Chùa Ðại
Minh ở Dương Châu là nơi Hòa thượng Giám Chân thuở tráng niên
du học trở về Dương Châu, rộng truyền giới luật. Lúc về già, đáp ứng
lời mời đi Nhật, trù bị trường sở trọng yếu của việc Ðông độ (qua biển
đến Nhật). Hôm nay, nơi đây giới văn hóa hai nước Trung - Nhật đang
long trọng kỷ niệm chu niên 1.200 năm, ngày thệ thế (ngày mất) của Hòa
thượng Giám Chân. Nơi chùa Ðại Minh ở Dương Châu ấy, cùng với trọn đời
của ngài Giám Chân, có đầy đủ sự quan hệ mật thiết, lược làm cuộc khảo
chứng sơ bộ như dưới đây:
Chùa Ðại
Minh ở Dương Châu là một ngôi cổ sát rất nổi tiếng trong những chùa
viện lớn ở Dương Châu. Trong lịch sử, nhiều người có học lưu danh đã
vì nó làm những bài thơ không ít tráng lệ và những bài ký tự ngọt ngào
sâu xa, đồng thời nó còn có trong sách vở của Nhật bản. Vậy là tên
tuổi của nó đã để lại ánh sáng rực rỡ. Về khởi nguyên của chùa Ðại
Minh, căn cứ vào ghi chép của Dương Châu Bảo Hựu Chí, thì: “Ðại
Minh tự tức là chùa Thê Linh xưa, tại chỗ năm dặm phía bắc
huyện, lại có tên là Tây Tự . Chùa ở trên sườn núi Chẩm Thục, ngày
trước có Phù-đồ (tháp) 9 cấp” (xem ở Ðại Quán Ðồ Kinh)
Căn cứ
vào tư liệu trước hiện còn là “Trùng Tu Ðại Minh Tự Bi Ký” của La Kỷ,
đời Minh (người ở vào khoảng niên hiệu Thành Hóa - Chính Ðức). Bài bi
ký mở đầu gọi ngay là: “Ðến phía tây thành Dương Châu, xuống chừng 5,
7 dặm thì có ngôi chùa gọi là Ðại Minh, được kiến lập vào thời Tống
Hiếu Võ (457-464 TL)". Niên kỷ Hiếu Võ là do Ðại Minh, mà chùa này
khai sáng vào thời ấy nên lấy làm tên. Ðối với niên đại kiến lập và
nguyên do mệnh danh của chùa Ðại Minh đều đã thuyết minh cụ thể, minh
bạch.
Ðến cả
với nguyên lai của chùa Thê Linh, ngoại trừ một lời mà “Bảo Hựu Duy
Dương Chí” đã ghi: “Chùa Ðại Minh tức là chùa Thê Linh xưa”. So
sánh lời ấy với tư liệu trước thì đều là cùng với tháp xưng gọi một
lúc (Thê Linh tháp).
Căn cứ
vào bài “Xá-lợi Cảm Ứng Ký” trong “Hoằng Minh tập” (quyển thứ 17) thì:
“Dương Châu xây dựng tháp ở chùa Tây”.
Sách
“Tăng Tu Cam Tuyền Huyện Chí” chép: “Xét Ðại Quan Ðồ Kinh thì tháp
của chùa xây dựng vào năm đầu niên hiệu Nhân Thọ, đời Tùy Văn Ðế (năm
601 TL), vua xuống chiếu khắp trong nước lập 30 ngôi tháp 9 tầng. Ðây
(chỉ cho tháp của chùa Thê Linh) là một trong số tháp ấy”.
Hai đoạn
tư liệu đó, tuy giản đơn nhưng rất trọng yếu. Do vì chúng thuyết minh
rõ ràng thời gian dựng tháp là năm đầu niên hiệu Nhân Thọ, địa chỉ lập
tháp là chùa Tây ở Dương Châu (tức là chùa Ðại Minh - ghi là nhân ở
tại phía tây cung vua Tùy nên cũng gọi là Tây Tự). Tựu trung những
điều ấy có thể luận định rằng: vào năm đầu niên hiệu Nhân Thọ đời Tùy
là tháp Thê Linh bắt đầu được gọi tên. So sánh niên đại Tống Hiếu Võ
với Ðại Minh thì phải muộn đến 140 năm. Người biên soạn “Quảng Hoằng
Minh Tập” là luật sư Ðường Ðạo Tuyên (596-667 TL), còn “Ðại Quan Ðồ
Kinh” mà đúng là “Dương Châu Ðồ Kinh” thuộc đời Tống Tuyên Hòa
(1119-1125 TL) do Lưu Lương (có chỗ gọi là Ngạn) Ðôn biên soạn vào
khoảng năm Ðại Quan (1107-1110 TL). Ðương thời cách xưa chưa xa, tất
nhiên có chỗ y cứ được.
Sự thật
trên từ Ðường, Tống trở về sau, hai danh xưng: chùa Ðại Minh cùng chùa
Thê Linh, đều một mực được lưu truyền. Hai đời Ðường, Tống đều có
những ghi chép liên quan đến tên gọi của hai ngôi chùa, lại chẳng hơn
một sự bảo đảm sao? Hiện tại xin trích dẫn mấy điều ghi chép trứ danh
so sánh, dùng làm tư liệu chứng minh.
Liên quan
đến tên lưu truyền chùa Thê Linh như:
Thi nhân
Lưu Trường Khanh (709 - 780) đời Ðường được khen là nhà “Ngũ ngôn
trường thành”, có bài thơ “Lên tháp chùa Thê Linh ở Dương Châu”:
Bắc tháp lăng không hư
Hùng quan áp xuyên trạch
Ðình đình Sở vân ngoại
Thiên lý khan bất cách.
Diêu đối hoàng kim đài
Phù huy loạn tương xạ
Bàn thê tiếp nguyên khí
Bán bích thê dạ phách.
Sảo đăng chư kiếp tận
Nhược sính bài tiêu cách
Hướng thị Thương Châu nhân
Dĩ vi thanh vân khách.
Vũ phi thiên củng tề
Nhật tại vạn gia tịch
Ðiểu xử cao khước đê
Thiên nhai viễn như bách
Giang lưu nhập không thúy
Hải kiệu hiện vi bích
Hướng mạc kỳ hạ lai
Thùy phục kham hành dịch.
Tạm dịch:
Tháp bắc lạnh hư không
Hùng quan bóng đè sông
Cao cao chòm mây Sở
Chẳng ngăn ngàn dặm trông.
Ðối xa kim đài vàng
Tia sáng bắn tứ tung
Bậc thang tiếp nguyên khí
Lưng vách bóng chiều buông
Nhẹ lên kiếp tận cùng
Như cánh chim thẳng dong
Người về Thương Châu đó
Ðã làm khách thanh vân.
Mưa nay ngàn giọt tạnh
Trời tối vạn gia trang
Chim trên cao lùi thấp
Chân trời xa như gần.
Sông chảy vào trời biếc
Biển nhô núi xanh xanh
Ðến hồi màn buông xuống
Thì ai kẻ dịch hành?
Tuệ Khai dịch
Ðại thi nhân Lý
Bạch vào năm Thiên Bảo thứ 13 (năm 754 TL), từ Sơn Ðông đến Dương
Châu, viết bài thơ “Ngày thu lên tháp Tây Linh ở Dương Châu”:
Bảo tháp lăng thương thương
Ðăng phàn lãm tứ hoang
Ðỉnh cao nguyên khí hợp
Tiêu xuất hải vân trường.
Vạn tượng phân không giới
Tam thiên tiếp họa lương
Thủy dao kim sát ảnh
Nhật động hỏa châu quang.
Ô phất quỳnh liên độ
Hà liên tú củng trương
Mục tùy chinh lộ đoạn
Tâm trục khử phàm dương.
Lộ dục ngô thu bạch
Sương thôi quất dữu hoàng
Ngọc hào như khả kiến
Ư thử chiếu mê phương.
Tạm dịch:
Tháp báu rêu phong kín
Leo lên ngắm chung quanh
Ðỉnh cao hợp nguyên khí
Ngọn vướng mây biển xanh.
Vạn tượng chia không giới Tam thiên tạo nét vẽ
Nước lay bóng chùa vàng
Mặt trời chiếu ánh ngọc.
Quạ qua lay rèm châu
Ráng chiều dệt một màu
Mắt dõi cuối chinh lộ
Lòng liền bỏ buồm dương.
Móc tắm ngô đồng trắng
Sương dục quýt chín vàng
Lông ngọc như thấy được
Ở đây rọi mê phương.
Tuệ Khai dịch
Vào năm
đầu niên hiệu Chí Ðức (năm 756 TL) đời Ðường Túc Tông (Lý Hanh), Cao
Thích nhậm chức Dương Châu Ðại Ðô Ðốc Phủ Trưởng Sử, làm bài thơ “Lên
tháp chùa Thê Linh ở Quảng Lăng”:
Hoài Nam phú đăng lâm
Tư tháp tín kỳ tối
Trực thượng tạo vân tộc
Bằng không nạp thiên lại.
Hồi nhiên bích hải tây
Ðộc lập phi điểu ngoại
Thỉ tri cao hứng tận
Thích dữ thưởng tâm hội.
Liên sơn ảm Ngô môn
Kiều mộc thôn Sở tắc
Thành trì mãn song haï
Vật tượng quy chưởng nội.
Viễn tư chú giang phàm
Mộ thời kết xuân ái
Hiên xa nghi xuẩn động
Tạo hóa tư đại khối.
Hà tất liễu vô thân
Nhiên hậu tri sở thoái
Tạm dịch:
Từ Hoài Nam lên đến
Tin tháp ấy lạ lùng
Lên thẳng mây bay vướng
Sáo trời vang từng không.
Quay lại biển tây biếc
Chim bay ngoài, đứng riêng
Mới biết cao hứng hết
Vừa cho tràn ngập lòng.
Cửa Ngô núi liền khuất
Dặm Sở cây cao ngăn
Dưới song (cửa sổ) đầy thành quách
Bàn tay, cảnh hiện lên.
Dõi buồm xa nghĩ ngợi
Trời chiều kết hơi xuân
Hiên xe ngờ lay động
Của tạo hóa còn nguyên.
Hà tất rõ không thân
Nhiên hậu biết chỗ thoái.
Tuệ Khai dịch
Hai vị
thi ông Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích đồng vào năm Bảo Lịch thứ hai đời
Ðường Kính Tông (Lý Trạm - 826 TL) đến Dương Châu, lên tháp chùa Thê
Linh, đều có làm thơ. Bài thơ “Ðồng lạc thiên đăng Thê Linh tự
tháp” của Lưu Vũ Tích:
Bộ bộ tương huề bất giác nan
Cửu tằng vân ngoại ỷ lan can
Hốt văn tiếu ngữ bán thiên thượng
Vô số du nhân cử nhãn khan.
Tạm dịch:
Bước bước đưa nhau chẳng gian nan
Chín tầng mây vượt tựa lan can
Bỗng nghe cười nói lưng trời biếc
Vô số khách du ngước mắt nhìn.
Bạch Cư Dị có bài “Cùng mơ được đồng lên tháp Thê Linh”:
Bán nguyệt đằng đằng tại Quảng Lăng
Hà lâu hà tháp bất đồng đăng
Cộng lân cân lực do kham nhậm
Thượng đáo Thê Linh đệ cửu tằng.
Tạm dịch:
Trăng khuyết lững lơ ở Quảng Lăng
Nào lầu, nào tháp chẳng lên đồng
Thương chung gân sức còn kham được
Lên đến Thê Linh tháp chín tầng.
Những bài
thơ ấy đã khắc họa rõ ngôi tháp 9 cấp của chùa Thê Linh, cao trội vượt
mây, vịn leo lên tầng đỉnh, mắt nhìn hết cảnh giới hùng vĩ ngàn dặm.
Quan hệ
với tên chùa Ðại Minh được lưu truyền như sau:
Lời ghi
trên vách chùa Ðại Minh ở phần câu đố của Toàn Ðường Thi cùng với sách
Quế Uyển Tòng Ðàm của Bằng Dực có sự ghi chép đồng dạng: Lệnh Hồ Ðào
chấn thủ sông Hoài, Hải Nhật và quan Chi sứ
Ban Mông cùng với tùng sự đều đi du ngoạn chùa Ðại Minh. Vách trước
mái hiên phía tây chùa có đề lời:
Nhất nhân đường đường
Nhị diệu trùng quang
Tuyền thâm xích nhất
Ðiểm khử băng bàng
Nhị nhân tương liên
Bất khiếm nhất biền
Tam lương tứ trụ liệt hỏa nhiên
Trừ khước song câu lưỡng nhật toàn.
(vì đây là câu đố chữ Hán nên xin chép nguyên văn để dễ nhận định -
Lời người dịch).
Các
tân khách muốn giải đáp nhưng không thể biết. Riêng một mình Ban Mông
giải rằng:
Nhất nhân há chẳng phải là chữ Ðại () ư?
Nhị
diệu (hai ánh sáng) là nhật nguyệt, chẳng phải là chữ
Minh () ư?
Xích nhất (một thước mốt) là 11 tấc, chẳng phải chữ Tự
() ư?
Băng khử điểm (chữ băng bỏ hai chấm) là chữ Thủy
()
Nhị
nhân tương liên (hai người liền nhau) là chữ Thiên
()
Bất
khiếm nhất biên (chữ bất thiếu một bên) là chữ Hạ
()
Tam
lương tứ trụ liệt hỏa nhiên (ba rường bốn trụ lửa rực cháy)
là chữ Vô () vậy.
Lưỡng nhật trừ song câu (hai chữ nhật trừ hai móc) là chữ
Tỷ ()
Thành
ra chẳng phải là câu: Ðại Minh tự thủy, thiên hạ vô tỷ đó ư?
Mọi người mới hoảng lên vậy.
Trương
Hựu Tân đời Ðường, trong bài ký “Nước nấu trà” (Tiễn trà thủy ký
) mới nói rằng: “Lưu Bá Sô cho rằng: nơi thích nghi của
nước pha trà có bảy bậc, từ sông Dương Tử là thứ nhất, ... nước giếng
chùa Ðại Minh ở Dương Châu là thứ năm, ...”
Lại nói
rằng: “Lục Vũ cùng Lý Quý Khanh luận về thứ bậc của nước thì có 20
bậc,... giếng chùa Ðại Minh ở Dương Châu là thứ 12, ... mà thuyết cho
nước giếng chùa Ðại Minh ở Dương Châu là thứ 5, trở thành được đời sau
phổ biến xưng gọi. Ðó là nguyên lai của danh xưng “Thiên hạ đệ ngũ
tuyền ”.
Về sau,
Âu Dương Tu, đời Tống, có bài “Ðại Minh Tự Thủy Ký” đối với nước giếng
chùa Ðại Minh thì tán thưởng là ngon. Mặt khác, trong sách chép tay
của Hàn Kỳ, ông đã trịnh trọng đề cao vùng đất này trong câu: “Ðến
giếng chùa Ðại Minh, hai đình Quỳnh Hoa , ba cái này là di sản
chọn lọc chung để tiếp nối vị ngon đầy đủ vậy”.
Những bài
ký thuật ấy đã ghi chép: suối trong giếng cổ của chùa Ðại Minh tại
Dương Châu ngọt mát tinh khiết, khách du thiên cổ phong lưu tao nhã
đua nhau nếm thử.
Từ những
tư liệu đã dẫn ở trên, xem ra đã có thể rõ ràng, trong thời kỳ Ðường,
Tống, hai danh xưng Ðại Minh tự và Thê Linh tự đều đồng thời tồn tại
mà được tùy tiện nói xưng. Nhưng ở thời gian ấy, tựa hồ có một điểm
giới hạn, đó là: phàm nói về nước thì đều xưng Ðại Minh, còn nói về
tháp thì đều xưng Thê Linh. Cái thông lệ nêu ở trên thật đã rõ ràng
vậy. Từ năm Hội Xương thứ 3 (năm 843 TL), sau khi ngôi tháp bị lửa
thiêu hủy thì danh xưng Thê Linh liền mờ tối dần, còn danh xưng Ðại
Minh tự thì vẫn hiển nhiên y vậy.
Liên quan
đến những diễn biến của chùa Ðại Minh được ghi chép trong sách “Kim
Thạch Tụy Biên” của vương Sưởng đời Thanh: “Ðại Minh Tự Tàn Bi” là
một sự kiện tư liệu cực kỳ trọng yếu. Bài minh của bia ghi rằng:
“Ngô Tổ xây dựng chùa, chọn tên Xứng Bình, tâu lên Kim Khuyết
(chỉ vua). Thỉnh tại Ðại Minh... Phù-đồ (tháp) xảo diệu, trời đất dài
lâu, góc tầng hiển hiện rực rỡ, cao chót vót khó lường”.
Năm Bảo
Ðại thứ 7, đời Ðường (niên hiệu của Lý Cảnh - Nam Ðường - năm 943 TL)
nhằm ngày 21 tháng 4 năm Kỷ Dậu ghi, đồng thời có xét đến lời xưng:
“Bia chùa Ðại Minh gần đây nhân sửa chùa đào được trong đất, nửa trước
đã sứt mẻ, nhưng văn bài minh trên bia vẫn còn hoàn hảo, có thể đọc
được...”
Nhưng bài
minh bia ghi rằng: “Ngô Tổ dựng chùa, chọn tên Xứng Bình”...
Lại nói
rằng: “Phù-đồ xảo diệu, đất trời dài lâu” thì thời Dương Hành
Mật, chùa đã từng đổi tên Xứng Bình, ... tháp, bởi tháp đã xây dựng
lại vậy. Ðoạn tư liệu ấy chẳng những chỉ nói rõ Dương Ngô đã từng sửa
sang chùa Ðại Minh, mà còn đổi tên là Xứng Bình và việc xây dựng lại
tháp chùa tinh xảo, rộng rãi, tráng lệ. Vả lại, điều quan trọng là vào
giữa đời Thanh, nhân tu sửa chùa, một chứng cứ xác thực có liên quan
đến chùa Ðại Minh xuất hiện đã chứng thật địa chỉ thực tại của chùa cổ
Ðại Minh cùng với qua thực tế hiện trường nhận định thì hoàn toàn phù
hợp. Hơn nữa, tên Xứng Bình mà phong kiến cát cứ Dương Ngô đặt cho
cũng sớm bị mọi người lãng quên. Ðời Tống vẫn gọi theo tên cũ là Ðại
Minh.
Sách
“Bình Sơn Ðường Tiểu Chí” của Trình Mộng Tinh chép: “Tháng hai năm
Khánh Lịch thứ 8, đời Tống (1048 TL) Lư Lăng Âu Dương Tu, khi trấn thủ
Dương Châu đã làm ngôi nhà phía góc tây nam (Khôn ngung)
chùa Ðại Minh. Phía trước các núi ở Giang Nam đều có lan can bao
quanh, có thể vịn leo lên nên gọi là Bình Sơn Ðường”.
Tiểu Chí
lại ghi rằng: “Ðệ Ngũ Tuyền ở phía tây nam Bình Sơn Ðường”.
Ðoạn ghi
chép ấy ngoại trừ bỏ việc nói rõ đời Tống vẫn gọi là chùa Ðại Minh và
tháng, năm xây dựng Bình Sơn Ðường thì việc đưa Bình Sơn Ðường chính
thức ở bên phải của chùa Ðại Minh là trọng yếu đặc biệt (tức ở bên rìa
phía tây chùa Ðại Minh), xác lập được vị trí của Ðệ Ngũ Tuyền ở phía
tây nam của Bình Sơn Ðường. Chùa Ðại Minh, Bình Sơn Ðường và Ðệ Ngũ
Tuyền đã cấu thành một chỉnh thể (một thể hoàn chỉnh).
Trở lại
với “Trùng Tu Ðại Minh Tự Bi Ký ” của La Kỷ đời
Tống chép rằng: “Thần Nghiêu Mai Thánh Du, Ðô quan viên ngoại lang
đời Tống có nói rằng: Từ thành hoang về phía Bắc, chùa Ðại Minh sáng
ngời, nhà cao khoáng đạt, hứng thú rộng mà ý hả hê”.
Bi Ký lại nói rằng: “Cảnh này,
thời Ðại Lương không có. Mỹ quan của quy mô cảnh cũ ấy
đáng biết vậy. Nhưng trải qua nhiều đời đã lâu, nên trở thành đống
đất, đá, ngói, gạch... cho trâu dê dẫm đạp; người đi qua, dậy lòng cảm
khái”.
Ðoạn Bi
Ký ấy làm ta nhớ lại lịch sử hưng suy đã qua của chùa Ðại Minh, như
bài thơ Bình Sơn Ðường của Nguyên Trần Phu:
Ðường thượng túy ông tiên khứ
Lô hoa tuyết mãn Thinh Châu
Nhị thập tứ kiều yên thủy
Vị thùy lưu hạ Dương Châu.
Tạm dịch:
Tiên say đường thượng đi rồi
Hoa lau truyết trắng nở đầy bãi sông3
Cầu hai mươi bốn4 khói
giăng
Vì ai xuôi xuống tới miền Dương Châu.
Tuệ Khai dịch
Bài văn
bia nêu tiếp: “Có vị tăng gọi là Trí Thương Minh, ... khoảng năm
Thuận Thiên (1457 - 1464 TL) lên phía bắc du ngoạn Ngũ Ðài Sơn, trở về
tới Dương Châu, vừa đến khoảng đồng trống chợt thấy sao rơi xuống lầu
tây, phía đông Bình Sơn Ðường, ở giữa có vùng đất trống không, rộng
ước chừng 10 mẫu. Ðây là vùng đất khô cứng, hứng chịu ánh sáng mặt
trời, dãi đất rất dài, ao phóng sinh vòng về bên trái, cầu Thanh Bình
nằm ngang ở trước như cái nền còn lại vậy..., vị tăng mới kết cái am
nhỏ để nghỉ ngơi ở đó... Chẳng qua một tháng thì phát hiện ở đất một
cái giếng xưa, bên trong có tấm bia tàn, trên bia có mấy chữ: Ðại Minh
Thiền Tự. Từ đó người ta mới biết là có ngôi cổ sát... Những người
rộng rãi rất ưa làm nghĩa ở bốn phương đều quyên góp của cải, tiền
vàng để xây dựng 5 gian pháp đường, đông tây am đều vài gian, nhà bếp,
kho vựa, theo đó có đủ. Qua năm Hoằng Trị Quý Sửu (1493)... Ất Sửu
(1505)... đến năm Chính Ðức Ðinh Mão (1507) trải qua ba đời Tổ tôn,
chẳng dứt hưng khởi xây dựng, nhìn mô hình mới gọi là rất hoàn bị”.
Ðoạn Bi
Ký ấy thì đối với cái gò hoang phế của chùa Ðại Minh từ nhiều năm, về
niên đại, địa chỉ và phương vị của việc làm lại, tu sửa đều có luận
định tường tận. Thêm vào đó, tấm tàn bia dưới đất ở trên, cho đến việc
phát hiện tấm tàn bia vào niên hiệu Bảo Ðại đời Thanh đều là những di
chỉ của chùa Ðại Minh xưa. Tựu trung, Bình Sơn Ðường hiện nay (ở bên
trong chùa Pháp Tịnh) là một minh chứng xác thật rành rành có căn cứ
vậy. Chỉ là về sau sinh ra ý đắn đo của mọi người về việc đổi danh
xưng là chùa Thê Linh.
Vào đầu
đời Thanh, Khổng Thượng Nhậm soạn “Ðào Hoa Phiến” đã viết một thiên
“Tu Sáng Thê Linh Tự Ký”, nói rằng:
“Chùa Thê Linh ở Thục Cương (sườn núi Thục) tại Dương Châu, thời
Tống Hiếu Võ đã xưng là chùa Ðại Minh. Việc hưng phế của chùa ấy không
thể khảo sát được... Vị tăng của chùa là Ðạo Hoằng thiền sư... tỏ ngộ
tất cả, lại hay làm thơ, người cùng địa phương thích nghi, nên chẳng
kiêng dè, hết sức sửa sang chùa. Từ năm Kỷ Hợi (năm Khang Hy thứ 58 -
năm 1719) kế tiếp về sau, phàm là điện, vũ, tháp, viện, trai đường,
nhà bếp, kho tàng... ưng có thì không gì chẳng có ngay, phủ phê thừa
thải. Sườn núi Thục trước không có tùng, sư tìm bứng hàng vạn gốc tùng
cao thấp mà trồng, um tùm rậm rạp, trông như thâm sơn. Chùa xưa không
có trúc mai, mà nay bóng rợp sân viện, uyển chuyển như tranh”.
Văn bia
thuật bày chùa Thê Linh, tức là chùa Ðại Minh rất là rõ ràng, nhưng
đến việc vì sao đổi tên thì một chữ cũng chưa đề cập đến. Tuy nhiên,
điều này thiết tưởng chẳng khó hiểu. Thiên hạ của Thanh Triều do cướp
đoạt từ giang sơn của nhà Ðại Minh. Nếu như giữ lại tên chùa Ðại Minh
thì sẽ khơi gợi tâm tư cố quốc của nhân dân. Nhân đó mà xuất hiện sự
áp chế ngấm ngầm của quan lại và sự kiêng kỵ sợ họa của những kẻ đương
thời. Phải bất đắc dĩ mà đổi cách xưng hô. Ðiều này quả là không một
mảy may nghi vấn vậy.
Từ đó về
sau, căn cứ vào “Bình Sơn Ðường Ðồ Chí” chép: “Khoảng năm Ung Chính
(năm 1723 - 1735) Uông Ứng Canh xây dựng lại điện trước, lầu
sau, sơn môn, hành lang, nhà bếp... đều đủ cả. Lại nữa, ở phía đông
chùa, dựng Tàng Kinh Lâu, Vân Cái Ðường, Bình Lâu. Phía đông-bắc, sau
lầu trên, Thục Cương dựng Vạn Tùng Ðình”.
Lại trong
“Bình Sơn Ðường Lãm Thắng Chí” ghi: “Vân Cái Ðường 5 gian,
trên là Tàng Kinh Các... đất của Vân Cái Ðường là nền tháp chùa Thê
Linh vậy”.
Hai đoạn
ghi chép ấy nói rõ những đời giữa của triều Thanh đã nương theo đó mà
gọi là Thê Linh tự; đồng thời nói rõ lại là phía đông chùa đều là sở
tại của Vân Cái Ðường, mà tựu trung chính là nền cũ của tháp chùa Thê
Linh xưa. Ðiều ấy đã khiến cho sự ghi chép của lịch sử và thật tế
khách quan thấy được sự thống nhất hoàn toàn. Ngay đến cả trong những
năm Càn Long, vị đế vương phong kiến ấy ba phen năm lượt tuần du Giang
Nam, đến nơi đã thi ân ban cho tên và đề thơ, mượn việc đó để tô điểm
cho cảnh thái bình, trộm danh lừa dối đời. Vào năm Càn Long thứ 30
(1765) khi vua ấy du lãm Thục Cương, lại đem tên chùa ban cho tên là
Pháp Tịnh Tự . Từ đây, chùa Ðại Minh và chùa Thê Linh lưu
truyền trăm, ngàn năm đã trở thành dấu cũ tên xưa trong lịch sử. Nhưng
mà nhân dân Dương Châu không có nhân theo cái tên ban cho của vị đế
vương đó mà xưng gọi. Sự tương phản này đã nói lên sự kháng cự ngấm
ngầm đối với chế độ, ngay cả những cái gì khô (càn ) giòn đều chẳng
gọi. (Chữ “Càn” có liên quan đến tên Càn Long) mà chỉ phiên phiến gọi
là Bình Sơn Ðường.
Bình Sơn
Ðường (thường gọi bao quát bên trong chùa) ở thời kỳ đầu Dân quốc, do
lâu năm không tu sửa, lại gặp ngang trái, thêm đổ nát, đã trải qua sự
lụi tàn chẳng xiết, thế lực sắp tiêu hủy. May mắn được sức bảo hộ lớn
của chính phủ, kinh qua một lần tu sửa nữa, nên đã sớm có khí tượng
hoàn toàn mới, đã được các tăng nhân tu sửa giữ gìn, danh tiếng tỏa
thơm, đã trở thành thắng cảnh du lịch tham quan.
Từ con
đường sườn núi đá vàng của chân núi phía nam Thục Cương, bước theo
từng cấp, leo lên ngọn núi giữa, thì ngay mặt tấm biểng treo ngang
trên lầu cao vút, viết chữ triện, phía trước có “Thê Linh di chỉ
”, phía sau có “Phong lạc danh khu ”. Sau tấm
biển lầu là điện môn, men theo trên ngạch cửa có 5 chữ “Sắc Ðề Pháp
Tịnh Tự ” khắc trên đá. Vây quanh hai bên điện môn có
tường dài thấp, vách tường phía đông có “Hoài đông đệ nhất quan
”, vách tường phía tây có “Thiên hạ đệ ngũ tuyền
” cao chừng một thước tây, mà chữ đề viết theo lối khải
(chữ chân phương). Qua khỏi điện môn, leo lên vài bậc thềm bằng đá thì
ngửa mặt ra là đình viện rộng rãi thênh thang. Ðiện Phật nguy nga là
trung tâm của toàn cảnh chùa. Sân bên trái là vườn phía đông, có cửa
góc đề 4 chữ “Văn chương áo khu ”. Nền cũ của tháp Thê Linh
ở tại bên trong vườn phía đông. Hiện tại đất ở trước là Bình Viễn Lâu,
ở giữa là Tình Không Các, ở sau là Tứ Tùng Thảo Ðường, Lạc Xuân Ðường
.v.v... Bên ngoài vườn phía đông là đất của đình Vạn Tùng xưa, nương
tựa núi, mặt đối dòng sông, tùng bách vây vòng, biểng lầu bằng đá
ngọc, hùng cứ lưng chừng núi. Nơi đây là lăng mộ của liệt sĩ cách
mạng. Bên phải sân là vườn phía tây, có cửa góc đề 4 chữ “Tiên nhân
cựu quán ”. Bên trong vườn, phía trưóc là Bình Sơn Ðường, ở
giữa là Cốc Lâm Ðường, phía sau là Lục Nhất Từ, tức là đền thờ Âu
Dương Tu. Một lần nữa, hướng về tây-nam là dãy hành lang phía tây,
chính là chỗ của Ðệ Ngũ Tuyền Tỉnh . Vốn dĩ là hai khu vườn
trứ danh với cây cổ thụ và suối trong, một vùng đất chẳng gián đoạn
việc chỉnh trang tu sửa nên ngày một hoàn mỹ dần.
Từ ngôi
cổ sát của Nam Triều này mà Cao Tăng đời Ðường, danh thần nhà Tống,
những bậc tiên liệt cách mạng đời nay đã quy tụ lại, làm thành thắng
cảnh Thục Cương của thành Dương Châu danh tiếng, đồng thời cùng với
chùa Chiêu Ðề ở Nại Lương Ðường của nước lân bang Nhật Bản,
một cái bên đông, một cái bên tây, chói lọi sáng ngời. Ðồng thời sẽ
cùng với nước non danh thắng, bách biếc tùng xanh, muôn đời xanh mãi,
vĩnh viễn bất hủ vậy.