Trừ phẩm Phá ngã, Luận có 600 bài
tụng và văn trường hàng, gồm trong 8 phẩm 29 quyển, được chia làm
ba phần: phần Tự, phần Chánh tông và phần Lưu thông.
- Phần Tự, từ câu "Chư nhất thiết chủng chư minh
diệt" cho đến hết ba bài tụng thất ngôn đầu sách và văn
trường hàng.
- Phần Chánh tông, từ câu "Hữu lậu vô lậu
pháp" cho đến hết 600 bài tụng căn bản và văn trường hàng.
- Phần Lưu thông, từ câu "Ca-thấp-di-la nghĩa lý
thành" cho đến hết bài tụng thất ngôn cuối sách.
Ở đây, lược giảng luận này chỉ dựa vào văn
trường hàng để lần lượt giải thích một số bài tụng chủ yếu
trích trong 600 bài tụng căn bản và các bài tụng thất ngôn ở
đầu và cuối sách mà thôi.
B. PHẦN TỰA (4 tiết)
* TIẾT 1: QUY KÍNH VÀ PHÁT KHỞI.
Quy kính bậc hữu đức và phát khởi phần Chánh
tông như thế nào? Tụng đáp:
* Nguyên văn Hán:
"Chư nhất thiết chủng chư minh diệt,
Bạt chúng sanh xuất sanh tử nê,
Kính lễ như thị như lý sư,
Đối pháp tạng luận ngã đương thuyết". (I)
* Dịch nghĩa:
Các đấng đã diệt trừ nhất thiết chủng minh và chư
minh, cứu vớt chúng sanh ra khỏi bùn sinh tử. Kính lễ bậc thầy Như
lý như thế, tôi sẽ nói luận Đối pháp tạng.
* Giải thích:
Trong bài tụng này, ba câu đầu là phần quy kính, câu
thứ tư là phần phát khởi.
Chư: Chỉ các đức Phật.
Nhất thiết chủng chư minh diệt: Hai chữ "minh
diệt" gồm tán thán hai phương diện: nhất thiết chủng minh diệt
và chư minh diệt. Vì minh (sự mờ ám) có hai thứ:
1. Nhất thiết chủng minh: tức liệt tuệ. Liệt tuệ này
đối với sự lý không hiểu biết rõ ràng, nó thường làm cho tư
tưởng chúng ta hôn ám. Đối với sự vật, lẽ ra chúng ta có thể
hiểu biết trọn vẹn, nhưng vì không có trí tuệ viên mãn cao
thượng, nên chúng ta không hiểu, hoặc hiểu biết mù mờ. Sở dĩ
như thế vì chính liệt tuệ làm chướng ngại.
2. Chư minh: tức phiền não. Phiền não chính là động
cơ làm nhiễu loạn thân tâm, khiến chúng ta mờ ám đối với tất
cả sự lý.
Nhất thiết chủng minh còn được gọi là "bất
nhiễm ô vô tri"; chư minh còn được gọi là "nhiễm ô vô
tri". Sự khác nhau giữa bất nhiễm ô vô tri và nhiễm ô vô tri
như thế nào?
Tánh chất của tâm có hai cách chia: chia làm ba tánh
thì có thiện, ác và vô ký; chia làm hai tánh thì có nhiễm ô và
bất nhiễm ô. Nhiễm ô chính là tánh ác và hữu phú vô ký trong
ba tánh; bất nhiễm ô là tánh thiện và vô phú vô ký trong ba
tánh. Nhất thiết chủng minh là tánh thiện vì là liệt tuệ, nhưng có
một phần vô ký, nên gọi là nhiễm ô vô tri. Chư minh tức phiền
não, tánh chất là ác và cũng có một phần vô ký, nên gọi là
nhiễm ô vô tri. Đức Phật đã diệt trừ tất cả liệt tuệ, tức
dứt hết nhất thiết chủng minh, chứng đắc trí tuệ vô thượng
viên mãn, hiểu biết cùng tột các pháp một cách như thật, nên
thành tựu trí đức. Ngài lại đoạn trừ tất cả phiền não, tức
dứt hết chư minh nên thành tựu đoạn đức. Trí đức, đoạn đức
là phần tự lợi.
Bạt chúng sanh xuất sanh tử nê: Chúng sanh bị chìm
đắm trong sinh tử thật khó ra khỏi, như người bị sa trong bùn lầy,
nê gọi là bùn sinh tử. Đức Phật thương xót truyền trao Chánh
pháp để cứu độ. Đó là đức lợi tha của Ngài, nói cách
khác, Ngài là ân nhân của chúng sanh, đã thành tựu được ân
đức.
Kính lễ như thị Như lý sư: Đức Phật khéo léo nói
pháp đúng như lý để cứu vớt chúng sanh. Ngôn giáo như lý ấy
nhằm chỉ cho chúng sanh sự thật không điên đảo; lại hợp lý,
hợp thời, hợp cơ, làm lợi lạc hữu tình. Vì vậy, để nhớ ân
Phật, để chứng tỏ việc làm không quên gốc và để cầu Phật
trợ lực cho việc tạo luận được viên mãn, hợp lý, hợp thời,
hợp cơ như Phật, nên cúi đầu đảnh lễ bậc thầy như lý và đầy
đủ ba đức như thế.
Đối pháp tạng luận ngã đương thuyết: Câu này là
phần phát khởi. Lý do ở đây kính lễ Phật là gì? Là để nói
luận Câu-xá, tức Đối pháp tạng.
* TIẾT 2: DANH VÀ THỂ CỦA ĐỐI PHÁP
Đối pháp là gì? Thể của nó ra sao? Tụng đáp:
* HÁN VĂN:
"Tịnh huệ tùy hành danh đối pháp,
Cập năng đắc thử chư huệ luận".(II)
* Dịch nghĩa:
Tịnh huệ, tùy hành gọi là Đối pháp, và các huệ
các luận có công năng đưa đến tịnh huệ và tùy hành ấy cũng
đều gọi là Đối pháp.
* Giải thích:
Chữ Đối có hia nghĩa: đối quán và đối hướng.
Đối quán là tâm và cảnh đối nhau, tức đem tâm chủ quan quan sát
cảnh khách quan. Đối hướng là nhân và quả đối nhau, tức từ
nguyên nhân này hướng đến kết quả kia để tiến bước tu hành.
Chữ Pháp có hai nghĩa: nhậm trì tự tánh và quỹ sanh
vật giải. Bất cứ một tồn tại nào, hữu hình hay vô hình, hiện
tượng cụ thể hay tư duy trừu tượng, đều có tự tánh riêng,
không mảy may lẫn lộn. Nhờ nó giữ gìn khuôn khổ, quy cách nhất
định của nó, nên khi tiếp xúc nó, ta biết đó là vật gì. Đó là
nghĩa quỹ sanh vật giải. Nhưng chữ Pháp ở đây được nói là lý
pháp: Khổ, Tập, Diệt, Đạo và quả pháp: Niết-bàn. Lý pháp Tứ
đế là tánh và tướng của tất cả pháp, nên được gọi là
"pháp tướng pháp"; quả pháp Niết-bàn có tánh là thiện,
là thường nên gọi là thắng; và vì có thật thể nên gọi là
nghĩa; gọi chung là Thắng nghĩa pháp.
Nhưng cái khả năng đối quán lý Tứ đế và đối
hướng quả Niết-bàn ấy như thế nào? Tụng đáp:
* Nguyên văn:
"Tịnh huệ tùy hành danh đối pháp
Cập năng đắc thử chư huệ luận".(II)
Đây là hai câu nêu lên thể của đối pháp. Thể ấy
có hai: 1. Thắng nghĩa đối pháp thuộc vô lậu (tức câu: Tịnh huệ
tùy hành danh đối pháp). 2. Thế tục đối pháp thuộc hữu lậu
(tức câu: Cập năng đắc thử chư huệ luận).
Tịnh huệ: Trí huệ vô lậu thanh tịnh, có thể giản
trạch sự lý các pháp một cách rõ ràng.
Tùy hành: Tâm, tâm sở, đắc, tứ hướng hữu vi
(sanh, trụ, dị, diệt) và vô biểu sắc tương ứng với tịnh huệ mà
sanh khởi. Tịnh huệ ví như chủ; tùy hành ví như tớ. Khi chủ dấy
khởi thì tớ cũng dấy theo. Bộ phận tôi tớ ấy được gọi là
tùy hành. Tịnh huệ và tùy hành được gọi chung là Thắng nghĩa
đối pháp.
Nhưng không phải chỉ tịnh huệ và tùy hành mới
được gọi là đối pháp, mà các phương tiện tư lương cần có như
các huệ và các luận để đạt tịnh huệ ấy cũng gọi là đối
pháp, đó là thế tục đối pháp.
Các huệ là sanh đắc huệ, văn huệ, tư huệ, tu huệ;
còn các luận là chỉ cho luận Lục túc và luận Phát trí, được
liệt kê dưới đây:
* Lục túc:
1) Tập Dị Môn Túc luận (Sangtiparyaya-pada), thời Phật,
Xá-lợi-phất tạo, Huyền Trang dịch, 20 cuốn.
2) Pháp Uẩn Túc luận (Dharma-Skandha-pada), thời Phật,
Mục-kiền-liên tạo, Huyền Trang dịch, 12 cuốn.
3) Thi Thiết Túc luận (Prajnapati-pada), thời Phật,
Ca-chiên-diên tạo, Huyền Trang đem về chưa dịch
4) Thức Thân Túc luận (Vijnanakaya-pada), 100 năm sau Phật
Niết-bàn, Đề-bà-thiết-na tạo, Huyền Trang dịch, 16 cuốn.
5) Phẩm Loại Túc luận (Prakarama-pada), 300 năm sau
Niết-bàn, Thế Hữu tạo, Huyền Trang dịch, 18 cuốn.
6) Giới Thân Túc luận (Dhatukaya-pada), 300 năm sau
Niết-bàn, Thế Hữu tạo, Huyền Trang dịch, 3 cuốn.
* Phát Trí luận (Jnanaprasthana), 300 năm sau Niết-bàn,
Ca-đa-diễn-ni Tử tạo, Huyền Trang dịch, 20 cuốn.
Lục túc là sáu bộ luận làm chân; Phát trí là bộ
luận làm thân, nên cũng gọi là Thân luận. Bởi do luận Phát Trí
mà Hữu bộ bộc phát, tách khỏi bộ phái mẹ là Thượng tọa bộ.
Các huệ và các luận không phải là đối pháp của
thắng nghĩa vô lậu, mà là phương tiện tư lương cần có để đạt
thắng nghĩa đối pháp, cho nên gọi chúng là thế tục đối pháp. Hai
loại thắng nghĩa và thế tục đối pháp này nếu phân tích tỉ mỉ thì
có bốn loại:
1. Tự tánh đối pháp: tức tịnh huệ (huệ tâm sở).
2. Tùy hành đối pháp: tức quyến thuộc của tịnh huệ
(các tâm sở cùng khởi).
3. Phương tiện đối pháp: tức bốn huệ hữu lậu (sanh
đắc huệ, văn huệ, tư huệ, tu huệ).
4. Tư lương đối pháp: Tức các lậu (lục túc, phát
trí).
Trên đây chỉ mới giải thích khái quát về tụng
văn, còn thể của tùy hành, tức là tâm, tâm sở, đắc, bốn
tướng hữu vi và vô biểu sắc của đạo cọng giới tương ưng với
tịnh huệ như thế nào? Bởi vì tịnh huệ không thể sanh khởi một
mình mà còn phải có tâm vương, tâm sở... cùng khởi theo nữa. Xem
bản đồ biểu dưới đây:
TÙY HÀNH (bốn nhóm):
1. Sắc pháp: đạo cọng giới vô biểu.
2. Tâm pháp: Đệ lục ý thức.
3. Tâm sở pháp:
Chín đại địa pháp: thọ, tưởng, tư, xúc, dục, niệm,
tác ý, thắng giải, tam-ma-địa.
Mười đại thiện địa pháp: tín, cần, hành, xả, tàm,
quý, vô tham, vô sân, vô si, bất hại, khinh an.
Hai bất định địa pháp: tầm, tứ.
4.Tâm bất tương ưng hành pháp: đắc, sanh, trụ, dị,
diệt.
* TIẾT 3: GIẢI THÍCH CHỮ TẠNG
Từ Đối pháp đã giải thích, còn Đối pháp tạng
là gì? Tụng đáp:
* Nguyên văn:
Nhiếp bỉ thắng nghĩa y bỉ cố
Thử lập Đối pháp Câu-xá danh.(III)
* Dịch nghĩa:
Vừa thâu (nhiếp) thắng nghiã kia, vừa căn cứ vào
đó. Vì thế bản luận được mệnh danh là "Đối pháp tạng".
Như vậy, chữ tạng có hai nghĩa:
1. Năng nhiếp: Luận này bao hàm, thâu chứa giáo nghĩa
đặc thù (thắng nghĩa) của đối pháp như đã được thuyết minh trong
các luận Lục Túc và Phát Trí, nên gọi là tạng. Ví như cái hầm,
cái kho, có công năng chứa giữ các giống lúa và tài sản.
2. Sở y: Giáo nghĩa Đối pháp được thuyết minh trong
các luận Lục Túc và Phát Trí là chỗ dựa, là nơi căn cứ cho
luận này, mặc dù có vài chỗ bị bài bác nhưng nguyên văn vẫn là
chỗ dựa. Ví như cái bao đựng gươm là chỗ dựa của gươm, nên
gọi là bao gươm.
Nếu căn cứ nghĩa năng nhiếp thì "Đối pháp
tạng" là chỉ riêng cho luận này. Theo văn pháp Sanskrit, đây là
giải thích tập hợp danh từ theo luật y chủ thích (Tat-purusa). Nhưng
nếu cứ theo nghĩa sở y thì " Đối pháp tạng" cũng chỉ chung
cho các luận Lục Túc và Phát Trí chứ không riêng cho luận này...
Đây là giải tập hợp danh từ theo luật hữu tài thích (Bahuvrihi).
* TIẾT 4: Y Ù NÓI VÀ NGƯỜI NÓI
Danh từ Đối pháp tạng đã giải thích xong. Song, vì sao
cần phải có Đối pháp? Và trước đó đã có ai đề cập đếïn
chưa? Tụng đáp:
* Nguyên văn:
Nhược ly trạch pháp định vô dư,
Năng diệt chư hoặc thắng phương tiện.
Do hoặc thế gian phiêu hữu hải,
Nhân thử truyền Phật thuyết Đối pháp.(IV)
* Dịch nghĩa:
Nếu lìa trạch pháp thì nhất định không còn phương
tiện thù thắng nào có khả năng diệt trừ mê hoặc. Do mê hoặc
mà thế gian trôi nổi trong biển hữu. vì vậy mà truyền thuyết cho
rằng chính Phật đã nói Đối pháp.
* Giải thích:
- Trạch pháp: Là trí tuệ, vì trí tuệ có khả năng
giản trạch các pháp, cũng có nghĩa của chữ Đối pháp nói trên.
- Chư hoặc: Phiền não làm phát sinh và tăng trưởng
các nghiệp, chính là loại phiền não mê lý và mê sự, chỉ có
địa vị Kiến đạo và Tu đạo mới đoạn trừ được.
-Thế gian: Có hai nghĩa là hữu tình thế gian và khí
thế gian. Ở đây đề cập đến hữu tình thế gian, tức chúng sanh
trong thế giới mê vọng.
- Hữu hải: Biển sanh tử của ba cõi. Sự xoay vần
trong ba cõi, nhân quả không mất, nên gọi là Tam hữu. Chúng sanh
sống và chết trong đó nên gọi là biển sanh tử.
Đoạn này ý nói, nếu lìa trí tuệ có công năng
giản trạch các pháp, quyết định không có cách nào khác hơn để
đoạn trừ phiền não. Nếu phiền não chưa đoạn trừ thì sức mạnh
của nó làm cho chúng sanh trôi lăn trong biển sanh tử ba cõi. Ở
đây, vì muốn chúng sanh đạt được trí tuệ vô lậu có công năng
biện biệt các pháp để dứt trừ phiền não, ra khỏi biển sanh tử
nên nói Đối pháp.
Song, Đối pháp này trước đã có ai nói chưa? Có.
Đức Phật đã nói rải rác trong các kinh. Về sau các đệ tư íkết
tập thành Kinh tạng truyền lại cho đời. Chẳng hạn vào khoảng 300
năm sau Phật, có ngài Đạt-ma-đa-la (Dharmatrata, Hán dịch là Pháp
Cứu) kết tập những bài tụng rải rác của Phật nói về vô
thường thành phẩm Vô thường, về không, vô ngã thành phẩm
Không, Vô ngã.
-ooOoo-
BỐ CỤC PHẦN CHÁNH TÔNG
Phần chánh tông có sáu trăm bài tụng và văn
trường hàng, biện giải nghĩa lý, trong ấy tuy bao la nhưng tóm tắt
có thể thu vào hai phần lớn:
1. Trình bày tổng quát toàn bộ luận, gồm ba bài tụng
đầu của phẩm Giới (từ câu "Hữu lậu vô lậu pháp" đến
câu: "Biệt đắc phi trạch diệt").
2. Giải thích riêng về ý nghĩa và tông chỉ trong phần
tổng quát ấy, gồm 597 bài tụng (từ câu "Hựu chư hữu vi
pháp" ở đầu phẩm Giới cho đến câu "Do thử trú thế
gian" ở cuối phẩm Định).
Trong ba bài tụng đầu:
- Câu1, nói tổng quát về pháp hữu lậu, sẽ được
quảng diễn trong hai phẩm Giới (42 tụng) và Căn (74tụng). Trong đó
phẩm Giới thuyết minh về bản thể của pháp hữu lậu và vô lậu;
Phẩm Căn thuyết minh tổng quát về tác dụng của pháp hữu lậu và
vô lậu.
- Ba câu kế, (từ"Trừ đạo dư hữu vi...Cố
thuyết danh hữu lậu" thuyết minh riêng về pháp hữu lậu, sẽ
được quảng diễn trong ba phẩm: Thế gian (39tụng), Nghiệp (131tụng) và
Tùy Miên (69 tụng). Trong đó phẩm Thế gian nói chi tiết về quả của
pháp hữu lậu, phẩm Nghiệp nói chi tiết về nhân và phẩm Tùy Miên
nói chi tiết về duyên của pháp hữu lậu.
- Hai bài tụng sau thuyết minh riêng về pháp vô lậu,
sẽ được quảng diễn trong ba phẩm: Hiền Thánh (83 tụng), Trí (61
tụng) và Định (93 tụng).
A. PHẦN CHÁNH TÔNG (2 phần)
I. PHẦN TỒNG NÊU ĐẠI CƯƠNG
Như giải thích trong phần tựa, trí tuệ giản trạch là
phương tiện thù thắng để đoạn trừ mê hoặc, nên rải rác khắp
nơi, Phật đã thuyết minh về Đối Pháp, tức thuyết minh trí tuệ vô
lậu. Vậy những pháp nào là đối tượng của trí tuệ giản trạch
đó? Tụng đáp:
* Nguyên văn:
Hữu lậu vô lậu pháp.
Trừ đạo, dư hữu vi,
Ư bỉ lậu tùy tăng,
Cố thuyết danh hữu lậu.
Vô lậu vị Đạo đế,
Cập tam chủng vô vi,
Vị hư không nhị diệt.
Thử trung không vô ngại,
Trạch diệt vị ly hệ,
Tùy hệ sự các biệt,
Tất cảnh ngại đương sanh
Biệt đắc phi trạch diệt. (V)
* Dịch nghĩa:
Các pháp gồm hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là
các pháp hữu vi, trừ Đạo đế, vì nơi các pháp này, lậu hoặc
tùy thuận tăng trưởng, nên gọi là hữu lậu. Vô lậu là Đạo
đế và ba pháp vô vi, tức hư không và hai thứ diệt. Trong ba pháp
vô vi, hư không vô vi có nghĩa là vô ngại (tụng 2); trạch diệt vô
vi có nghĩa là ly hệ, tùy theo hệ sự mà có sai khác; do các pháp
hoàn toàn bị chướng ngại, nên không thể sanh khởi mà đặc biệt
đắc phi trạch diệt (tụng3).
Từ bài tụng này về sau là phần chánh tông, có 600
tụng căn bản. Theo phân định của chương trên, chia làm hai phần tổng
tiêu (giới thiệu tổng quát) và biệt thích (giải thích chi tiết), thì
ba tụng này là phần tổng tiêu. Tám phẩm tiếp theo phần này, như
phẩm Giới, phẩm Căn v.v...là phần biệt thích. Vậy nên, luận
Câu-xá Quang ký 1 gọi phần này là tổng tiêu cương yếu. Những
pháp làm đối tượng giản trạch cho trí tuệ có phạm vi vô cùng
rộng rãi, bao gồm tất cả các pháp mê, ngộ, nhân, quả; nhưng kết
lại chúng không ngoài các pháp hữu lậu và vô lậu. Vì thế câu
đầu của bài tụng nói: "Các pháp hữu lậu và vô lậu".
Trong Tứ đế, trừ Diệt đế còn lại là pháp hữu
vi. Trong các pháp hữu vi đó, trừ Đạo đế còn lại là Khổ đế
và Tập đế là thuộc pháp hữu lậu, vì rằng Khổ, Tập và Đạo
đế là những pháp có biến dịch, có sanh diệt nên đều thuộc hữu
vi (Samskrità); chỉ có Diệt đế tức Niết-bàn là pháp thường trụ,
bất biến nên thuộc vô vi (Asamskrità).
Vì sao nói Khổ đế và Tập đế là hưũ lậu? Lậu
(Asravà), nghĩa là rỉ chảy, chỉ cho phiền não, như sự rỉ chảy của
nước, nó xoi mòn đê điều, ngập tràn ruộng lúa, làm tổn hại
giống mạ. Phiền não cũng vậy, nó phá hoại đê điều thân tâm,
làm tổn hại giống mạ thiện căn. Những phiền não này theo thuận
duyên mà tăng trưởng. Nơi các tâm, tâm sở, cảnh sở duyên đều
thuận theo nó tăng trưởng đều được gọi là hữu lậu
(Sàsravà). Trường hợp này, khi phiền não cùng tương ứng với
tâm và tâm sở tùy thuận tăng trưởng thì gọi là "tương ưng
tùy tăng", khi phiền não cùng với cảnh sở duyên tùy thuận
tăng trưởng thì gọi là "sở duyên tùy tăng".
Luận Chánh Lý 4 nói về tướng trạng của hai thứ
tùy tăng như sau. Như ở ngoài thành ấp có một đống uế tạp do
phẩn, đất và nước tạo thành. Trong đống uế tạp ấy, vì có phẩn
nên đất nước trở thành dơ bẩn. Đồng thời,cũng vì pha trộn
với đất và nước nên phẩn càng dơ bẩn thêm.Ví dụ muốn nói,
phẩn phiền não thường làm cho đất, nước tâm, tâm sở trở
thành dơ bẩn và đất, nước tâm, tâm sở cũng tùy thuận phiền
não càng làm cho nó trở thành dơ bẩn thêm. Đây là tướng trạng
của "tương ưng tùy tăng".
Lại nữa, như con heo ở trong đống uế tạp. Những con
heo ăn, ngủ, đùa giỡn trên đó, thì không những toàn thân của
chúng trở thành dơ bẩn,vì toàn thân bám đầy phẩn uế mà đống
uế tạp kia cũng vì chúng mà trở nên càng dơ nhớp hơn. Ví dụ
muốn nói, uế phiền não làm cho heo sở duyên trở thành dơ bẩn,
đồng thời heo sở duyên cũng làm cho uế phiền não trở thành
càng dơ bẩn hơn. Đây là tướng trạng của "Sở duyên tùy
tăng".
VÌ rằng, nếu chấp nhận nghĩa "tùy sanh" là
pháp hữu lậu thì khi duyên các pháp vô lậu như Đạo đế hay Diệt
đế mà sanh phiền não thì Đạo đế và Diệt đế đó cũng phải
được gọi là pháp hữu lậu hay sao? Thế nhưng, khi duyên Đạo đế,
Diệt đế dù có sanh phiền não, cũng vẫn không thể gọi Đạo đế
và Diệt đế là hữu lậu pháp, vậy nên nghĩa "tùy sanh" là
không đúng.
Ngược lại, theo nghĩa tùy tăng, khi duyên dù có sanh
phiền não, nhưng đối tượng sở duyên đó không làm tăng thêm,
thì gọi là pháp hữu lậu. Ví như ruộng phì nhiêu thường sanh lúa
mạ, và cũng làm cho lúa mạ tăng trưởng, nên gọi là ruộng lúa.
Còn ruộng muối dù có sanh lúa mạ, cũng không thể làm cho lúa mạ
tăng trưởng, nên không được gọi là ruộng lúa.
Tóm lại, vì tùy thuận tăng trưởng theo các sở
duyên tương ưng của Khổ đế và Tập đế, nên Khổ đế và Tập
đế được gọi là pháp hữu lậu (Sàsravà).
Pháp vô lậu (aàsravà) là Đạo đế trong Tứ đế
và ba pháp vô vi. Ba pháp vô vi (Asamskrità) là hư không vô vi, trạch
diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi, nên tụng văn nói: "Vô lậu
là Đạo đế và ba pháp vô vi: hư không và hai thứ diệt (vô lậu
vị Đạo đế cập tam chủng vô vi, vị hư không nhị diệt"). Đạo
đế và ba pháp vô vi vì sao được gọi là vô lậu? Vì đối với
các pháp này phiền não không tùy thuận tăng trưởng.
Bây giờ hãy nêu rõ về hư không vô vi và hai thứ
diệt:
-Hư không vô vi: (àkàsa- asamskrità) tụng văn dịch là
vô ngại (anàvrti), vì lấy sự không chướng ngại làm tánh. Thế
nào là không chướng ngại? Đối với bất kỳ vật nào trong không
gian, dù tồn tại hay không tồn tại, pháp vô vi này vẫn trải khắp
trong mọi sự mọi vật mười phương thế giới, mà không làm
chướng ngại vật khác, cũng không bị vật khác làm chướng ngại,
nên vạn vật trong hư không khi sanh thì hiện đến, khi diệt thì bỏ đi,
tuy hiện tượng tùy thời gian mà biến hóa, vị trí tùy không gian
mà thay đổi, nhưng hư không ấy không hề bị biến đổi chuyển dời,
nó thường trú bất động. Do đó, nói hư không là vô vi. Hư không
trong quan niệm thông thường, tuy tương tự với hư không này, nhưng
thật ra đó chỉ là sắc pháp hiện hữu trong không gian mà thôi,
không những nó làm ngăn ngại vật khác, mà trên mặt hiện tượng
nó vẫn chịu sự thay đổi. Ví như ném viên đá vào nước, nước
chướng đá, nhường chỗ cho đá chiếm cứ rồi bao quanh phía ngoài
viên đá, nên thuộc hưũ vi, khác với hư không vô vi này.
Làm thế nào để biết được trong pháp vô vi có hư
không vô vi? Vạn vật trong vũ trụ mỗi cái đều có thể phô bày
tướng dạng của nó theo một trình tự nhất định, không hề rối
loạn. Cố nhiên, ấy là nhờ năng lực nhân duyên của chúng, nhưng
cũng nhờ vào cái "không" (không chướng ngại) để hoàn
thành tự thể. Nhân duyên hòa hợp thì hốt nhiên mà sanh, nhân
duyên tan rã thì hốt nhiên mà diệt. Khi sanh thì đến mà không bị
chướng ngại, khi diệt thì đi cũng không bị ngăn cản. Như thế ắt
phải có pháp hư không vô vi không chướng ngại này mới có thể
dung chứa vạn vật để cho tự tánh của chúng được hiển nhiên.
Vì vậy, văn trường hàng giải thích: "Nhờ vô ngại nên sắc
pháp luân lưu trong đó".
- Trạch diệt vô vi: (Pratisamkhyànirodha), được tụng
văn định nghĩa là ly hệ (Visamyoga), do xa lìa các hệ phược, trói
buộc của phiền não vô minh mà hiển bày chân lý các tướng. Chân
lý này là diệu lý không tịch của các tướng được chứng đắc
bởi trí lực có khả năng giản trạch để diệt trừ hệ lụy. Vậy
nếu nói đủ thì phải nói: "trạch lực sở sắc diệt" (sự
diệt trừ phiền não hệ lụy được thành tựu bởi năng lực
giản trạch), và nói tắt là "trạch diệt".
Trạch (Pratisamkhyarodha) là trí tuệ, nhân của khả năng
chứng đắc diệt lý. Diệt (nirodha) là diệt lý, là quả của trí
tuệ có khả năng chứng đắc diệt lý đó. Diệt lý này phải do xa
lìa các hệ phược của phiền não vô minh mới được hiển bày.
Thoạt nhìn, tưởng chừng như xưa không mà nay có. Nhưng khảo sát
một cách kỹ càng hơn thì không phải như vậy. Ví như mây tan trăng
hiện. Trăng vẫn sẵn ở trên hư không chứ không phải bây giờ
nhờ mây tan mới có. Mặt trăng diệt lý cũng vậy, chỉ vì từ vô
thỉ đến nay bị mây mù phiền não vô minh che khuất, nên không thể
thấy được. Một khi gió lớn chân trí thổi tan mây mù phiền não
thì mặt trăng diệt lý sáng tỏ. Diệt lý sẵn có tự nhiên chiếu
hiện nên chúng ta thấy được. Cái diệt lý do chúng ta chứng đắc
diệt lý mà thấy đó, thật ra không phải xua không mà nay có, mà
là xưa nay vẫn thường hằng bất biến, bất sanh, bất diệt, là pháp
vô vi. Nếu vậy, diệt lý được nói trong Tiểu thừa có khác với
chân như được nói trong Đại thừa chăng? Chân như được nói
trong Đại thừa thể tánh của nó bình đẳng, không h? sai khác, không
hai cũng không ba. Còn diệt lý được nói trongTiểu thừa đây thì
không phải như vậy. Diệt lý này do xa lìa sự trói buộc của các
pháp hữu lậu mà chứng đắc, tùy theo số lượng bất đồng của
các pháp hữu lậu trói buộc (hệ sự) được xa lìa mà sự chứng
đắc diệt lý cũng có khác nhau. Vì thế, tụng văn nói:"tùy hệ
sự các biệt", tức tùy theo số lượng sai biệt của các hệ
sự mà số lượng của sự ly hệ cũng khác nhau. Đó chính là hiển
bày cái thể sai khác của nó. Cho nên, có thể biết trạch diệt của
Tiểu thừa và chân như của Đại thừa không giống nhau.
- Phi trạch diệt vô vi (Apratisamkhyà): Nếu chuẩn theo lý
trạch diệt được nói ở trên, lẽ đáng phải nói đủ là "phi
trạch lực sở đắc diệt "(diệt lý được chứng đắc không do
sức giản trạch). Tức không như trạch diệt vô vi phải nhờ trí
lực giản trạch mới chứng đắc. Phàm vật được sanh ra đều bắt
đầu từ vị lai để đến hiện tại, rồi từ hiện tại đi về quá
khứ. Đó là thứ lớp tất yếu. Không vật nào là không từ vị
lai mà đến. Nhưng cũng có vật vì bị thiếu duyên, nó phải dừng
lại ở vị lai, không thể sanh đến hiện tại. Nếu vĩnh viễn thiếu
duyên thì nó vĩnh viễn ở vị lai, hoàn toàn không sanh khởi. Không
sanh khởi tức không có, đồng nghĩa với cái đã sanh khởi mà bị
diệt đi. Pháp không sanh như bị diệt này đạt được không phải
bằng trí tuệ giản trạch, nên được gọi "phi trạch diệt".
Nó đã vĩnh viễn không sanh thì cũng vĩnh viễn không diệt. Pháp
không sanh không diệt chính là tương phản với pháp hữu vi có sanh
có diệt nên gọi là vô vi. Vì thế, tụng nói: "Rốt ráo làm
ngăn ngại các pháp sẽ sanh, nên gọi là phi trạch diệt".
II. PHẦN BIỆT THÍCH
Sau phần tổng tiêu đại cương ở trên, cần có phần
biệt thích. Phần biệt thích này lấy phẩm Giới làm đầu, và các
phẩm kể tiếp.
* TIẾT I: DANH VÀ THỂ CỦA PHÁP HỮU VI
Pháp hữu vi lấy gì làm thể? Và những dị danh của
nó là gì? Tụng đáp:
*Nguyên văn:
Hựu chư hữu vi pháp
Vị sắc đẳng ngũ uẩn
Diệc thế lộ, ngôn y
Hữu ly, hữu sự đẳng. (VI)
*Dịch nghĩa:
Lại nữa các pháp hữu vi,
Là năm uẩn, gồm sắc uẩn ...
Cũng còn gọi là thế lộ,
Ngôn y, hữu ly, hữu sự...
Trong tụng văn này hai câu đầu nêu thể của pháp
hữu vi, hai câu sau đề cập các dị danh của nó.
Thể của pháp hữu vi chính là năm uẩn (Skandhapancakam)
sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong 75 pháp, năm uẩn bao hàm hết 72
pháp, trừ ba vô vi, đó là:
1. Sắc uẩn, 11 pháp (5 căn, 5 cảnh và vô biểu sắc)
2. Thọ uẩn, 1 pháp là hai tâm sở thọ và tưởng
3. Tưởng uẩn, 1 pháp trong 46 tâm sở.
4. Hành uẩn, 58 pháp (44 tâm sở và 14 pháp bất tương
ưng hành).
5.Thức uẩn, 1 pháp, tức tâm vương.
Chữ vi (Krtà) trong hữu vi (Samskrtà) có nghĩa là tạo
tác. Pháp do các duyên tạo tác mà có gọi là hữu vi. Nhưng trong ba
đời: quá khứ, hiện tại, và vị lai, các pháp quá khứ và hiện
tại, do các duyên tạo tác mà có, nên gọi là hữu vi đã đành.
Còn các pháp ở vị lai chưa có sự tạo tác, sao cũng gọi là hữu
vi? VÌ những pháp ở vị lai đồng loại với các pháp trong quá khứ
và hiện tại, nên cũng được gọi là hữu vi. Như gỗ bị lửa
đốt thì gọi là củi, còn những cỏ cây chưa bị lửa đốt nhưng vì
đồng một loại với thứ đã bị đốt nên cũng được gọi là
củi.
Pháp hữu vi còn có các dị danh dưới đây:
1.Thế lộ (Adhvà): Theo văn trường hàng, có hai cách
giải thích:
-Thế là tam thế, lộ là chỗ dựa, đường đi. Các
pháp hữu vi là cứ điểm chỗ dựa cho ba thời quá khứ, hiện tại
và vị lai đi qua. Đây là giải thích tập hợp danh từ theo luật Y
chủ thích(Tat-purusa).
Trong Câu xá luận ký của ngài Phổ Quang có hai lối
giải thích tập hợp danh từ này, theo luật Hữu tài thích và luật Y
chủ thích. Câu-xá Luận Sớ của Pháp Bảo thì theo luật y chủ
thích.Ở đây dùng luật Y chủ thích của ngài Phổ Quang.
-Thế, chỉ cho các pháp hữu vi đều bị hoại diệt, lộ,
là nó làm cứ điểm cho luật vô thường. Vậy, thế tức lộ. Đây
là giải thích tập hợp danh theo luật Trì nghiệp thích (Karma-dhàraya).
Câu xá luận sớ của Pháp Bảo theo Y chủ thích. Ở đây theo cách
giải thích của Câu xá luận ký.
2. Ngôn y (Kàthàvastu) theo giải thích trong văn trường
hàng: ngôn là ngôn ngữ. Thể của nó là âm thanh, chỗ dựa của
nó là danh và nghĩa. Theo đó, danh là khả năng diễn tả, nghĩa là
cái được diễn tả. Cả hai đều là cứ điểm cho âm thanh và ngôn
ngữ dựa vào. Bởi vì các pháp hữu vi cùng với danh và nghĩa
trên đây cũng hiện hành trong ba thời gian, nên được gọi là
ngôn y. Như nói: Tùng, trúc, thì danh với khả năng diễn tả và thể
nghĩa được diễn tả của chúng đều có sanh diệt, biến ho?i và
cũng hiện hành trong ba thời gian, nên gọi là hữu vi.
Pháp vô vi mặc dù cũng có danh để diễn tả, nhưng
thể của nó không có sanh diệt như danh. Như nói: Trạch diệt vô vi,
thì cái danh xưng để diễn tả là pháp hữu vi có sanh diệt, nhưng
diệt lý được diễn tả trong đó thì thường trú bất biến, nên
không thuộc về pháp hữu vi như danh xưng của nó. Vì thế, ba chữ
danh câu nghĩa trong văn trường hàng cũng có để giải thích theo hai
cách: -Danh và nghĩa kia nói lên bản thể mà ngôn ngữ y cứ.
- Nghĩa và danh kia là để tách biệt với nghĩa trong
pháp vô vi, không đồng tính chất với danh.
3. Hữu ly (Sanihsàra): Ly là vĩnh ly tức Niết-bàn.Tất
cả các pháp hữu vi đều có tính chất vĩnh ly đó, nên gọi là
hưũ ly. Như có của cải thì gọi là hữu tài.
4. Hữu sự (Savastu): Sự là nguyên nhân. Tất cả các
pháp hữu vi đều có nguyên nhân để sinh ra, do đó chúng được
gọi là hữu sự.
Nói đẳng, tức vân vân, vì pháp hữu vi còn có
nhiều biệt danh khác nữa, như hữu quả, v.v...