Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

   Tiếng Anh 

qd.jpg (8936 bytes)

Đức Phật và Phật Pháp


...... ... .


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
 --- o0o --- 

Phần III

Phật giáo và các vấn đề thời đại

 --- o0o ---

Ý NGHĨA ĐẠO ĐỨC TRONG KINH PHẬT TỰ THUYẾT

Thích Thiện Hữu

Về nội dung và ý nghĩa, bản kinh này cũng không thua kém gì kinh Pháp Cú. Do đó, chúng ta có thể sử dụng làm giáo trình giảng dạy trong các Phật học viện.

Khi nghiên cứu kinh tạng P li hay Hán tạng chúng ta thường bắt gặp một mẫu số chung, đó là nội dung phong phú của hai hệ thống kinh điển.

Càng đọc kỹ, chúng ta càng thấy được vô số bài học quí giá từ kim khẩu của bậc đạo sư còn lưu lại đến nay.

Đức Phật thường ứng dụng mọi tình huống khi ra thuyết pháp, độ sanh. Ngài thật sự là một bậc vĩ nhân, không những truyền bá những điều khó truyền bá mà còn là vị lãnh đạo tôn giáo tài ba, siêu tuyệt! Đức Phật không phải là nhà độc tài truyền giáo mà là bậc mẫu mực trong các bậc truyền giáo. Ngài luôn cổ động và khích lệ hàng đệ tử đã thành công trong quá trình chứng nghiệm hãy truyền trao kết qủa đó cho người khác bằng một tình thương vô vụ lợi. Và ban bố chánh pháp đúng nghĩa là đem lại sự an lạc, giải thoát thật sự cho tất cả mọi người!

Nghiên cứu kinh Phật Tự Thuyết (Udana) ở Tiểu Bộ Kinh sẽ cho chúng ta thấy điều đó.

1-Ý NGHĨA CỦA ĐỊNH NGHĨA

Lúc Thế Tôn trú tại Xá-vệ, rừng Kỳ-đà khu vườn ông Cấp Cô Độc thì những tôn giả: Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, Đại Ca-chiên-diên, Kiếp-tân-na, Đại Thuần-đà, A-na-luật, Ly-bà-đa, Đề-bà-đạt-đa, và A-nan tìm đến yêt?kiến Đức Thế Tôn. Khi các tôn giả đến nơi, Đức Phật hướng sang một Thầy Tỳ-Kheo ngồi bên cạnh và nói rằng:

- Này tỳ-kheo, đó là những Bà-la-môn đang đến!

Nghe Thế Tôn gọi các vị đại đệ tử là Bà-la-môn, thầy ấy bở ngỡ, không biết ý Thế Tôn thế nào (vì thầy tỳ-kheo này vốn thuộc đẳng cấp Bà-la-môn khi chưa xuất gia) nên vội vàng thưa hỏi:

Cho đến như thế nào, bạch đức Thế Tôn, là Bà-la-môn! Và có bao nhiêu pháp tác thành Bà-la-môn? Để trả lời, Đức Phật nói lên một bài thơ cảm hứng như sau:

Sau khi loại pháp ác
Thường duy trì chánh niệm
Kiến sử đoạn, giác ngộ
Những vị ấy ở đời
Thật là Bà-la-môn.1

Thông thường theo tiêu chuẩn truyền thống Vedanta, một vị bà-la-môn được đánh giá trên năm đức tánh:

1. Huyết thống thanh tịnh từ bảy đời.
2. Thông hiều ba tập veda, tinh thông chú thuật.
3. Đẹp trai, cử chỉ trang nhã.
4. Học rộng sáng suốt.
5. Lão thông tư tưởng Bà-la-môn.

Để đánh giá và quyết định Bà-la-môn, thì Đức Phật lại căn cứ trên đức hạnh để đánh giá. Những ai lo trau dồi đạo đức bản thân, cởi bỏ những tâm lý xấu ác trong tâm hồn, luôn sống trong chánh niệm tỉnh giác, không một gợn sóng nhiễm ô quấy nhiễu. Tất cả những triền cái làm yếu ớt trí tuệ đã bị chặt đứt, như cây Sa-la gãy ngọn. Đời sống vị ấy là một chuỗi dài thanh tịnh, trong sáng và giác ngộ, thì những vị ấy mới xứng đáng là danh hiệu Bà-la-môn, vì Bà-la-môn theo phật pháp vẫn là người tu theo phạm hạnh, thanh tịnh.

Như vậy, Đức phật vẫn sử dụng những danh từ Bà-la-môn để ám chỉ cho chính ngài và chư vị thánh đệ tử (xin xem thêm Kinh Phật Thuyết Như Vầy cùng dịch giả trang 498). Nhưng yếu nghĩa Bà-la-môn mà đức Phật sử dụng, không phải là Bà-la-môn theo chế độ đẳng cấp lý lịch bất công, mà ngài đã đem lại một nội dung định nghĩa hết sức rõ ràng trong sáng và đầy đủ. Một định nghĩa căn cứ trên đạo đức nhân bản như thế, cũng chính ngụ ý đả phá các đẳng cấp Bà-la-môn đương thời: Các vị là Bà-la-môn giả tạo, không xứng đáng!

2 -Ý NGHĨA VỀ SỰ RỬA TỘI

Những ngày Đức Phật sống ở vùng Gayasila, có rất nhiều tín đồ bện tóc ngâm mình hằng giờ dưới nưới sông Gaya, còn một số khác thì tế tự thần lửa.

Những ngày ấy, tuyết rơi thường đến một tuần lễ, nhưng họ vẫn tắm trong sự giá buốc của khí trời lạnh lẽo, vì họ cho rằng, trời càng lạnh thì sự trong sạch càng gia tăng!

Đức Phật không chấp nhận việc làm tà kiến của họ, Ngài đến nơi họ tắm và đang tế thần lửa mà nói lời cảm thán như thế này:

- Sự trong sạch của tâm hồn không thể có, do rửa bằng nước sông. Nhưng lại có nhiều người vẫn ngâm mình ở dòng sông này. Chỉ khi nào người ta chịu tắm ở dòng sông chân lý (Sacca) và thiện pháp (dhamma) thì người ấy mới có thể trong sạch về tâm hồn mà thôi! (Udana, cùng dịch giả, trang 296-297)

Câu nói này tuy ngắn ngủi nhưng chứa đựng một chân lý bất di bất dịch của định luật nhân quả, mà trước đó đã biết bao người, bao học thuyết đã sai lầm, phiến diện, nhất là chủ trương tắm sông rửa tội của Bà-la-môn.

Thật ra, tội chỉ là hình thức khác của nghiệp đã gieo ở đất tâm chứ không phải những cái gì bất di bất dịch. Tội là nghiệp ác đã tạo, nên có thể hoán cải nó với nhiều phương cách, nhưng hiển nhiên, kết quả cuối cùng của công việc hoán cải là biến một việc ác (tội) thành một quả báo tương xứng ở mức độ không đáng kể và không làm tác hưởng xấu xa gì cả. Đó là công năng của sự hoán cải, nhưng nên nhớ, nghiệp bị hoán cải sẽ giảm thiểu đến mức độ tối đa!

Dù sao chăng nữa, sự hoán cải với một kết quả ấy đã là một chuyển biến tốt đẹp lắm rồi, như trường hợp ngài Vô-Não đã sát hại hàng trăm mạng sống, nhưng nhờ những nghiệp nhân ăn năn, phục thiện sau đó, mà quả ác đến với ngài rất nhẹ. Đánh đổi quả báo sát nhân bằng những sự đánh đập và chửi rủa. Phương thức rửa tội của đức Phật là thế. Ngài dạy chúng ta phải duy trì sự sống của những tâm lý thiện và hành động thiện trong mọi hoàn cảnh và mọi thời gian, để nhờ đó mà những tác nhân xấu không còn cơ hội tha hồ phát triển. Sự mâu thuẫn, đối kháng giữa hai nhân tố đó, dĩ nhiên, phía mạnh sẽ thắng và phía yếu sẽ thua và điều kiện duy trì liên tục chiến thắng của nghiệp thiện, nhất định chúng ta sẽ lấn át được nhân xấu đã tạo dù vô tình hay cố ý trong đời sống quá khứ. Như vậy, chúng ta, dù không có ý định rửa tội nhưng tự bản thân tội tự giảm thiểu đến mức gần như tự tiêu diệt.

Nước sông, dù sông thánh hay sông gì chăng nữa, nhất định không thể nào có công năng làm sạch tội lỗi của một chúng sanh mà các học thuyết tôn giáo khác đã bày trò hoang đường, mê tín. Dĩ nhiên, phép ăn bánh thánh xưng tội của đạo Ky-tô giáo bây giờ cũng không khác với tình trạng tắm sông rửa tội ngày xưa.

3-Ý NGHĨA VIỆC NÓI NĂNG, IM LẶNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP

Sau một buổi đi khất thực ở Jetavana trở về, để chuẩn bị cho buổi thọ trai, các thầy Tỳ-kheo ngồi quanh quẩn tại hội trường thảo luận các vấn đề chính trị và quốc sự.

Có vị cho rằng, giữa hai vì vua, vua Tần-bà-sa-la ở Ma-kiệt-đà và vua Pasenadi ở Kosala thì vua Pasenadi giàu có hơn, quốc độ mạnh mẽ hơn, xe cộ nhiều hơn và uy lực mạnh hơn.

- Có vị lại bảo, không phải thế, vua Tần-bà-sa-la mới thật sự giàu có hơn, tài sản lớn hơn, xe cộ nhiều hơn và uy lực mạnh hơn. Thế là cuộc tranh cãi cứ rầy rà mãi đến chiều và không ai chịu khuất phục ai. Đức Phật biết được liền đến hội trường và từ tốn bảo: Này quí thầy, quý thầy ngồi với nhau với câu chuyện gì? Và câu chuyện gì đang diễn ra giữa quý thầy?

Nghe Đức Phật hỏi, không ai bảo ai, tất cả đều tường thuật lại đầu đuôi cuộc tranh luận. Nghe qua, Đức Phật quở trách:

- Này các tỳ-kheo, thật không xứng đáng cho các thầy, những thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình lại bàn thảo những vấn đề vô ích như vậy.

Này các tỳ-kheo, khi các thầy hội hợp với nhau, có hai việc cần phải làm: Một là, đàm luận về chánh pháp; hai là, giữ im lặng như bậc thánh. Ngoài hai việc này ra, các thầy không nên nhọc trí đến các vấn đề khác! (Udana, cùng dịch giả, trang 301-302).

Mục đích của việc xuất gia là đạt ngộ chân lý. Nếu tìm hiểu và huyền đàm về thế giới là vô ích, không liên hệ đến ly tham, sân, si thì vấn đề tìm hiểu về chính trị, quốc sự lại càng không phải là nhân tố quyết định sự giải thoát, giác ngộ. Do đó, không riêng gì ở kinh này, mà lập trường chính đáng của đức phật là xa lìa những cuộc biện luận có tính vô ích, thay vì lo trau dồi phạm hạnh bản thân để hóa giải những tâm lý xấu xa, phiền phức, trở thành những con người hoàn toàn thoát tục. Muốn đạt được điều này, không gì bằng luận đàm về chánh pháp và im lặng như chánh pháp, trong trường hợp phải im lặng. Chánh pháp ở đây là những phương cách, là những con đường có thể giúp hành giả thực hiện những gì thật sự có an lạc, giải thoát. Đó cũng chính là cương lĩnh chính yếu của đức phật và đạo Phật!

4. Ý NGHĨAVỀ VIỆC CHẤP NHẬN SỰ RA ĐI

Một buổi chiều nọ, tại vườn ông Cấp Cô Độc, sau khi giúp việc đức Phật xong, thị giả A-nan-da thưa chuyện:

- Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn, thọ mạng ngắn ngủi là mẹ Thế Tôn. Sau khi sanh Thế Tôn bảy ngày đã mạng chung về cõi trời Tusita! Và tại sao lại có sự việc bất nhẫn như vậy?

- Chính là như vậy, này Ananda. Không chỉ riêng trường hợp mẫu hậu Mada, mà thọ mạng mẹ của các vị Bồ-tát cũng vậy. Sau khi sanh các vị Bồ-tát 7 ngày là mạng chung về cõi trời Tusita. Đó là thông lệ, cũng là việc bình thường, có chi phải nuối tiếc! Nói đến đó, Đức Phật lại cảm tác một bài thơ sau:

Tất cả hữu tình nào
Sẽ có mặt ở đời
Tất cả chúng sẽ đi
Sau khi bỏ sắc thân
Hiểu tất cả như vậy
Bậc thiện sanh nhiệt tâm
Sống đời sống phạm hạnh!

(Udana, cùng dịch giả, trang342-343)

Được hỏi về nguyên nhân tại sao mẫu hậu Maya không sống lâu thêm nữa mà chỉ có 7 ngày sau khi hạ sanh thái tử, chẳng những Đức Phật không bàng hoàng xúc động theo lễ giáo gia phong, đạo lý thường tình mẹ con, mà Đức Phật còn tỏ thái độ một trăm phần trăm dửng dưng không chút luyến tiếc.

Câu nói khẳng định đó là thông lệ, là chuyện bình thường có chi phải nuối tiếc, giúp cho chúng ta thấy rõ về quan điểm và lập trường của Đức Phật trước cái chết. Chết không phải là hết, chết là sự chuyển tiếp từ kiếp này với kiếp sống kế tiếp. Chết là một qui luật chi phối không thiên vị một ai. Nuối tiếc về cái chết không thể làm cho tử thi sống lại được. Nhận chân được điều đó, Đức Phật dạy chúng ta phải cứng rắn trước sự ra đi của người thân, không nên bi lụy vô ích. Hãy lấy sự vô thường của kiếp sống làm tiền đề để trao dồi phạm hạnh và tu tập thiền quán. Và nếu không chuẩn bị hành trạng, thái độ nhìn sự thật ngay bây giờ thì đợi đến bao giờ?

Vì chúng ta, ai cũng sẽ ra đi.
Thấy người khác qua đời
Trong lòng luôn xót xa
Chẳng phải thương hại người
Mà nghĩ đến lượt ta!

5. Ý NGHĨA VỀ MỘT ĐỨC TIN

Pasenadi trị vì nước Kosala, là một đức vua rất kính trọng người đức hạnh. Trời đã về chiều, trên đường đến yết kiến Đức Phật, nhà vua nhìn thấy 7 vị bện tóc, 7 vị lõa thể, 7 vị mặc một y và 7 vị du sĩ, đầu tóc bồm sòm, tóc tai dài thường thượt đang đi phía trước. Theo thói quen, nhà vua chấp tay cung kính đảnh lễ các vị cho đến khi không còn nhìn thấy nữa. Đảnh lễ xong nhà vua tiếp tục đi đến nơi Đức Phật trú ngụ. Sau khi đảnh lễ Đức Phật, nhà vua hỏi:

- Bạch Đức Thế Tôn, có phải những tôn giả ấy là những bậc A-la-hán ở trên đời này? Hay các vị đó đang đi trên con đường để trở thành A-la-hán?

- Thưa đại vương, không thể nhận định vội vàng như vậy là đúng được. Cần phải cộng trú mới biết được giới đức của một người và như vậy, phải trong một thời gian dài, không thể ít ngày được. Phải có tác ý, không phải không có tác ý. Phải có trí tuệ, không phải không có trí tuệ. Phải có liên hệ mới biết được sự thanh liêm, trong sạch của một người. Thưa đại vương, hoặc ít ra cũng phải đàm luận mới biết được trí tuệ của một người và như vậy, phải trong một thời gian dài, phải có tác ý, phải có trí tuệ mới có thể đánh giá chính xác thế nào là một A-la-hán hay không phải A-la-hán. (Udana, cùng dịch giả, trang 362 -363)

Nhận định phẩm chất đạo đức của một con người thông qua những hành vi, cử chỉ được biểu lộ bên ngoài theo kinh nghiệm nhân tính học của nhà vua cũng khá tuyệt vời. Được một nhà vua hết lòng đảnh lễ mà điềm nhiên không dao động thì làm sao nhà vua chẳng lầm khi cho rằng các vị ấy cũng là A-la-hán...

Nhưng với nhãn quan chính kiến của một bậc tuệ giác viên mãn, Đức Phật không hoàn toàn đồng ý với theo lối nhận định của nhà vua. Đức Phật đưa ra một số phạm trù rất cơ bản và quan trọng để khảo sát xem ai là bậc thánh người phàm. Đầu tiên, phải sống chung để ý tìm hiểu bằng lý trí không thiên vị trong một thời gian khá lâu mới có thể biết được đâu đá, đâu vàng. Hay đơn giản hơn, ít ra cũng phải cùng họ đàm luận. Trong đàm luận, lâu ngày, cũng giúp chúng ta chính xác hiểu về một con người. Chính qua cuộc sống thường nhật, với những cử chỉ được biểu hiện qua lời nóihành động và ý tưởng sẽ gíup chúng ta đánh giá chính xác về đời sống đạo đức của một người.

Như vậy, qua một số khảo sát trên, chúng ta có thể rút ra được nhiều bài học đạo đức tâm linh nơi kinh Phật Tự Thuyết.

Về nội dung và ý nghĩa, bản kinh này cũng không thua kém gì kinh Pháp Cú. Do đó, chúng ta có thể sử dụng làm giáo trình giảng dạy trong các Phật học viện. Bản kinh này cũng rất bổ ích cho chư vị hoằng pháp !!!

Tác giả chân thành tri ân đại đức Thích Minh Thọ đã hoan hỷ cho mượn phòng và máy vi tính, nhờ đó, bài viết này có thể ra đời.

Chú thích:

1. Tỳ-kheo Thích Minh Châu dịch, tiểu bộ kinh, tập I, Udana, Kinh Phật Tự Thuyết, tư thư Phật học Vạn Hạnh, 1982, trang 293-294.

 --- o0o ---

| Mục Lục Mục lục chi tiết |

|Phần I | Phần II | Phần III | Phần IV |

 --- o0o ---

| Thư Mục Tác Giả |

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002

 

Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Đức Phật & Phật Pháp

Đầu trang

 

Biên tập nội dung : Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ : quangduc@quangduc.com
Địa chỉ gởi thư Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544