Tâm Minh
Thân kính tặng ACE Áo Lam
Đây là cuốn Kinh mà Anh Chị em chúng tôi ai nấy cũng
đều đã hơn một lần đọc qua nhưng di sâu vào thì ai cũng
ngán cả ! Vì vậy Kinh Văn mọi người đều có, người thì
có bản Phật Học Phổ Thông ( PHPT- khóa 9) của thầy Thiện Hoa,
người thì có Duy Thức Học của GS Thạc Đức ( là thầy Nhất Hạnh
đó) , người thì Thắng Pháp Tập Yếu Luận của thầy Minh Châu ,hay
Thành Duy Thức Luận và Luận Câu Xá của thầy Thiện Siêu v..v..
Vẫn biết rằng Duy Thức chính là Tâm Lý Học Phật
Giắo, mà Tâm Lý là môn học thật hấp dẫn với tất cả mọi
người, vì vậy mặc dù chúng ta học ban Toán ,ở lớp 12 ngày xưa
không có Tâm Lý, cũng ráng tìm đọc ; bây giờ có cơ hội học
thì còn gì hạnh phúc hơn ! Thế nhưng chỉ mới đụng vào 30
bài tụng để biết 100 Pháp là những thứ gì là anh chị em chúng
tôi dội liền vì chữ Hán rất nhiều , và dù có bài
dịch nhưng đôi khí cũng không hiểu được . Thế là, vào một buổi
trưa nắng chang chang phải chạy lên Vạn Hạnh cầu cứu thầy Chơn
Thiện dịch và giảng cho nghe 30 bài Tụng Duy Thức , vì chiều nay là
phải học chung với Chúng rồi . Chúng tôi nhớ mãi buổi trưa hôm
ấy nhằm ngày cúp điện của Viện nên thầy trò mỗi người mỗi
cái quạt giấy , Thầy vừa nói ,vừa dịch, giảng còn chúng tôi thì
vừa chép vừa hỏi lại nhũng chỗ ghi không kịp hay còn thắc mắc .
Thế rồi mọi việc cũng qua đi trôi chảy, chúng tôi
sẵn sàng cho buổi học gay go này . Trước hết chúng tôi
nhắc nhở nhau về những điều mới học được , như lược qua
những hệ thống tư tưởng Duy Thức , có 3 nguồn chính :
Duy Thức Luận của Đại Thừa
Thắng Pháp Luận của Thượng Tọa Bộ
Câu Xá Luận của Nhất Thiết Hữu Bộ
Nói cách khác những sách mà ACE có hay đã nghe nói
đến đều thuộc vào một trong 3 hệ thống tư tưởng này mà thôi
Và chúng tôi cũng đồng ý với nhau rằng mặc dù Duy
Thức chúa đựng thật nhiều thuật ngữ Phật giáo, chữ Hán rất
khó vì rất ít gặp nhưng những vấn đề Phật dạy trong Kinh thì lại
rất gần gũi, vì nó xảy ra ngay trong nội tâm chúng ta, từng giây,
từng phút và chúng ta có thể theo dõi , thí nghiệm . . . được
nữa .
Thật là thích thú vô cùng, chúng tôi dành nhau nói
lên những bài học, người nói sau thì phải tìm ra bài học mới
hơn nếu không may bị bạn chớp đi bài học đắc
ý của mình . Những bài học đầu tiên thuộc về ngữ
vựng ( vocabulary) như sau :
1) Bài học thứù nhất :
Tâm Vương là gì ? Tại sao nói tu tâm là tu theo tâm vương chứ
đừng chạy theo tâm sở?
Ta thường nghe Phật dạy Tất cả các Pháp đều
vô ngã Duy Thức học (DTH) dạy ta rằng tất cả các
Pháp là gồm có 100 Pháp ( = 8 Tâm Vương + 51 Tâm Sở + 11 Sắc
Pháp + 24 Tâm bất- tương- ưng-hành + 6 Pháp Vô Vi ) ; đây là bài
kệ để đọc cho dễ thuộc :
Sắc Pháp 11 ,Tâm vương 8
Năm mươi mốt món Tâm sở nữa
Với hai mươi bốn Bất- tương- ưng
Cộng 6 Vô vi thành 100 pháp
Như vậy, Tâm Vương là 8 Pháp dầu tiên trong 100 Pháp ;
đó là :
Thứ nhất : Nhãn thức, thứ 2 : nhĩ thức, thứ 3: tỉ
thức, thứ 4 : thiệt thức, thứ 5: thân thức , thứ 6: Ý thức,
thứ 7 : Mạt na thức và thứ 8: A lại da thức
Qua bài vở học ở trường, ai cũng biết được 5
thức đầu (chữ Hán gọi là Tiền ngũ thức) , học Phật Pháp ta
biết được thêm 3 thức sau là Ý, Mạt na và A lại da
Ù thức rất lanh lợi, tinh ranh và chạy nhảy lung tung (
tâm viên ý mã) .Nếu ý suy nghĩ tính toán việc tốt thì thân, miệng
. . . làm và nói điều tốt, nếu ý âm mưu hại người, làm ác
v..v. thì thân phạm tội, miệng nói lời điêu ngoa dối trá, v..v.
Mạt na là cái gốc của Ý nên Mạt na thức còn
được gọi là Ý căn . Nói 1 cách nôm na, những lúc Ý thức bị
gián đọan ( ngủ mê, bất tỉnh nhân sự, côma , bị chụp
thuốc mê v..v..) nó không bị mất hẵn, mà nương về thức thứ 7
tức là Mạt na thức : ý thức ví như cái cây có cái rễ là
thức thứ 7 Mạt Na .
Mạt na thức còn có nhiều tên gọi khác : thức thứ
7, Ỳ căn, Truyền Tống thức . Công năng củaMạt na thức là suy
xét, so đo, chấp trước, phân biệt : phân biệt có cái ta ,
cái Tôi , nghĩa là bảo thủ cho cái ngã, cái Tôi của mình
. Ngoài ra, thức này vừa có công năng truyền các điều mắt
thấy, tai nghe, mũi ngữi v.v.( DTH gọi là các pháp hiện
hành ) vào A lại da thức , vừa tống các chủng tử ở
trong A lai da thức khởi ra hiện hành ( đó là lý do tại sao những
cảnh vật đã thấy từ hồi thơ ấu có thể tái hiện lại
trong trí khi ta hồi tưởng lại) .
A lại Da thức : là cái kho chứa mà Mạt
na đã đem mọi thứ cất vào đó và chấp cái kho tàng này là
cái Tôi cái ngã . . . vì vậy A lại da còn được gọi là
ngã ái chấp tàng ( bị thức thứ 7 chấp làm cái
Ta ) Đây là một cái kho vĩ đại, có vậy mới chứa hết tất
cả những gì mà mạt na muốn nắm giữ trong nhiều đời nhiều kiếp
được . Duy Thức học gọi đó là Tàng thức . Vậy A Lại Da thúc
còn có 2 tên nữa là thức thứ 8, và Tàng Thức .
Thầy Thiện Hoa đã dịch bài kệ 8 Tâm Vương sau đây để dễ thuộc
& nhớ công năng của chúng :
Anh em 8 chú một chàng si ( si=si mê = thức thứ 7)
Duy có ý thức rất linh ly ( linh ly= linh động, khôn ngoan)
5 ngưới ngoài cửa lo buôn bán ( 5 thức trước)
Làm chủ trong nhà đệ bát y (đệ bát y = thức thứ 8)
Từ đó ta thấy rằng muốn áp dụng Duy Thức vào sự
tu tập , ta phải cần chăm chú vào 2 thức thứ 6 và thứ 7 ,vì
thức thứ 6 thì có thể nghĩ thiện nghĩ ác, toan tính bao la còn thức
thứ 7 thì si mê , chấp ngã, chấp pháp, sa đà theo tâm phân biệt
ta và người , yêu-ghét
lấy-bỏ v..v.. càng ngày càng xa lời Phật dạy, quên hẵn
đường về ( chơn tâm) khiến ta trôi lăn mãi trong sanh tử luân
hồi. Ta phải tập quán nhân vô ngã và pháp vô
ngã mới mong làm chủ được 2 thức này , lọai dần ngã chấp
và pháp chấp. Đây cũng như công việc gạn cát đãi
vàng cho đến khi rèn luyện xong thì tất cả thức đều
trở thành Trí : Mạt na thức trở thànhBình Đẳng
tánh trí, A lại da thức thì thành ra Đại viên cảnh
trí , Ý thức lúc ấy là Diệu Quan sát trí , còn 5
thức trước chuyển ra Thành Sở Tác Trí - Chúng ta thấy
rõ ràng Tu là chuyển hoá chứ không phải thêm hay
bớt cái gì cả . Ở đây ta cũng thấy được cái
vô tư, vô tội, ngây thơ trong sáng của 5 thức trước ,
như vậy tu tập là làm sao để cho cái thấy chỉ là cái thấy,
cái nghe chỉ là cái nghe v..v.. chứ không để cho cái tâm phân
biệt ( cái anh Mạt na tức là khen chê, yêu ghét ,lấy bỏ
đó ! ) chen vào!
2)Tâm Sở là những gì ?
Ở đây ta lại có 1 lô những danh từ về DTH ,
có từ chúng ta đã biết và hiểu nghĩa ,có từ hoàn toàn mới
lạ nên ACE chúng tôi cùng nhau ôn tập lại 1 lần cho nhớ :
Tâm Sở tùy theo Tâm Vương mà khởi và giúp đỡ
Tâm Vương tạo Nghiệp , Kinh dạy:
51 món Tâm Sở = 51 món sở hữu của Tâm Vương,
được chia thành 6 nhóm như sau :
a) Căn bản phiền não (6) : Tham, sân, si, mạn, nghi, ác
kiến (ác kiến = thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới
cấm thủ)
b) Tùy phiền não (20) - được sinh ra do căn bản phiền
não ở trên) : Phẩn ( tức giận) , Hận, Não (buồn rầu bức rức) ,
Phú ( che giấu tội lỗi của mình) , Tật ( tật đố = ganh tị) , Xan (keo
kiệt , bỏn xẻn, rít róng) , Cuống( Dối gạt người ) , Xiễm ( nịnh
hót, bợ đở v..v..) , Hại, Vô Tàm ( không biết hổ đối với
lương tâm mình), Vô Qúy ( không biết thẹn với người ) , Phóng
dật, Bất tín, Giãi Đãi, Trạo cử, Hôn Trầm, Tán Lọan , Thất
Niệm, Bất Chánh Tri
c) Bất Định ( 4) : Hối, Miên, Tầm ( tìm cầu) ,Tư ( suy
xét chính chắn)
d) Biến hành (5) : Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng , Tư ( lo
nghĩ) . Sở dĩ gọI là biến hành vì 5 thứ này có thể đi
cùng khắp, xuyên qua thời gian, không gian , các Thức ( 8 thức tâm
vương) và các Tánh ( lành, dữ, không lành không dữ) nữa .
e) Biệt cảnh (5) : Dục, Thắng Giải ( hiểu biết rõ
ràng) , Niệm, Định, Huệ
f) Thiện ( 11) : Vô Tham , Vô Sân, Vô Si, Tàm, Quí, Bất
Hại, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Khinh an , Tín, Tinh Tấn .
Ở đây ta thấy rằng trong 51 món tâm sở, chỉ có 11
là Thiện ,Lành còn lại là phiền não, đau khổ hay là bất
định, như vậy việc tu tập là luôn luôn theo dõi tâm mình, phát
triển những thiện tâm sở và đàn áp những phiền não
đừng cho dấy khởi lên .
3) 11 Sắc Pháp là những gì ?
Sắc pháp là những pháp thuộc về sắc; sắc= hình
dáng và màu sắc . Sắc pháp có11 món là gồm 5 căn :
nhãn căn ( con mắt) ; nhĩ căn ( lỗ tai) , tỉ căn ( lỗ mũi); thiệt
căn ( cái lưỡi) ; thân căn , và 6 trần : sắc trần, thanh
trần, hương trần, vị trần , xúc trần, pháp trần.
Bài học ở đây là nghiệp dụng của 11 sắc
pháp này và đặc biệt về pháp trần ( đối tượng của ý thức) .
Nghiệp dụng của con mắt là chiếu soi các sắc ( hay
nói : sắc trần là cảnh bị thấy bởi con mắt)
của lổ tai là hay nghe các tiếng ( hay : thanh trần là
tiếng bị nghe bởi lỗ tai)
của lỗ mũi là hay ngửi các mùi thơm và thối (hay:
hương trần là mùi bị ngửi bởi lỗ mũi)
của cái lưỡi là nếm các bị và nói năng, kêu
gọi (hay: vị trần là vị , cảnh bị nếm bởi lưỡi)
của thân là duyên xúc trần ( nặng,nhẹ, trơn, nhám
v..v..) hay còn nói : xúc trần là những va chạm ,tiếp xúc bị biết
bởi thân.
Pháp trần : cái bóng dáng của 5 trần còn lưu
lại trong ý thức : khi mắt không còn thấy sắc, tai không còn nghe
tiếng, v..v.. cho đến thân không còn tiếp xúc , đụng chạm. . . mà
trong ý thức vẫn còn tái hiện lại được bóng dáng của 5 trần :
cái bóng dáng đó gọi là pháp trần , danh từ DTH gọI là
lạc-tạ- ảnh- tử ( cái bóng rớt lại) ; hay nói : pháp
trần là tướng phần ảnh tượng của ý thức . Sách PHPT của Thầy
Thiện Hoa có phân biệt 5 lọai pháp trần nữa
ACE chúng tôi ai nấy đều thấy rằng có nhiều cái
chúng ta đã biết
nhưng qua DTH ta vẫn thấy thật mới lạ như nói
sắc trần là tướng phần của con mắt , thanh trần là
tướng phần của lỗ tai v..v. hay sắc pháp là tướng phần
ảnh tượngcủa tâm vương và tâm sở . Đó là tại vì danh
từ DTH tướng phần có nghĩa là đối tượng ; còn kiến
phần = chủ thể .
4) 24 Tâm bất tương ưng hành pháp là những gì ?
Đây là 24 món không tương ưng với Tâm , chỉ
nương theo 3 phần Tâm Vương, Tâm sở và Sắc pháp mà giả thành
lập . Ví dụ như Đắc (Được , trái ngượtc với mất)
Được là được cái gì ? vd : được 1 đồng bạc => vậy phải
có đồng bạc là sắc pháp và nhãn thức để
thấy , ý thức phân biệt là tâm pháp v..v.. 24
món bất tương ưng hành pháp là : Đắc, Mạng căn, Chúng đồng
Phận, Dị sanh tánh, Vô tưởng định, Diệt tận định, Vô tướng báo
, Danh Thân( tên, danh từ) , Cú thân( câu văn) , Văn thân( chữ) ,
Sanh, Trụ, Lão, Vô thường ,Lưu chuyển, Định vị, Tương ưng, Thế tốc,
Thứ đệ, Thời, Phương, Số, Hoà hợp tánh, Bất hoà hợp tánh .
24 món Bất tương ưng hành này hợp với 8 Tâm vương,
51 Tâm sở và 11 Sắc pháp vị chi là 94 pháp ; đây là các pháp
hữu vi có sinh có diệt, biến đổi luôn luôn. Khi các pháp hữu
vi diệt rồi thì các pháp vô vi mới hiển bày. Vô vi là những gì
không tạo tác, không sinh không diệt, không tăng không giảm, vắng
lặng, thường còn ; có 6 pháp Vô Vi :
5) 6 Pháp Vô Vi :
6 món Vô Vi là do 4 món hữu vi
trên đây ( Tâm Vương, Tâm Sở, Sắc Pháp, Bất tương ưng hành
pháp) diệt hết mà hiện bày ra, đó là thật tánh của Thức ; 6
món Vô Vi là : Hư Không, Trạch diệt, Phi Trạch diệt , Bất động
diệt, Thọ tưởng diệt, Chân Như .