thông, mang dáng dấp từ bi của một
bậc tu hành. Tượng bên trái diễn tả tư cách của một vị quan tham ô và
tượng bên phải diễn tả tư cách của một vị quan thanh liêm và có tâm từ hộ
đạo. Xa xa phía sau tượng của Ngài Hải Thông là hình ảnh của tượng Đại
Phật Di-Lặc tại Lạc Sơn.
Đây là một câu
chuyện có thật và là mẩu chuyện để chứng minh cho sức mạnh của tâm linh
mạnh hơn cả cường quyền và tâm hồn vị tha của Bồ Tát còn được thể hiện ở
đây một cách cao thượng hơn. Nghĩa là dầu bất cứ ở một cảnh khổ nào đi
nữa, lòng Bồ Tát vẫn không lay động, khi biết rằng mục đích đã định của
mình không đi ra ngoài sự phụng sự của nhân sinh. Vì Bồ Tát chỉ sợ nhân
chứ không sợ quả; trong khi đó thì chúng sanh chỉ sợ quả chứ không sợ
nhân. Đó là điều khác biệt giữa Bồ Tát và chúng sanh vậy.
Quả thật thế, sau
khi tượng Đại Phật đã được điêu khắc xong thì tai nạn chết người nơi hội
tụ của 3 dòng sông nầy không còn nữa. Ý nghĩa thứ nhất vì lý do siêu hình.
Đó là sự gia hộ của Đức Di-Lặc; nhưng lý do vật lý cũng có thể dễ hiểu mà
thôi. Đó là việc điêu khắc, khi muốn đục sâu vào lòng núi để tạo tượng
Phật, dĩ nhiên phải có một khối lượng lớn đá bị thải ra và tất cả đá của
núi nầy được trôi vào 3 dòng sông nầy. Nhờ thế mà độ xoáy của dòng sông
trở nên hiền hòa hơn và số lượng tử vong lại giảm đi, rồi từ từ hết hẳn.
Đó là sự nhiệm mầu của thế giới siêu hình vậy.
Hải Sư đường.
Phái đoàn mua vé lên
thuyền để ra giữa dòng sông tiến đến gần tượng Đại Phật để dễ nhìn. Khi
chúng tôi đến gần chân tượng Phật thấy nước vẫn còn xoáy mạnh và từ đây
nhìn lên, thấy tại đây cũng như một hòn núi lớn vậy thôi. Nhìn kỹ Ngài,
thấy tay Ngài ngồi buông xuống với thế xúc địa ấn; nhưng ở đây nói là
tượng Phật Di-Lặc, quả cũng là điều hơi lạ. Vì Đức Phật Di-Lặc ít khi dùng
Ấn nầy. Từ trên thuyền người ta cũng nhìn thấy xa xa là những quả núi có
dáng hình như Đức Phật đang nằm với tư thế nhập Niết Bàn. Người Trung Quốc
gọi là Ngọa Phật. Những hình ảnh như thế nầy tại Ngũ Đài Sơn và Thiếu Lâm
Tự cũng đã có những quả núi tương tự như vậy.
Tại Trung Quốc có
núi cao sông rộng, cảnh đẹp, người đông; nên đây là những yếu tố quan
trọng để tạo thành lịch sử của xứ Trung Quốc, nhất là lịch sử Phật Giáo
tại xứ nầy.
Bàn tay Phật Lạc
Sơn
Trên thuyền chúng
tôi cũng đã gặp những người đến từ Mỹ, đến từ Pháp và đến từ Ý. Họ là
những khách du lịch đến từ tứ phương như chúng tôi vậy và tại đây có mấy
cô thông dịch bằng tiếng Anh hỏi tôi tại sao mắt của Phật lại xanh và vòng
hào quang lại có 5 màu cũng như đa phần áo của Phật màu vàng mà không có
một màu nào khác?
Dĩ nhiên là câu trả
lời không khó; nhưng điều ấy chứng tỏ rằng chính những người hướng dẫn du
lịch cũng chưa hiểu rõ lịch sử Phật Giáo Trung Quốc cũng như những điều
đặc biệt nầy thì làm sao những người bình dân Trung Quốc có thể hiểu được.
Về mắt xanh - đó là
một trong 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Đức Phật. Còn hào quang 5 màu có
nghĩa là: tín, tấn, niệm, định, huệ hay đúng hơn là ngũ căn và mỗi màu
tượng trưng cho một ý nghĩa như vậy.
Màu xanh tượng trưng
cho lòng tin.
Màu vàng tượng trưng
cho sự tinh tấn.
Màu đỏ tượng trưng
cho sự nhớ nghĩ
Màu trắng tượng
trưng cho Thiền Định,
sự tập trung tư
tưởng.
Màu da cam tượng
trưng cho trí tuệ.
Còn màu vàng trên áo
và thân thể của Đức Phật tượng trưng cho 2 lần tỏa ngời màu giải thoát
nầy. Đó là lúc Đức Như Lai thành đạo và lần thứ 2 trước khi Như Lai vào
cảnh vô dư Niết Bàn. Vì lẽ ấy nên các chùa Phật Giáo đều thờ hình ảnh Đức
Phật ở tư thế đắp y vàng như vậy.
Sau khi cô thông
dịch nghe tôi giải thích như thế, cô ta cảm ơn và bảo rằng tại Trung Quốc
chẳng biết hỏi ai. Mặc dầu ngày nay người Trung Hoa đi chùa rất đông, mà
cảnh đi chùa cũng như đi xem hội, xem một viện bảo tàng, chứ ít ai lưu tâm
về vấn đề đạo pháp, mà nếu có đi chăng nữa cũng chỉ là hình thức mê tín
như xin xăm, bói toán và cầu nguyện là nhiều. Vì lẽ suốt cả một tuyến
đường đi dài 21 ngày như thế, tôi ít gặp một Phật Tử thuần thành. Chỉ một
lần duy nhất tại tượng Phật Lạc Sơn nầy, tôi đang chuẩn bị phóng sanh thì
có một người tóc đen đến xá tôi và cúng dường một hồng bao. Sau khi hỏi
lại thì biết rằng vị nầy đến từ Hồng Kông.
Trước khi đi Trung
Quốc, Đạo Hữu Diệu Hải Cao Thị Sâm ở Hochdorf có gởi cho tôi một ít tiền
để cúng chùa và mua chim, cá để phóng sanh. Tôi đi khắp nơi nhưng chẳng có
nơi nào có. Khi đến đây có bán chim để phóng sanh thì tôi vô cùng hoan hỷ
và mua mấy cặp chim để phóng sanh. Một điều lạ lùng là người ngồi bán chim
hôm đó là một vị Tăng Sĩ đầu tròn áo vuông. Nhiều người trong đoàn của
chúng tôi, mà ngay cả ai là người hiểu đạo cũng vậy, đều bảo rằng: Tại sao
ông Sư lại đi làm việc ấy? Ở đây có hai lẽ để giải thích. Nếu là Sư chính
hiệu thì nên thả hết tất cả những con chim nầy ra, chứ tại sao lại ngồi đó
để bán? Hoặc giả, nếu muốn tạo nên tài chánh cho chùa, thì một vị Cư Sĩ
ngồi bán, cũng đã thấy khó coi rồi, tại sao vị Sư lại làm việc ấy?
Phóng sanh
Người thông dịch
viên tiếng Đức hôm đó cũng hỏi chúng tôi rằng: Tại sao chùa chiền trải qua
hơn 1.000 năm lịch sử đều hư hại, mà tượng lại không hư? Ai trong chúng
tôi cũng không thể trả lời câu hỏi nầy được. Đoạn anh ta giải thích. Sở dĩ
có điều ấy là khi tạc tượng từ đầu đến chân tượng các điêu khắc gia đều có
đục những lỗ lớn và nước có thể thông hơi từ đây một cách tự nhiên. Do vậy
mà tượng lại còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Trên núi nầy cũng có
chùa Lăng Vân tự. Trước chùa có một đền thờ Lão Tử và Bát Quái có giải
nghĩa âm dương ngũ hành. Tại Trung Hoa cho đến ngày nay có nhiều chùa Phật
Giáo vẫn thờ như vậy. Điều nầy cũng giống như tại Ấn Độ trong các chùa
Phật Giáo, Ấn Độ giáo thường hay chen chân vào để có sự ảnh hưởng với
nhau.
Chúng tôi bây giờ đã
lên đến ngang vai tượng ở một phía khác và từ đây có nhiều người cũng đã
đi bộ xuống dưới chân tượng theo những lối cầu thang cheo leo phía bên
ngoài. Từ trên nhìn xuống một đoàn người leo như thế chẳng khác nào một
con rắn dài uốn éo vòng vo. Từ đó mới thấy tượng Đại Phật Lạc Sơn là to
lớn có một không hai tại xứ nầy là vậy.
Phía bên kia tượng
cũng có treo một Đại Hồng Chung bằng đồng được đúc từ đời nhà Tùy; có khắc
4 bên chung: Phật Nhựt Tăng Huy, Pháp Luân Thường Chuyển, Phong Điều Võ
Thuận và thay vì để Quốc Thái Dân An thì khắc là: Đế Đạo Hà Xương.
Ngọa Phật
tại Lạc Sơn
Sau đó phái đoàn đã
trở lại Thành Đô bằng xe Bus và tối hôm đó ngày 16.10.1999 chúng tôi đã có
một cuộc họp tại khách sạn nầy. Lẽ ra cuộc họp được tổ chức trễ hơn;
nhưng có nhiều lý do khác nhau như Bác sĩ Trâm + Kiều đi Hồng Kông trước
vào ngày 19.10 và Thiện Tâm Lương Nghị phải rời đoàn ngày 20.10.99 để về
lại Quảng Tây; nên chúng tôi mọi người đã hoan hỷ ngồi lại để thảo luận và
nói về cảm tưởng của những người trong đoàn về ưu cũng như những khuyết
điểm. Mọi người đã phát biểu một cách tự nhiên; nhưng nhìn chung ưu vẫn
nhiều hơn khuyết. Điều đáng mừng là suốt chuyến hành hương gần kết thúc
không có ai bệnh nặng; chỉ có vài người phải tiêm thuốc bổ để dưỡng sức,
trong ấy có tôi mà thôi. Điều căn bản vẫn là đi chiêm bái các thánh tích.
Còn việc ăn và ở vẫn là việc phụ. Tuy nhiên nếu việc ăn được cải thiện,
nghĩa là không có dầu nhiều và hy vọng Trung Quốc sẽ nấu chay theo đúng
nghĩa của sự nấu chay như ở Quảng Châu thì ai cũng không ngán. Vì lẽ dầu
nhiều quá. Ai dùng mấy ngày đầu cũng cảm thấy ngon; nhưng những ngày sau
thì đau cổ và có đàm nhiều. Do vậy mà người Trung Quốc lục địa đi đâu cũng
khạc nhổ lung tung. Nếu những người nầy mà qua Singapore thì sẽ bị phạt
nặng nề. Cũng là người Trung Quốc mà mỗi nơi, mỗi khác như thế.
Còn vấn đề chỗ ngủ
tuy là phụ nhưng cũng đáng quan tâm. Vì suốt các đoạn đường đi, hầu như
không có ngày nghỉ. Do vậy khi về khách sạn cần đầy đủ tiện nghi hơn, dĩ
nhiên là không cần phải tươm tất; nhưng cần sạch sẽ và thoáng. Vì có nhiều
khách sạn ở những nơi chưa phát triển có tính cách quốc tế mà lại là những
Đại Danh Sơn của Phật Giáo, khách sạn tại những nơi nầy còn sơ sài lắm.
Tối hôm ngày
16.10.99 sau khi họp xong thì mọi người đi nghỉ. Có một số quý vị muốn dạo
phố; nhưng đã khuya, thôi đành chờ tối mai vậy.
Buổi họp tổng kết
tình hình của phái đoàn hành hương
Sáng hôm sau phái
đoàn chúng tôi đã đến thăm một ngôi chùa lịch sử. Đó là chùa Bảo Quang.
Chùa nầy được lập lên từ thời Đông Hán và đến đời nhà Đường có vua Đường
Minh Hoàng về đây trốn nạn và nhà vua cũng có thời đã đóng đô tại đây. Sở
dĩ chùa nầy gọi là Bảo Quang vì nhà vua nằm ngủ thấy một vệt ánh sáng từ
đâu bay đến trụ lại trên hư không; nên nhà vua đã cho đặt tên chùa nầy là
chùa Bảo Quang. Chùa nầy cách Thành Đô chừng 20 cây số. Sở dĩ cách mạng
văn hóa ở Trung Hoa từ 1966-1976 chùa nầy không bị đập phá vì Thủ Tướng
Chu Ân Lai đã có lần dùng chùa nầy làm Tổng Hành Dinh cho quân sự để chống
lại quân của Quốc Dân Đảng; nên sau nầy Chu Ân Lai đã ra lệnh không cho
triệt phá những ngôi chùa như thế.
Bảo Quang tự ở Thành
Đô
Tôi không biết rằng
thời bế quan tỏa cảng như thế có người ngoại quốc nào có mặt tại Trung
Quốc không? nếu có, chắc rằng chứng kiến nhiều cảnh phá chùa, đập tượng,
giết người, bắt bớ v.v... chắc là thê thảm lắm. Nhiều người Trung Quốc vẫn
còn rùng mình khi nhắc lại những thời kỳ đau lòng nầy, mà cách nay chỉ mới
24 năm, đâu có xa xôi gì; nên ai cũng cảm thấy như một giấc mộng.
Nhớ lại đất nước
Việt Nam của chúng ta cũng thế. Kể từ khi Cộng Sản Việt Nam thôn tính cả
miền Nam vào ngày 30.4.1975 họ cai trị với một chính sách độc tài, độc
đảng, sắt máu và nặng mùi chủ nghĩa Karl-Marx Lénin cho đến năm 1986 và
dân tộc ta đã ngậm đắng nuốt cay, chịu khổ chịu nhục với cái chủ nghĩa
không tưởng nầy và dân tộc ta đã chịu không biết bao nhiêu lầm than đói
khổ. Không những đói về vật chất, cơm no áo ấm cho người dân, mà còn đói
tự do và kể cả tự do tín ngưỡng nữa. Trong khi quê hương của Karl-Marx ở
Trier thuộc vùng Nam Đức, người dân tại đây họ không chấp nhận một đứa con
lai căn đi làm hại đất mẹ; thì tại Việt Nam nhiều người lãnh đạo Đảng Cộng
Sản mang về thờ làm Tổ. Ngay cả Lénin và Stalin cũng thế, ngày nay các xứ
Cộng Sản Đông Âu, kể cả Nga Sô cũng đã hạ bệ lâu rồi, chỉ còn Cộng Sản
Việt Nam đi ca ngợi chủ nghĩa nầy là bách chiến bách thắng.
Tại chùa nầy có treo
một số tranh ảnh họa của Trương Đại Thiên, là một họa sĩ chuyên môn vẽ
truyền chân, vẽ về ngựa ở đầu thế kỷ thứ 20 nầy. Nhìn những hình ngựa của
ông vẽ, người ta có thể tưởng tượng được rằng con ngựa ấy vẫn còn sống và
đang hướng về mình. Đó là tài hoa của một người nghệ sĩ vậy.
Chùa nầy tuy thuộc
về Thiền Tông; nhưng vẫn thờ hình ảnh của 500 vị A-La-Hán. Nói là 500
nhưng trên thực tế có 577 tượng. Mỗi một vị tượng có một bộ khác nhau và
cách bắt ấn hay cầm những pháp khí cũng khác nhau. Mỗi tượng cao chừng 1
thước 20 đến 1 thước rưỡi. Hơn 500 tượng như thế được tôn thờ trong một
ngôi chùa, được gọi là La-Hán Đường. Triều đại nhà Thanh đã xây thêm
La-Hán Đường nầy. Chùa nầy có một bảo tháp cao 13 tầng gọi là Xá Lợi Bảo
Tháp. Đứng ở phía nào cũng thấy tháp nghiêng. Có lẽ vì không gian quá
chật, nên không đo được độ cao của tháp.
Đây cũng là một ngôi
chùa đặc biệt trong nhiều ngôi chùa khác ở Trung Quốc là theo cả Thiền
Tông lẫn Tịnh-Độ Tông. Điều đặc biệt của đoàn lần nầy là được đảnh lễ xá
lợi của Phật. Mọi người vào cửa phải trả tiền thêm. Riêng Tu Sĩ thì khỏi.
Tuy nhiên họ vẫn cho Cư Sĩ vào; nhưng rất giới hạn. Phải nói rằng tại
Trung Quốc, đi đâu cũng thấy người. Ở Nhật hơn 5 năm tôi đã ngán người
đông tại đó. Bây giờ đến Trung Quốc thấy đáng ngại quá. Không biết trong
10 hay 20 năm nữa, với độ tăng nầy, rồi Trung Quốc phải dung chứa vào đâu?
Ở thành thị người đông ở nhà lầu đã đành; nhưng tại nhà quê Trung Quốc,
nơi nào cũng 4 hay 5 tầng lầu. Điều ấy chứng tỏ rằng chỗ ở nơi đây còn
giới hạn lắm. Vì phải dành chỗ để canh tác và nuôi hơn 1 tỷ dân nầy không
phải là điều đơn giản. Chúng tôi đầu thành đảnh lễ xá lợi và tụng một thời
kinh sám hối tại Bảo Quang tự nầy, trước khi đảnh lễ xá lợi, mà có lẽ nơi
nầy Đường Minh Hoàng cũng đã có dịp ghé qua.
Trên đường trở lại
xe Bus phái đoàn ai cũng mua nào khoai lang nướng, khoai lang lùi, mía róc
vỏ, bưởi, cam v.v... như thể tại Âu Châu chưa bao giờ dùng đến. Mọi người
Hoa đứng chung quanh chúng tôi tỏ ý tò mò. Có lẽ họ sẽ đặt dấu hỏi. Tại
sao cũng da vàng, tóc đen, mũi thấp mà nói tiếng gì xa lạ chứ không phải
tiếng Hoa. Những thứ mà chúng tôi mua đó, là những vật liệu rẻ tiền nhất
của xứ nầy, đâu có ai muốn nhìn tới. Thế mà cả đoàn hành hương ăn mặc sang
trọng, mỗi người một loại trên tay và lên xe Bus với dáng điệu hỉ hả vô
cùng. Quê hương là gì nhỉ? Đố ai định nghĩa được. Nhưng nếu không có những
thứ nầy thì không nuôi lớn nên người. Vì vậy cho nên người Việt dầu xa quê
hương bao lâu và ở bất cứ nơi đâu trên quả địa cầu nầy cũng luôn luôn có
những tình cảm dạt dào hướng về quê mẹ; nhưng quê mẹ có chấp nhận hay
không lại là điều khác. Ngày xưa Hạ Tri Chương một văn sĩ nổi tiếng của
Trung Hoa lúc trẻ xa quê, đến khi già trở lại. Tuy giọng quê không đổi mà
tóc mai đã thay màu. Trẻ nhỏ nhìn thấy nhưng không hiểu người xa quê ấy là
kẻ nào và đã cười bảo với nhau như thế.
Đây là một tâm sự
rất đau thương và não nề cho bao kẻ ly hương như chúng tôi.
Sau khi dùng cơm
trưa, phái đoàn đã đi thăm Văn-Thù Viện. Chùa nầy đang chuẩn bị trùng tu
và xây mới lại một số cơ sở ngoại vi. Trông thấy mô hình chùa ai cũng tắc
lưỡi. Vì lẽ so ngôi chùa của Trung Quốc với nhiều ngôi chùa của Việt Nam
chúng ta trên thế giới, chùa của chúng ta chẳng ra sao cả. Mỗi ngôi chùa
lớn của Việt Nam mình nhiều lắm là bằng cổng Tam Quan của chùa Trung Quốc
mà thôi. Đến chùa nầy tôi thấy có một số cụ già bày cho con cháu của mình
lễ Phật. Hy vọng rằng đây là một dấu hiệu tốt để Phật Giáo sau nầy có cơ
ngơi phát triển, mà nhất là niềm tin của một người con Phật đúng nghĩa
phải thực hành giới định huệ và huân tu tịnh nghiệp, mới mong mọi người
thấu hiểu Phật Pháp một cách sâu rộng hơn.
Tại sân chùa nầy,
nơi bình phong giữa sân có gắn lên đó một chữ PHƯỚC ngược đầu. Nhiều cụ
già đứng từ xa và nhắm mắt lại, sau đó dang tay ra đi thẳng. Nếu ai bàn
tay sờ thẳng chữ PHƯỚC thì người ấy được duyên may. Tại chùa nầy cũng thờ
hai đức Văn Thù, Phổ Hiền rất lớn. Ngài Văn Thù cỡi trên con Thanh Sư và
Ngài Phổ Hiền cỡi trên con Bạch Tượng 6 ngà. Chùa nầy cũng có chẩn tế để
cầu nguyện cho cõi âm được siêu thoát. Do vậy bên ngoài vẫn còn treo hình
của con đề thính nơi đạo tràng thường hay chẩn tế.
Tiếp đó phái đoàn đã
đi thăm Thanh Dương Cung. Nơi đây thờ Lão Tử. Thanh là xanh, Dương là Dê
và Cung là cung điện, nơi chốn. Suốt cả đoạn đường đi, đây là lần đầu tiên
phái đoàn đến thăm một nơi thờ Lão Tử rất trang trọng. Trước cổng vào có
những thanh niên theo Đạo Lão, đội mũ màu đen, để râu tóc dài ngồi đó đoán
xăm hoặc chăm sóc cho những người lễ bái. Hai bên cổng ra vào nơi Thanh
Dương Cung nầy có hai câu đối như sau:
Đạo sinh ra một, một
sinh ra hai,
hai sinh ra ba và ba
sinh ra vạn vật.
Một vế khác đối
rằng:
Trời sinh ra vạn
vật, vạn vật sinh ra người,
người sống trong
trời đất và trở về tánh hư vô của Đạo.
Thanh Dương Cung của
Lão Giáo tại Thành Đô
Tại đây các tín đồ
của Đạo Lão cũng ăn chay và y phục của họ toàn là một màu đen.
Chính giữa Tam Thanh
Điện có thờ Lão Tử và chung quanh là đệ tử của Lão Tử cũng như những vị
thần bất tử ở trên trời. Ở tại Tam Thánh Điện có thờ một con Dê bằng đồng
xanh và con Dê nầy được cấu tạo bởi 12 con giáp. Ví dụ như đầu dê, tai
heo, mắt mèo, lưng cọp, chân ngựa, đuôi gà v.v... Phía trên nóc của Tam
Thanh Điện có vẽ sự biến thiên của quẻ Li, có hình giống y hệt lá cờ Việt
Nam Cộng Hòa của chúng ta. Nghĩa là có 3 sọc đỏ nằm trên nền vàng. Nếu ai
đó muốn tìm hình ảnh nầy tại Trung Quốc thì nên đến Thành Đô và tại Tam
Thanh Điện thuộc Thanh Dương Cung sẽ thấy được hình ảnh nầy.
Nơi cuối cùng của
Thanh Dương Cung có thờ hình ảnh của một vị vua nhà Đường cùng Hoàng Hậu
đã là tín đồ của Đạo Lão và đã phò trì Lão giáo phát triển trong giai đoạn
đó; nhưng rất tiếc là dưới hình nầy không ghi là vị vua nào.
Nhiều người muốn trở
về khách sạn sớm để đi Shopping. Có nơi để giá 21.200 Yuan tương đương với
4.500 Đức Mã; nhưng cuối cùng chỉ bán 650 Yuan tương đương với 130 Đức Mã.
Điều nầy ở Trung Quốc cũng không khác gì Ấn Độ mấy. Nếu khách hành hương
khi đi Shopping tại xứ nầy; nên để ý những điều sai biệt bên trên để mà
trả giá. Dĩ nhiên có nhiều nơi như chùa chiền thì không nói thách mấy;
nhưng cũng có quyền trả giá và những nơi quản lý của chính phủ thì nên trả
giá càng nhiều càng tốt. Vì nơi đây giá cả khác biệt nhau rất nhiều với
bên ngoài.
Quảng Châu thành ▲
Mọi người ai trong
đoàn cũng nô nức phải đến thăm thành Quảng Châu một chuyến. Vì đây là thủ
phủ của tỉnh Quảng Đông mà. Quảng Đông lại là xứ có nhiều người đi ra
ngoại quốc nhất; nên ai ai cũng mong mỏi có ngày về lại cố hương. Do vậy
đã có nhiều người mơ ước.
Ngày 18 tháng 10 năm
1999 phái đoàn chúng tôi sau khi cân hành lý đã lên máy bay và từ Thành Đô
đến Quảng Châu phải bay hơn 2 tiếng đồng hồ. Có lẽ dài hơn 1.000 cây số.
Xứ Trung Quốc là một xứ rộng; người đông, di chuyển khó khăn, không giống
như Mỹ, Canada hay Úc; nên phải cần nhiều thời gian hơn so với các quốc
gia Âu Mỹ nầy. So ra 20 năm đổi mới tại Trung Hoa như thế cũng là một tiến
bộ lớn; nhưng so với sự phát triển của Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn,
Singapore thì Trung Quốc còn phải cải tổ nhiều lắm mới theo kịp. Có nhiều
người bảo rằng thế kỷ thứ 21 là thế kỷ của những người tóc đen hướng về
phát triển của kỹ nghệ. Trong khi đó tại Âu Mỹ ở thế kỷ thứ 20 đã qua hơn
một thế kỷ phát triển kỹ nghệ, bây giờ họ lại hướng về tâm linh, nhất là
Phật Giáo.
Đón chúng tôi tại
phi trường là một người Hoa Quảng Đông, đã ở Đức hơn 10 năm; nhưng ông ta
nói tiếng Đức ông ta nghe, còn những gì chúng tôi đề nghị, thì ông ta
không lưu tâm đến. Có nhiều khi ông ta nói "tiếng bồi", tôi chỉnh lại
liền. Vì chúng tôi không phải là những người không biết văn hóa và văn
chương Đức. Sau đó ông ta có thú thật là trong thời gian ở Đức đã quen với
nhiều người Việt sống ở Bielefeld. Có nhiều người bài bạc hết tiền, sinh
ra trộm cướp; nhiều khi mượn tiền của ông ta và không trả. Lại có nhiều
hành động hạ cấp. Do vậy mà ông ta xử dụng "tiếng bồi" với chúng tôi. Tôi
cho ông biết rằng trong đoàn nầy có nhiều người ở Đức hơn 30 năm và có ăn
học đàng hoàng. Xin ông sửa lại cách thông dịch. Sau đó ông ta xin lỗi và
kể từ đó về sau thái độ của ông ta đối với chúng tôi rất khác.
Ông ta giới thiệu về
Quảng Châu như sau: Trước đây Quảng Châu có tên là Dương Thành. Vì nơi đây
có 5 vị Tiên cỡi dê đến trước; nên thành nầy được gọi là Thành Dê. Sau đó
người Âu Châu gọi thành nầy là Canton. Thành phố nầy có 2.800 năm lịch sử.
Dân số sống tại Quảng Châu là 6 triệu 600 ngàn người. Nếu kể cả chung
quanh của Quảng Châu thì số cư dân lên đến 10 triệu. Trong nầy có hơn 3
triệu chiếc xe đạp. Nhiệt độ trung bình ở Quảng Châu là 22 độ C. Cao nhất
là 40 độ C và thấp nhất là 0 độ C; nhưng ở đây không có tuyết rơi. Mùa hè
rất nóng. Vì có gió Nam nên nóng hơn ở Đức và ở Việt Nam. Chúng tôi đi
ngang qua đường giải phóng. Dưới đường nầy có xe điện ngầm và đường ngầm
nầy do hãng Siemens của Đức xây dựng.
Chúng tôi đã dừng
chân trước chùa Quang Hiếu và trước chùa Quang Hiếu có hai câu đối nói lên
tính cách cổ xưa của ngôi chùa. Hai câu đối ấy như sau:
Ngũ Dương luận cổ tự
Sơ địa phỏng ha lâm
Nghĩa là:
Năm Dê suy chùa cổ
Đất đầu thăm rừng
Thiền
Câu nầy có nghĩa là
có 5 ông Tiên cỡi Dê đến đất nầy đầu tiên và chính 5 vị Tiên nầy đã thăm
chùa Quang Hiếu cũng như rừng Thiền tại xứ sở nầy.
Tại chùa Quang Hiếu
phái đoàn chúng tôi cũng đã đảnh lễ nơi tháp thờ tóc của Lục Tổ Huệ Năng.
Về lịch sử tháp nầy chúng tôi đã có đề cập nơi quyển "Theo Dấu Chân Xưa",
quý độc giả có thể tham khảo nơi quyển nầy.
Phái đoàn cũng đã
đến thăm chùa Lục Dung. Lục Dung có nghĩa là 6 cây đa. Tại đây có 2 câu
đối, đối trước cửa chùa:
Nghĩa là:
Một tháp có bia ghi
công đức
Sáu cây đại thọ nhớ
Đông Pha
Điều ấy có nghĩa là:
mặc dầu ngày nay Tô Đông Pha đã ra đi; nhưng tại chùa nầy còn ghi lại bút
tích của Tô Đông Pha vậy. Tương truyền rằng kiếp trước Tô Đông Pha cũng là
một Tu Sĩ, cùng tu với Ngài Phật Ấn. Trong khi Ngài Phật Ấn mong muốn trở
thành vị Bồ Tát để cứu đời thì Tô Đông Pha muốn làm vua để hưởng lạc. Thế
nhưng vì phước đức chưa đủ; nên Tô Đông Pha trong kiếp nầy chỉ làm được
đại thi nhân của Trung Quốc mà thôi.
Thay vì chúng tôi đi
sâu vào trong nội viên của chùa Lục Dung để thăm viếng thì chúng tôi đề
nghị người hướng dẫn đoàn là nên đi thăm mộ các liệt sĩ Hoàng Hoa Cương.
Người hướng dẫn đồng ý. Do vậy đã đổi lộ trình. Đầu tiên chúng tôi đến đền
tưởng niệm Tôn Dật Tiên, đối diện với Tòa Thị Sảnh của Quảng Châu. Như tất
cả chúng ta đều biết, linh hồn của cuộc cách mạng Tân Hợi vào ngày
10.10.1911 là do Tôn Dật Tiên đề xướng và sau đó triều đại nhà Thanh đã
cáo chung, nước Trung Hoa trở thành nước Dân Chủ Cộng Hòa và trong thời
gian nầy Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên cũng như những phong trào cứu quốc
đã được thành lập khắp nơi để đưa nước Trung Hoa đến một giai đoạn mới.
Đồng thời với thời gian nầy tại Việt Nam chúng ta đã có Kỳ Ngoại Hầu Cường
Để, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng v.v... cũng đã một mặt chống thực dân
Pháp, một mặt muốn có một nền độc lập tự chủ cho nước nhà; nên mới bôn ba
nơi hải ngoại để đấu tranh và cuối cùng ở Việt Nam thì Hồ Chí Minh thủ
lợi, ông ta loại các đồng chí của ông ta ra và Quốc Dân Đảng của Nguyễn
Thái Học cũng như tinh thần Yên Bái đâu có còn được người Cộng Sản lưu tâm
đến. Tại Trung Hoa cũng thế, sau khi Tưởng Giới Thạch rút quân qua Đài
Loan thì Mao Trạch Đông chiếm toàn cõi Trung Hoa và kể từ ngày 1.10.1949
nước Cộng Hòa Dân Chủ Trung Hoa trở thành nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản Trung Quốc.. Tuy
nhiên những người hậu duệ của Mao Trạch Đông như Chu Ân Lai, Đặng Tiểu
Bình còn nhớ đến kẻ có công với đất nước, không những không đập phá đền
thờ của Tôn Dật Tiên tại Nam Kinh mà vào năm 1981 nghĩa là cách đây đúng
20 năm tại Quảng Châu nầy những người lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc đã cho
xây một đền thờ tưởng niệm to lớn nơi đây.
Tôn Trung Sơn sanh
cách Quảng Châu độ 80 cây số và năm 1925 ông ta mất. Mộ hiện ở tại Nam
Kinh, nhưng tinh thần Tam Dân Chủ Nghĩa của ông thì vang lừng khắp nơi
trên thế giới.
Đây cũng là Tổng
Hành Dinh của Quốc Dân Đảng Trung Hoa ngày trước; nhưng sau nầy bị tàn phá
và bây giờ được xây dựng lại giống như một nhà hát có 4.000 chỗ ngồi rất
lịch sự. Tại đây cũng có 2 cây Bạch Lan rất lớn, mà Việt Nam chúng ta
thường gọi là cây Ngọc Lan. Cây nầy trồng hai bên đền tưởng niệm nầy đã 65
năm. Thân cây rất cao, vươn lên độ 30 thước và tỏa ra bóng mát che rợp cả
một góc sân. Hương của hoa Mộc Lan hay nói đúng hơn là Bạch Lan đã làm cho
cả phái đoàn ngây ngất, mọi người đều hướng về một quá khứ xa xôi ở đầu
thế kỷ thứ 20 mà tưởng niệm đến công lao của những người đã hy sinh vì lý
tưởng tự do cho đất nước.
Sau đó chúng tôi đến
thăm nơi kỷ niệm 72 liệt sĩ đã hy sinh tại Hoàng Hoa Cương vào năm 1905.
Ngày ấy chỉ 72 vị; nhưng cho đến giờ nầy đã có 105 người, trong đó có liệt
sĩ Phạm Hồng Thái. Ở giữa một khung trời bao la ấy có một mảnh đất thật
đẹp để an trí những người đã hy sinh của Quốc Dân Đảng, thật là một nghĩa
cử quá đẹp của các chính quyền cũ cũng như mới. Tại đây cũng có một người
Việt Nam tên là Phạm Hồng Thái.
Lần trước đi đến
Quảng Châu đã thiếu duyên nên chúng tôi không vào thăm mộ liệt sĩ được và
lần nầy chúng tôi quyết tâm phải đến và cuối cùng thì chúng tôi đã được
toại nguyện.
Mộ của 72 Liệt sĩ
Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu
Đầu tiên chúng tôi
đã xem danh sách 72 liệt sĩ ghi nơi bia bằng chữ Hán tại đó không có tên
Phạm Hồng Thái, sau đó hỏi thăm người làm vườn họ bảo là chôn phía bên mặt
từ ngoài đi vào thụt sâu vào bên trong. Chúng tôi đã dõi theo bóng chiều
mà tìm về ngôi mộ của người xưa. Đến đây chúng tôi thấy một khung cảnh
thiên nhiên thật hùng vĩ để chôn chặt một tâm hồn vị quốc vong thân. Mộ
bia cao độ 2 thước và trên mộ có khắc 2 loại chữ. Đó là tiếng Việt và
tiếng Trung Quốc. Đại để mộ bia ghi như sau:
Mộ Liệt Sĩ
Phạm Hồng Thái
Sinh ngày 14.5.1895
Hy sinh ngày
19.6.1924
Người sinh năm 1895
và mất năm 1924 như vậy mới có 29 tuổi, mà đức hy sinh đó đã đi vào lịch
sử Việt Nam. Có một điều mà trên tấm bia phần tiếng Việt không có ghi, mà
lại ghi bằng chữ Hán phía bên trái là: Bia nầy được dựng lên vào ngày 24
tháng 3 năm 1958 bởi Ủy Viên Nhân Dân Tỉnh Quảng Châu. Đây cũng là một
điều đặc biệt. Chắc chắn một điều Phạm Hồng Thái không hoạt động cho Cộng
Sản Việt Nam và Cộng Sản Trung Quốc. Ông chỉ chiến đấu theo tinh thần của
Quốc Dân Đảng Trung Hoa do Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch lãnh đạo cũng
như Quốc Dân Đảng Việt Nam lãnh đạo; nhưng tại sao người Cộng Sản Trung
Quốc lại dựng bia để ghi ơn Người. Về vấn đề lịch sử nầy chúng ta nên cần
tra cứu lại để lợi ích cho đời sau. Vào khoảng thời gian đó, miền Bắc Việt
Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Kể từ năm 1954 đến 1958 còn quá nhiều vấn đề
để phải lo; nên Hồ Chí Minh cũng không có công đâu để can thiệp với Mao
Trạch Đông và Đảng Cộng Sản Trung Quốc để lo điều đó. Vả lại tại miền Nam
Việt Nam lúc bấy giờ do Ngô Đình Diệm lãnh đạo cũng không có sự quan hệ
ngoại giao với Trung Cộng; nên việc xây mộ nầy chắc chắn chỉ có một mình
phía bên Trung Quốc làm. Điều ấy đã nói lên được sự hy sinh cao cả của
liệt sĩ cho tiền đồ của dân tộc Việt Nam; nhưng cũng để biết rằng người
Cộng Sản Trung Quốc không bội bạc như những người Cộng Sản Việt Nam đã đối
xử với ngay cả những người đồng chí của mình, hay của những ai đã một thời
góp công vào sự giải phóng dân tộc.
Trước mộ Liệt-sĩ
Phạm-Hồng-Thái ở Quảng Châu
Tất cả phái đoàn đều
ngậm ngùi đứng trơ như tượng đá trước mộ liệt sĩ để tưởng niệm người xưa.
Sau một thời kinh cầu nguyện, nước mắt ai cũng chảy dài trên gò má lúc nào
chẳng hay biết. Mỗi người Cư Sĩ trong đoàn đốt nhang để tưởng niệm và lạy
người nằm đây 3 lạy.
Tiếp đó chúng tôi
đến viếng mộ một người Việt Nam nằm bên cạnh. Có lẽ đây cũng là một đồng
chí Quốc Dân Đảng của liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Mộ mới chôn và nhang khói
vẫn còn đây. Có lẽ ông ta còn có thân nhân tại xứ nầy kể từ ngày sa cơ lỡ
bước; nên thi hài cũng không được đưa về quê hương chôn cất. Mọi người đến
đây đốt nhang để tưởng niệm.
Trước khi chúng tôi
đến đây đã có một Phái đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hải Phòng cũng đã đến đây
đặt vòng hoa tưởng niệm. Hoa đã tàn; nhưng hàng chữ ghi trên vẫn còn đậm
nét. Như thế, từ từ cũng sẽ có những người Cộng Sản ở thế hệ trẻ khi tìm
hiểu về lịch sử của nước nhà, họ phải quan tâm. Do vậy cũng đã có những
đoàn hành hương đến đây đốt nhang và đặt vòng hoa tưởng niệm. Phía bên
người Việt tỵ nạn chúng ta cũng thế. Nếu ai đó có dịp đi sang Quảng Châu
nên dành một ít thời gian để đến nơi mộ của 72 liệt sĩ đã hy sinh nơi
Hoàng Hoa Cương mà đốt cho họ cũng như cho liệt sĩ Phạm Hồng Thái một nén
nhang, để đỡ tủi hờn cho người anh hùng ấy.
Rồi đây cũng có
không biết bao nhiêu nấm mồ hoang như thế sẽ được nằm xuống và bia sẽ được
dựng lên ở Âu, Mỹ, Úc, Á, Phi v.v... cũng chỉ để ghi lại một chút gì để
nhớ ơn của người xưa. Nếu là danh nhân liệt nữ thì đã có sử xanh ôn lại;
còn không họ hàng không thân nhân, không quê hương tổ quốc, chỉ có chùa
chiền mới dung chứa nổi những cảnh cô độc nầy mà thôi. Vì vậy nhà thơ
Huyền Không cũng đã tả trong bài Nhớ Chùa, như sau:
"Biết đến bao giờ
trở lại quê
Bâng khuâng lòng gởi
nhớ nhung về
Tang thương dầu có
bao chăng nữa
Cũng nguyện cho chùa
khỏi tái tê
Chuông vẳng nơi nao
nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ
chùa chung
Mái chùa che chở hồn
Dân Tộc
Nếp sống muôn đời
của Tổ Tông"
Nam Hoa Thiền tự và Vân Môn tự ▲
Tôi trở về Nam Hoa
Thiền Tự nơi Thiền Phái Tào Khê bắt nguồn; cũng như chùa Vân Môn; nơi
Hư-Vân Lão Hòa Thượng trụ trì, lần thứ hai, thấy lòng mình nhẹ phơi phới
như gió thu sang. Có lẽ vì con đường xưa nầy đã qua lại lắm lần; nên lần
nầy tôi không cảm thấy bỡ ngỡ mấy. Hôm ấy là ngày 19.10.1999, phái đoàn
chỉ còn lại 16 người và một thông dịch viên; 2 người khác đã sang Hồng
Kông trước, đó là Bác sĩ Thị-Minh Văn Công Trâm và Thị-Vân Hồ Thị Kiều. Vì
2 vị nầy lần trước đã đi rồi; nên lần nầy muốn qua Hồng Kông sớm hơn phái
đoàn là vậy.
Chúng tôi đã đảnh lễ
nhục thân của Lục Tổ Huệ Năng đã có hơn 1.400 năm lịch sử và bên cạnh đó
có cả nhục thân của Ngài Đơn Điền và Ngài Hám Sơn nữa. Cảnh cũ vẫn còn
đây; nhưng người xưa không còn nữa. Tuy nhiên những pháp âm và nhục thân
nầy của chư vị Tổ Sư đã làm cho chúng con, cả phái đoàn ai ai cũng cảm
động về hành hoạt của các Ngài trong quá khứ cách đây đã hơn cả ngàn năm.
Giờ đây đứng trước cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ và ngôi chùa xưa cổ kính,
chúng con lại tìm đến nơi "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" của Lục Tổ nơi
"phục hổ xứ" và nơi dòng nước Tào Khê vẫn còn luôn luôn tuôn chảy nơi đây.
Chúng tôi đã gội nhuần ơn đức của chư Tổ và chúng con đã dùng dòng nước
Tào Khê nầy để rửa lên mặt, gội lên đầu, nhằm tẩy rửa những vết nhơ của
kiếp kiếp nhân sinh.
Nam Hoa Thiền Tự tại
Thiều Quang, Quảng Châu
Đi qua những nơi như
Ngũ Quán Đường, Truyền Giới Đường, hay Bồ Đề Thọ v.v... chúng con đã liên
tưởng đến dáng dấp của Người xưa. Chắc rằng nơi đây đã in lại những gót
chân của Lục Tổ, của Hư-Vân Lão Hòa Thượng và của các bậc Đại Sư từ dạo
rừng thiền Bảo Lâm cho đến ngày nay. Mặc cho những tang thương cùng tuế
nguyệt; nhưng những hành trạng của các Ngài vẫn không đổi thay, mà còn làm
cho tâm tính của nhân sinh, đặc biệt là những người Phật Tử càng ngày càng
vọng về nơi Nam Hoa Thiền Tự nầy để hướng thượng trong pháp môn tu học
giải thoát nầy.
Cùng với Thiện-Tâm
tại tháp thờ tóc của Lục Tổ Huệ Năng.
Cùng với phái đoàn
tại tháp Tổ.
Cùng với Thiện-Tâm
tại Tào Khê Thánh Địa.
Ưng Vô Sở Trụ, nơi
Lục Tổ Huệ Năng ứng thân hành đạo.
Chiều hôm đó phái
đoàn đã đến chùa Nam Hoa để thăm những nông thiền nơi đây cũng như đảnh lễ
ngôi bảo tháp thờ nhục thân của Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân; người đã trụ
thế 120 tuổi nơi cõi Ta Bà nầy. Bây giờ là mùa gặt nên chư Tăng Ni trong
Phật Học Viện Vân Môn đã tận lực làm công việc đồng áng nầy để đảm bảo cho
cái đói, cái lạnh về mùa đông. Vì nơi đây ít có khách thập phương đến
chiêm bái cũng như cúng dường.
Khi đọc quyển "Hư
Vân Lão Hòa Thượng Niên Phổ" chúng con đã quá cảm kích cho cuộc đời của
một vị Đại Đạo Sư, đã vì chúng sanh mà không quản ngại mọi khó khăn chồng
chất trên thân thể của mình. Ví dụ như bị đánh đập, tra tấn bởi quân đội
của Cộng Sản, cũng chỉ vì một nguyện vọng duy nhất là không muốn ai làm
khổ đến các sinh linh đồ chúng khi họ phát tâm tu hành giải thoát và sau
khi đã kiến tạo cũng như trùng tu hằng trăm ngôi chùa đồ sộ nguy nga, Ngài
Hư Vân vẫn ở những túp lều tranh đơn giản bên cạnh chùa. Hoặc giã từ ra đi
đến những nơi cần đến Ngài, không một sự tiếc rẻ. Vì biết rằng tất cả
những gì có hình tướng nơi thế gian nầy đều không hiện hữu mãi, mà phải
biến đổi bởi luật vô thường của nhân thế.
Nông thiền tại Vân
Môn tự.
Nông thiền.
Phái đoàn tại tháp
cùa Ngài Hư-Vân Lão Hòa Thượng nằm sau chùa Vân Môn ở Thiều Quang.
Tại Hồng Kông ▲
Chuyến xe lửa từ
Thiều Quang trở về Quảng Châu lúc 11 giờ 38 phút. Sau hơn 3 tiếng đồng hồ
đã chuyên chở chúng tôi đến nhà gare chính tại đây. Hôm ấy là ngày
20.10.1999, chúng tôi có kẻ buồn người vui. Vì lẽ Thiện-Tâm Lương-Nghị
người thông dịch Việt ngữ sẽ về lại với gia đình sau 21 ngày đã đi chung
với phái đoàn đến từ Âu Châu, khác ngôn ngữ, khác tập quán. Tuy cũng là
người Á Châu và vui vì lẽ trong đoàn thể của những người hướng dẫn viên du
lịch Trung Quốc bây giờ có thêm một người biết lễ Phật và tạo nên công đức
khi đến chùa, chứ không phải chỉ đến nhìn Phật, rồi nói qua loa ba điều
bốn chuyện cho khách lãm du, mà còn biết lễ Phật, bái Phật và cung kính
với chư Tăng nữa.
Sau khi xuống xe
lửa, chúng tôi đã được người thông dịch hôm trước đến đón đi và Thiện-Tâm
Lương-Nghị bây giờ đã chia tay thực sự với chúng tôi. Mọi người trong đoàn
ai cũng cảm động. Có nhiều người rưng rưng nước mắt và có nhiều người đã
khóc oà lên. Thiện-Tâm Lương-Nghị cũng thế, một người con trai mới lớn tại
xứ sở nầy, sống trong một xã hội Cộng Sản; nhưng bây giờ đã có một đức tin
đối với Đạo Phật. Quả là điều hy hữu. Đây là đệ tử thứ 2 của tôi người
Trung Quốc. Còn một người khác dạy khí công cũng đã quy y tại chùa Viên
Giác Hannover cách đây mấy năm về trước.
Sau khi về lại Đức
tôi đã giữ lời hứa, đã có mấy lần điện thoại và Téléfax cho Thiện-Tâm
Lương-Nghị và mỗi lần như thế Lương-Nghị đều mở đầu chào bằng câu: Nam Mô
A-Di-Đà Phật. Tuy trong phái đoàn nhiều người đã khóc; nhưng đó là một
niềm vui chứ không phải là một nỗi buồn. Vì lẽ ai cũng biết rằng trong tất
cả mọi người cùng đoàn đã có thêm một người bạn đạo mới.
Xe lửa chạy từ Quảng
Châu đến Hồng Kông độ 2 tiếng đồng hồ. Đây là một loại xe lửa tư bản có
đầy đủ tiện nghi. Từ Trung Quốc đi Hồng Kông vẫn bị kiểm soát giấy thông
hành tại cửa khẩu nhập cảnh. Mặc dầu đã 2 năm rồi, Hồng Kông được trao trả
chủ quyền cho Trung Quốc và mới đây vào cuối năm 1999 Macao cũng vậy.
Chính quyền Trung Quốc muốn chứng tỏ rằng họ không can dự vào nội bộ của
Hồng Kông cũng như của Macao để cho thế giới biết rằng trong một nước có
hai chính thể cũng không sao. Thứ nhất để tạo niềm tin nơi người dân tại
đó. Thứ hai để mà mắt Đài Loan, tìm đủ mọi cách để chiêu dụ Đài Loan sau
nầy phải trở về với Trung Quốc; nhưng khi đã trở về rồi; chẳng biết rằng
chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Vì lúc bấy giờ mọi việc đã rồi. Chắc gì những
nơi nầy vẫn còn hưởng được chế độ một quốc gia, hai thể chế chính trị như
ngày hôm nay.
Đến Hồng Kông chúng
tôi đã gặp một người thông dịch tiếng Đức rất nhanh nhẹn và đúng là ở xã
hội tư bản. Tay làm, miệng nói, chứ không chậm chạp hay hời hợt như tại
Trung Hoa lục địa và anh ta vẫn luôn luôn tự hào anh ta là người Hồng Kông
chứ không chấp nhận là một người Trung Quốc. Điều nầy cũng giống như người
Đài Loan, họ vẫn bảo họ là người Đài Loan chứ không phải là người Trung
Quốc. Chỉ có chủ nghĩa mà một dân tộc đã có nhiều quan niệm sống như thế
thì thử hỏi trong cõi Ta Bà nầy làm sao không có những trăn trở của nhiều
kiếp nhân sinh ?
Chúng tôi được đưa
đến khách sạn Majestic tại trung tâm Hồng Kông và khách sạn nầy nằm trên
đường Sàigòn Street. Đúng là một sự trùng hợp, không chờ, không đợi mà đã
đến. Ông chủ hãng du lịch đã đãi phái đoàn chúng tôi một bữa ăn tối chay
tịnh thật đúng nghĩa để tạ lỗi về những gì đã thiếu sót nơi Trung Hoa lục
địa vừa rồi; nhưng chỉ còn lại 6 người dùng tối, còn bao nhiêu vị khác đã
cao bay xa chạy ở các tiệm tạp hóa cũng như ra hải cảng hứng gió rồi. Vì
lẽ lần nầy phái đoàn của chúng tôi chỉ ở lại Hồng Kông có một đêm; nên ai
nấy cũng lợi dụng thời gian ngắn nầy để đi Shopping.
Ở đây cái gì cũng
có; nhưng giá cả chẳng khác gì Âu Châu. Chỉ có một điều là hoa quả nhiệt
đới dễ tìm hơn là những nơi tại Âu Châu. So với giá cả của Trung Hoa lục
địa thì ở đây giá gấp 5 đến 10 lần, do vậy mà cuối cùng chẳng có ai mua
một món gì cả tại Hồng Kông, ngoại trừ một số máy móc cần thiết có một số
người phải mua tại nơi nầy, vì Âu Châu không có.
Một đêm ngắn đã qua
đi. Đoàn chúng tôi bây giờ lại chia làm 2 nữa. Có 2 vị trở về Việt Nam và
trở về lại Âu Châu có 16 vị và để rồi ngày mai 21.10.1999 phái đoàn lại
chia nhỏ ra nữa, để người ở Ý thì về Ý. Ở Pháp thì trở lại Pháp. Ở Mỹ trở
lại Mỹ. Hòa Lan trở lại Hòa Lan. Trong khi đó một số quý vị ở Đức đã bắt
đầu chia tay tại phi trường Amsterdam để trở về Düsseldorf, Hannover và
Hamburg.
Phi trường Hồng Kông
được mở cửa năm 1998 là một trong những phi trường hiện đại nhất thế giới.
Phi trường mới nầy đã được dời đến gần đảo Lantau, nơi có tượng Thiên Đàng
Đại Phật. Phi trường nầy nằm trong đất liền chứ không nằm ngoài biển như
phi trường cũ trước đây; nơi mà máy bay phải đáp trên một phi đạo rất
ngắn, đã gây ra nhiều tai nạn chết người. Nơi phi trường cũ nầy tôi cũng
đã có không biết bao nhiêu lần đi và bao nhiêu lần đến, kể từ khi ở Việt
Nam sang Nhật trước 1975, hay những năm sau nầy, khi có cơ hội về lại Á
Châu là những dịp tôi phải đổi máy bay tại đây. Nhiều khi chỉ cần có 3
phút để đổi máy bay, nhớ lại mà ngao ngán. Vì lẽ càng lớn tuổi thì không
còn có những mạo hiểm với thời gian như thế nữa, mà phải tự chọn cho mình
một lối đi thong thả hơn để trở về cõi tĩnh.
Cách kiến trúc của
phi trường Oslo - Na-Uy trong hiện tại cũng cũng không khác phi trường
Hồng Kông mấy. Đa phần là tốn kém công quỹ của dân chúng; nhưng ai cũng
hài lòng. Vì lẽ đây là bộ mặt, là cửa ngõ ra vào của một phi cảng, một thủ
đô quan trọng của thế giới.
Tôi đã có cơ hội để
qua lại hằng trăm phi trường như thế trên thế giới và đây là cơ hội để so
sánh chỗ nầy chỗ kia như thế nào.
Ngồi trên máy bay từ
Hồng Kông trở về lại Amsterdam tôi đã viết một vài bài cho báo Viên Giác
và quyển sách nầy phải chờ đến cuối tháng 12, đầu tháng 1 năm 2000 mới
hoàn thành. Đúng là quyển sách phải cưu mang trong hai thế kỷ.
Lời cuối
▲
Tôi bắt đầu viết
cuốn sách thứ 28 nầy vào ngày 25.12.1999 tại Na-Uy và hôm nay là ngày
3.1.2000 tôi viết lời cuối sách trên chuyến tàu tốc hành ICE từ Rottweil
miền Nam nước Đức về lại Hannover.Như vậy quyển sách nầy đã trải qua 3
quốc gia để được hình thành. Đó là Na-Uy, Ý-Đại-Lợi và Đức Quốc.
Tôi viết quyển nầy
vào cuối thế kỷ thứ 20 và đầu thế kỷ thứ 21 mới xong, mặc dầu thời gian
chỉ kéo dài hơn một tuần lễ. Thời gian trôi qua nhanh quá, mới đó mà đã
hơn 50 tuổi rồi. Tôi phải làm một cái gì đó như người xưa hay Nguyễn Công
Trứ đã nói:
"Nhân sinh tự cổ
thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm
chiếu hãn thanh"
Người ta càng lớn
tuổi, người ta càng trở vào nội tâm nhiều hơn. Nếu ai vẫn còn mải rong
chơi trong vòng luân hồi sanh tử không tìm lối để về quả là điều thiếu sót
đáng trách vậy. Nhưng đời là gì nhỉ ? Mới hôm qua đây được trọng vọng,
hoan hô, ca tụng hết lời và ngày nay hay ngày mai trở thành đối tượng cho
người khác nguyền rủa. Quả là một điều không tưởng và không có một giá trị
nội tại nào đáng giá cả. Ví dụ Thủ Tướng Kohl khi còn tại nhiệm vào tháng
11 năm 1989 đã thống nhất Đông-Tây Đức không một giọt máu đào, đã biến
Cộng Sản thành chủ nghĩa Quốc Gia và thế giới đã ca tụng ông ta như một
người của thế kỷ thứ 20. Nhưng năm 1998 khi Đảng SPD lên thay thế và cho
đến bây giờ sau hơn một năm cầm quyền cũng chẳng có gì hơn đảng cũ đã làm;
nhưng họ muốn chứng minh cho đảng mình làm đúng cũng như giành lại những
ghế đã mất; nên họ đã không tương nhượng nhau nữa và khưi ra những lỗ hổng
khổng lồ về kinh tế, về việc nhận tiền ủng hộ của các hãng xưởng cho Đảng
CDU và đã làm cho thần tượng của Kohl bị sụp đổ. Nó sụp đổ ngay tại chính
trường nầy và nó sụp đổ ngay trong lòng nhiều người đã tôn thờ ông ta.
Trở về lại chính
trường Trung Quốc cũng thế. Khi còn Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình cũng đã
bao lần lên voi xuống ngựa. Có lúc đưa đến thượng đỉnh của công thần;
nhưng nhiều khi cũng chỉ còn là một người tù bị đày, đi hốt phân của ngựa;
nhưng cuối cùng rồi thời thế cũng đã tạo cho Đặng Tiểu Bình một bộ mặt mới
và đặc biệt là bộ mặt của Trung Quốc của hơn 20 năm nay. Cũng có thể nói
gọn một câu: Nếu không có Đặng Tiểu Bình thì không có Trung Quốc ngày nay
vậy. Điều ấy chứng tỏ rằng cũng một con người đó mà qua năm tháng đã đổi
thay, họ sẽ trở thành biểu tượng của dân tộc và nhiều khi cũng trở thành
một tội đồ của dân tộc.
Cuối tháng 12 năm
1999 vừa qua tại Mỹ Quốc đã xôn xao về sự kiện của Y2K và khắp nơi trên
thế giới đã chuẩn bị cho một vận hội mới của thế kỷ thứ 21 nầy với nhiều
lo toan và khổ tâm không biết lối nào mà mở cửa. Ai có thể đóng góp một
vai trò to lớn vào những sự kiện trọng đại nầy? Thế rồi ngày 31.12.1999
cũng đã qua và hôm nay là ngày 3.1.2000 cũng đã đến, con người lại hướng
đến một cái gì mới mẻ hơn; nên cứ mãi kiếm tìm trong dòng đời hư ảo ấy.
Vào tháng 11 và
tháng 12 năm 1999 vừa qua, tại Việt Nam đã chứng kiến trận lụt kinh hồn
của lịch sử; rồi chết chóc, rồi tang thương, rồi cứu trợ, rồi giúp đỡ từ
mọi miền của đất nước và của mọi người Việt Nam đang tỵ nạn ở Âu, Úc, Á,
Mỹ v.v... để rồi một Việt Nam hôm nay như một chiếc áo rách tả tơi, đã bị
rách bởi chiến tranh, nghèo đói, bây giờ lại còn thảm thương hơn thế nữa,
khi đã trải qua 2 trận lụt vừa qua. Rồi còn gì xảy ra nữa cho thế giới nầy
thì người ta chưa biết được; nhưng chắc chắn một điều là thế giới đang đi
vào cõi hoại diệt, chứ không đi vào sự phát triển như bao nhiêu người đã
lầm tưởng. Con người càng ngày càng ích kỷ hơn và ai chết nấy chịu, chứ ít
ai chịu quan tâm đến những khổ đau của người khác, ngoại trừ một số quốc
gia giàu có đang mở rộng lòng từ cũng như những tôn giáo đã mở rộng vòng
tay để đón nhận biết bao nhiêu tâm hồn sa cơ thất thế ấy.
Lụt lội, nạn sụt
đất, cháy rừng, địa chấn, đói rét, nghèo nàn đã làm cho hơn 6 tỷ người
trên quả địa cầu nầy lo toan không ít. Rồi đây quả địa cầu nầy sẽ đổi thay
nữa và từ từ nhân loại sẽ đi đến chỗ diệt vong. Dĩ nhiên không phải là ở
thế kỷ thứ 20 nầy, mà là ở những tháng năm còn lại. Có thể trong mười ngàn
năm tới, hay một trăm năm hay một triệu năm như trong giáo lý của Phật
Giáo đã dự đoán.
Mặc dầu thế giới có
đổi thay như thế, nhưng nhờ những di tích lịch sử để đời của các tôn giáo
và của các dân tộc, mà ngày nay chúng ta còn có cơ hội để đến đó, đến đây
thăm viếng, học hỏi và tìm hiểu về những gì đã được tạo thành trong thời
quá khứ. Nếu không có những cái cũ ấy thì chắc rằng những cái mới ngày nay
nó không có giá trị nữa.
Tôi đi Trung Quốc đã
2 lần và mỗi lần 21 ngày, như thế cũng chưa đầy đủ lắm. Nếu muốn đi Trung
Quốc để thăm một số nơi có những di tích lịch sử như động Đôn Hoàng; nơi
Lâm Tế đã hành đạo. Nơi các vị Tổ Tịnh-Độ Tông như các Ngài Huệ Viễn, Vĩnh
Minh v.v... thì người ta phải cần ít nhất 4 lần 21 ngày như thế mới có thể
đi hết được; nhưng với tôi, có lẽ thời giờ không còn nhiều nữa; nên sẽ tạm
dừng bước chân lữ du tại nơi nầy và trong tương lai tôi sẽ không còn tổ
chức những chuyến đi chung như thế nữa để đi thăm các thánh tích cũng như
Tứ Đại Danh Sơn, mà công việc nầy sẽ nhờ quý Thầy đệ tử của tôi đảm trách.
Còn phần mình sẽ từ từ đi về trong trạng thái độc nhất nhiều hơn là phải
dành nhiều thì giờ để đi ra ngoài như bấy lâu nay.
Thời gian còn lại 5,
10, 15, 20 năm hay hơn thế nữa của đời mình tôi cố gắng đọc kinh, niệm
Phật và đi sâu vào những ý nghĩa nhiệm mầu của giáo lý giải thoát nhiều
hơn. Vì 25 năm làm việc ở ngoại quốc; ở xứ Đức nầy là 25 năm tận hiến cả
khối óc và sức người. Nếu không biết dừng lại ở một thời điểm đáng dừng
thì không biết đến bao giờ mới có sự nghỉ ngơi trong 6 nẻo luân hồi nầy.
Người ta có thể chết
đi; nhưng những gì họ đã làm và đã truyền đạt lại cho hậu thế chắc chắn
rằng sẽ luôn tồn tại. Dầu cho thế sự có đổi thay, hay cõi nầy có còn đây
hay sẽ mất. Vì công đức ấy tuy không có hình tướng; nhưng đã là một ý niệm
thì ý niệm ấy phải luôn luôn tồn tại như sự hiện hữu của một dòng điện, sự
hiện diện của một vì sao, hay sự hiện hữu của một thiên hà.
Mỗi chúng sanh là
một phần tử của kiếp nhân sinh nầy. Nếu không có ta, thế giới nầy vẫn tồn
tại và nếu có thêm ta thì sự tồn tại ấy cũng chẳng ảnh hưởng gì; nhưng đã
là một hạt cát đối với một dòng sông thì tự thể của nó không tự tạo nên
giá trị của một dòng sông được. Tuy nhiên thể lượng cũng như sự hiện hữu
của hạt cát tuy nhỏ nhoi ấy; nhưng cũng rất quan trọng vô cùng. Vì thế
giới nầy vô thỉ và kết cuộc bằng chỗ vô chung.
Bầu trời hôm qua ở Ý
Đại Lợi thì sương mù đến nỗi ở gần trước mặt mà cũng không biết là ai, và
hôm nay bị ảnh hưởng của trận bão, ở Rottweil miền Nam nước Đức tuyết đã
rơi hơn một thước. Cây cối, trụ điện đường gãy đổ lung tung. Mọi sự giao
thông đều bị gián đoạn khiến cho ai nấy cũng lo sợ, không biết rằng một
mai đây sẽ ra sao. Và bây giờ trên chuyến tàu tốc hành nầy tôi đã đi về
hướng Bắc của nước Đức, đã không có một giọt tuyết nào đọng lại trên đọt
cây ngọn cỏ cả. Quả là thời tiết đã đổi thay và lòng người cũng chỉ như
thế là cùng.
Dầu sao đi nữa một
cuộc đời Tăng Sĩ của tôi như thế đã quá đầy đủ để kết luận rằng nhờ nhân
duyên của Phật Pháp nên đã đưa đẩy tôi đến nơi chốn nầy và từ một con
người không có gì hết để rồi đi đến chỗ có tất cả trong sự giới hạn của nó
và để rồi một ngày nào đó sẽ không còn một cái gì cả nơi cõi đời nầy;
chính lòng tôi cũng sẽ lại hỉ hoan. Vì mình đã trải qua nhiều giai đoạn
trong cuộc đời của một sự sống, mà sự sống ấy dù dở dù hay tôi cũng đã tạo
cho mình hay đã giúp đỡ tha nhân bước vào được cửa ngõ của đạo. Trong cuộc
đời làm việc đạo của tôi có 90 - 95 phần trăm là thuận duyên. Tuy chỉ có 5
- 10 phần trăm là nghịch cảnh; nhưng tôi vẫn luôn tâm niệm và hứa với lòng
mình rằng: "Hãy cố gắng để trở thành như một dòng sông, có khả năng chuyên
chở những trong đục của cuộc đời và nguyện cho đời mình sẽ là mặt đất để
hứng chịu những sạch nhơ của nhân thế".
Đó lời nguyện của
tôi khi thực hành con đường Bồ Tát Đạo và mong rằng đây là một lời nguyện
nho nhỏ để chuyên chở những chúng sanh vô tình cũng như hữu tình về một
thế giới cao cả giải thoát khác.
Hoa nở để rồi tàn,
trăng tròn để rồi khuyết. Người còn để ly biệt. Đó là một chân lý nhiệm
mầu mà chắc chắn rằng ai trong chúng ta cũng phải lưu tâm để làm một cái
gì đó trong cuộc đời mình cho thật có ý nghĩa vậy.
Ngày xưa nhân loại
chưa phát triển, thế giới còn đóng khung trong một giới hạn nhất định nào
đó và bây giờ thế giới đã trở thành đại đồng cho mọi dân tộc thì chắc rằng
sự suy nghĩ, hành động cũng như thể hiện ở nhiều hình thái khác nhau, chứ
không nhất thiết chỉ ở một chiều.
Tôi mong gì nơi quý
độc giả và quý độc giả mong gì ở nơi tôi? Tôi chỉ là một người Tăng Sĩ
bình thường, có những suy nghĩ cũng rất đơn giản, lời văn cũng rất chất
phác, mộc mạc, nghĩ sao viết vậy mà thôi. Do đó sự khen chê của quý vị
chắc chắn không thể nào không có. Do vậy mà tác phẩm nầy cũng chỉ là một
tác phẩm nhỏ của tôi và biết đâu sẽ giúp cho quý độc giả một chút gì hiểu
biết về một đất nước Á Châu có hơn 5.000 năm văn hóa đó, mà Phật Giáo đã
đóng góp một cách sâu sắc, thiết thực nhất trong cuộc sống của mọi người.
Lời cuối sách nầy
như một lời nguyện cầu của tác giả đến với quý độc giả là quyển Vọng Cố
Nhân Lầu nầy như là một tưởng niệm đến những người xưa và biết đâu ngàn
năm sau nữa cũng có một quyển sách nhan đề như thế nầy để tìm lại một cái
gì đã hiện hữu nơi mấy ngàn năm trước đã có trong kho tàng văn hóa của Á
Đông. Đó là Đạo Phật.
Viết xong vào ngày 3 tháng 1 năm 2000
trên chuyến xe lửa tốc hành từ Rottweil
hướng về Hannover
Tác giả cẩn chí
Chân thành cảm ơn Thầy Hạnh Tấn
và chú Thiện Tánh đã gởi tặng tập sách này
(T. Nguyên Tạng, 6/2005)
---o0o--
Trình bày: Anna
Cập nhật: 01-06-2005