Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

Tiếng Anh

qd.Äpg (8936 bytes)

Diễn Đàn Đối Thoại


...... ... .

 

Chiến lược tâm công của đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Gandhi, bà Aung San Suu Kyi, và đức Dalai Lama

 

Phan Quang Việt

--o0o--

 

-Bệ-hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà Tôn-miếu Xã-tắc thì sao? Nếu Bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng!? 

 

...- Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả.? Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1232-1300)

 

- Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, 

Lấy chí nhân mà thay cường bạo. 

Ta mưu phạt tâm công, 

Không đánh mà người phải khuất'. Nguyễn Trãi (1380 - 1442) 

 

- Tâm là chủ của thân. Thân là dụng của Tâm. Tất cả mọi việc lành, việc dữ đều do Tâm mình tạo ra. Tâm mình tu thiện thì thân mình an vui. Tâm mình làm ác thì thân mình khốn khổ. Đạo do Tâm học, Đức do Tâm chứa, Công do Tâm tu, Phưóc do Tâm tạo, Họa do Tâm làm. 

 

Tất cả công đức đều do Tâm của mình tự tu lấy, chứ không phải ngoài mình ra mà tìm kiếm được. Tất cả Đạo vô thượng đều từ trong Tâm mình phát xuất ra. Tâm ấy vô cùng tận, không thể phá hoại, không thể tạp nhiễm.? (tài liệu tham khảo số 1)

 

Muốn thực hiện được Chiến lược Tâm Công, chúng ta phải có Tâm thành thật, Tâm bình đẳng (thương yêu đồng loại, kẻ thù hay người thân như nhau), Tâm thương người, vật và tôn trọng sự sống (Tâm Từ Bi), Tâm sáng suốt hành động (Tâm Trí Tuệ) và Tâm dũng cảm tự tồn, không còn sự sợ hãi (Tâm Dũng Lực). 

 

Những bậc thánh nhân đầy đủ Tâm từ Bi, Trí tuệ, Dũng lực, Tâm Thành Thật và Tâm Bình Đẳng đã dùng Chiến lược Tâm Công như chiến lược lấy sức mạnh của Tâm (Tâm lực, heart-force) để kết hợp lòng người, thay đổi lòng dạ độc ác và hung tàn của con người, hoán chuyển nghịch cảnh thành thuận cảnh và đi đến mục đích cuối cùng để chấm dứt bạo lực, chiến tranh và hận thù hầu đem lại hạnh phúc cho sinh dân.

 

A. Chiến lược tâm công của đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
 

Vào thế kỷ thứ 13, đời nhà Trần nước Việt Nam chúng ta đã phải đương đầu với ba lần xâm lăng của đạo quân hùng mạnh và thiện chiến Mông Cổ nhưng quân dân nước ta đã đánh bại cả ba lần xâm lăng vào những năm 1257, 1284, 1287 (theo tài liệu sử sách tham khảo số 5 và 6) trong khi đế quốc Mông Cổ (hoàn thành năm 1280) đã thôn tính 40 quốc gia (kể cả Trung Hoa) từ Đông sang Tây tạo dựng một đế quốc trải dài từ Á sang Âu châu. (6)

Khi học lại những trang sử oai hùng của công cuộc chiến tranh kỳ vĩ do Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lãnh đạo để chống quân Nguyên (Mông Cổ), người viết xin được ghi chép lại và đóng góp những nhận định hết sức tổng quát và đơn giản về chiến lược Tâm Công đời nhà Trần. Đây chính là quốc bảo để giữ nước và dựng nước mà tất cả người Việt đều có quyền hãnh diện thừa hưởng, học hỏi và áp dụng.

 

A.1 Tương quan lực lượng của quân Việt Nam và quân Mông Cổ 

 

Dân số nước ta vào thế kỷ 13 (1284) có thể ước lượng là vài triệu người nhưng theo sử chép thì tổng số quân lực dưới quyền lãnh đạo của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ có 20 vạn quân (5), (6).

 

Với 200,000 quân số như vậy mà nước ta phải đương đầu với 500,000 quân của đoàn quân xâm lược thiện chiến Mông Cổ thì quả là một sự chênh lệch quá lớn trong tương quan lực lượng của quân ta và quân Mông Cổ.

 

A.2 Chiến lược tâm công của Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn 

 

Trần Hưng Đạo là một thiên tài quân sự đã nghiên cứu chiến lược, chiến thuật và binh pháp của tất cả những nhà quân sự thời bấy giờ (2 & 3) và Vương đã viết Hịch Tướng Sĩ (2), hai quyển Vạn Kiếp Bí Truyền (5),(6) và Binh Thư Yếu Lược (3) để huấn luyện và thao dượt quân sĩ. Sau này theo Phan Huy Chú trong sách Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch Chí thì Vạn Kiếp Bí Truyền, Binh Thư Yếu Lược cùng bao nhiêu sách vở của nước Nam từ nhà Trần về trước đều bị quan quân nhà Minh thu lấy cả rồi đem về Kim Lăng trong thời kỳ nhà Minh đô hộ nước ta (1414-1427). (5)

 

Dựa vào những dữ kiện lịch sử , chúng ta có thể đi đến kết luận là những chiến lược sau đây đã do chính Trần Hưng Đạo dâng lên để Vua Trần Nhân Tông và triều đình xử dụng: 

 

Hội nghị Bình Than (tháng 10 năm Nhâm Ngọ 1282): ?Trần triều trước tình thế cấp bách và nghiêm trọng, triệu tập các vương hầu và bá quan văn võ bên sông Bình Than. Nơi họp có tính cách bí mật vì cần tránh tai mắt của bọn gián điệp đối phương. Hội nghị này là hội nghị để thăm dò ý kiến của các vương hầu, tướng lĩnh. Các quan có người bàn không nên nghịch ý Mông Cổ nghĩa là cho mượn đường và giúp lương. Có người bàn nên đem quý vật sang cống để hoãn binh. Duy chỉ có Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư chủ chiến và xin đem quân giữ các nơi hiểm yếu.? (6)

 

Hội nghị Diên Hồng (tháng chạp năm Giáp Thân 1284) hay chiến lược Đồng Tâm Trước thế giặc Nguyên hết sức mạnh, Thượng Hoàng (Vua Trần Thánh Tông) đã cho triệu tập các bô lão về họp ở điện Diên Hồng để trưng cầu dân ý cùng tham khảo chiến lược trước cơn quốc nạn (Tâm Trí). Các bô lão đều đồng thanh xin đánh. Qua hai hội nghị Bình Than và Diên Hồng, quyết định chung của toàn dân và toàn quân là quyết chiến và hy sinh để bảo vệ đất nước và nền độc lập, tự chủ. (Tâm Trí và Tâm Dũng) Lời bài ca Hội Nghị Diên Hồng còn vang lên hùng khí của tiền nhân : ?Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến? Quyết chiến! Quyết chiến! Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh? Hy sinh! Hy sinh!? 

 

Hội nghị Diên Hồng có thể được xem như là hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước ta để biết ý dân vì các bô lão thực sự là những đại biểu của dân, đã sống cả cuộc đời gắn bó với quê hương và dân tộc, đã hiểu được cái Đạo Sống của dân tộc, luôn được dân chúng kính trọng và nghe lời dạy bảo. Thượng Hoàng (Vua Trần Thánh Tông) đã không cho triệu tập các thành phần sĩ, nông, công, thương trong xã hội nước ta vào thời đó vì lý do này. ( Tâm Trí ) 

 

Hội nghị Diên Hồng đã mở ra chiến lược Đồng Tâm, áp dụng chiến lược ?Tâm truyền Tâm? để kết hợp toàn dân trong tình thế hết sức nguy khó khi đất nước có thể rơi vào trong tình trạng bị đô hộ bởi ngoại bang và có thể mất nền độc lập, tự chủ vừa mới giành lại được từ thời Ngô Quyền năm 939.

 

Khi các bô lão trở về làng của mình đã truyền giảng thông điệp quyết chiến và hy sinh của hội nghị Diên Hồng và đã hoàn thành chiến lược Đồng Tâm để kết hợp và điều động toàn dân bảo vệ bờ cõi chống xâm lăng. (Tâm Trí và Tâm Dũng) 

 

Chiến lược này đã giúp cho nước ta đương đầu với cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ mặc dù trong những giai đoạn đầu quân ta không thể chận được những cuộc tấn công của quân Mông Cổ và đã thua ở nhiều mặt trận kể cả kinh thành Thăng Long cũng đã bị thất thủ và Trần Hưng Đạo đã phải rước xa giá và bảo vệ nhà Vua dời đi nơi khác. (5), (6)

 

Sau khi tham dự Hội nghị Diên Hồng, các bô lão đã giải quyết được vấn nạn truyền thông đại chúng cho triều đình nhà Trần để đưa thông điệp quyết chiến và hy sinh đến toàn dân và đã hoàn thành chiến lược Đồng Tâm vì vào thế kỷ 13 đây là một vấn đề rất khó giải quyết khi chưa có các phương tiện truyền thông đại chúng (như báo chí, hệ thống truyền thanh, truyền hình,...) và tất cả nguồn nhân lực, tài nguyên quốc gia đều phải đổ vào cuộc chiến tranh tự vệ.

 

Khi nghe tin Hưng Đạo Vương lui quân khỏi Lạng Sơn và chạy về Vạn Kiếp, Vua Trần Nhân Tông liền xuống chiến thuyền nhỏ ra Hải Đông (tức là Hải Dương), rồi cho vời Hưng Đạo Vương đến bàn quốc sự. Vua Nhân Tông nói: ?Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân sự tàn hại, hay là Trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân.? ( Tâm Từ Bi )

 

Hưng Đạo Vương tâu rằng: ?Bệ-hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà Tôn-miếu Xã-tắc thì sao? Nếu Bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng!? (Tâm Dũng). Vua nghe lời nói trung liệt như vậy, trong bụng mới yên. (5) (Tâm an Tâm)

 

Sau đó Hội Nghị Quân Sự ở Vạn Kiếp được nhóm họp để chỉnh bị lại hàng ngũ, duyệt xét lại toàn bộ các mặt trận cùng chiến lược, chiến thuật sẽ được xử dụng sau những kinh nghiệm về các trận đánh cùng quân Nguyên ở mặt trận Lạng Sơn. (6) (Tâm Trí) 

 

Hịch Tướng Sĩ hay là Chiến Lược Toàn Quân

 

Sau hội nghị Bình Than (tháng 10 năm Nhâm Ngọ 1282), ?Vua Trần Nhân Tông thân chinh đốc xuất các vương hầu huy động toàn thể quân đội thủy lục được tất cả 20 vạn mở cuộc tập trận. Trần Quốc Tuấn được tấn phong làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh lực lượng quân sự toàn quốc, sau đó Vương đã viết và cho truyền ra Hịch Tướng Sĩ, lời hịch đầu tiên kêu gọi tinh thần ái quốc và kỷ luật của các tướng sĩ và toàn quân vào tháng 8 năm Giáp Thân 1284 trước cơn quốc nạn. (6) (Tâm Trí). 

 

Mặc dù bản văn Hịch tướng Sĩ đã được viết hơn 7 thế kỷ trước để hiệu triệu tướng sĩ và toàn quân thế mà đến ngày nay người đọc vẫn cảm nhận được hùng khí của tiền nhân gói trọn trong những nét hay và vẻ đẹp của văn chương.

 

Qua Hịch tướng Sĩ, Trần Hưng Đạo đã đưa ra một Chiến Lược Toàn Quân vì Vương đã dùng hịch này để hiệu triệu toàn quân phải hết lòng chiến đấu để dẹp tan quân giặc (Tâm truyền Tâm , Tâm Dũng). Vương đã dạy cho quân sĩ chiến thuật và chiến lược chống xâm lăng qua việc học hỏi và thao luyện những điều mà Vương đã tổng hợp các sách quân sự đương thời trong quyển Binh Thư Yếu Lược (Tâm Trí):

 

?Nay ta soạn hết các binh pháp của các nhà danh gia hợp lại làm một quyển gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo, thì mới phải đạo thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo, thì tức là kẻ nghịch thù.? (2) 

 

Trần Hưng Đạo cũng là một nhà chính trị lỗi lạc và chính trị của Vương luôn đặt tinh thần yêu nước và sự an vui, hạnh phúc của toàn dân làm đầu: ?Hưng Đạo Vương là một người danh tướng đệ nhất nước Nam, đánh giặc Nguyên có công to với nước, được phong làm Thái Sư, Thượng Phụ, Thượng Qưốc Công, Bình Bắc Đại Nguyên Súy, Hưng Đạo Đại Vương. ... Khi Vương sắp mất, Vua Anh Tông có ngự giá đến thăm, nhận thấy Vương bệnh nặng, mới hỏi rằng:?Thượng Phụ một mai khuất núi, phỏng có quân Bắc lại sang thì làm thế nào?? Hưng Đạo Vương tâu rằng: 

?Nước ta thuở xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp, Hán Đế đem binh đến đánh. Võ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để lương thảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm, đánh quận Tràng Sa, dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời. Đến đời Đinh, Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thành Bình Lỗ (thuộc Thái Nguyên) phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đời nhà Lý, quân Tống sang xâm, Lý Đế sai Lý Thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai Lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bản triều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trời giúp ta mới được thế. Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhau với tràng, phép dùng binh thường vẫn phải thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị ; thì ta nên dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tùy cơ mà ứng biến, dùng binh phải đồng lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được. (Tâm Trí) ?Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả.? (5) (Tâm Từ Bi) 

Vua Anh Tông chịu lời ấy là rất phải. Được mấy hôm thì Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất vào ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300). Từ nhà Vua cho đến dân chúng ai cũng thương tiếc. Nhân dân nhiều nơi lập đền thờ phụng để ghi nhớ công đức của Ngài. (5) 

Thực hiện chiến lược Tâm Công để kết hợp toàn dân và toàn quân, Thượng Hoàng (Vua Trần Thánh Tông), Vua Trần Nhân Tông và triều đình đời Trần đã giao trọng trách điều khiển lực lượng quân sự toàn quốc cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Lịch sử đã ghi chép vào thế kỷ 13, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới đã đánh bại quân xâm lăng Mông Cổ ba lần để giữ vững nền tự chủ và bờ cõi.  

B. Chiến lược tâm công của đức Lê Lợi và Nguyễn Trãi

 

Khi học lại những trang sử oai hùng của công cuộc kháng chiến kỳ vĩ để lật đổ chế độ đô hộ của nhà Minh (1414 - 1427) do Bình Định Vương Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo (1418 - 1427), người viết xin được ghi chép lại và đóng góp những nhận định hết sức tổng quát và đơn giản về chiến lược Tâm Công do Nguyễn Trãi dâng lên cho Lê Lợi, người anh hùng áo vải ở đất Lam Sơn, để thực hiện công cuộc kháng chiến 10 năm đầy gian khổ và chưa từng có trong lịch sử xưa nay. Đây chính là quốc bảo để lấy lại nước, giữ nước và dựng nước mà tất cả người Việt đều có quyền hãnh diện thừa hưởng, học hỏi và áp dụng. 

 

B.1 Bình Định Vương Lê Lợi: ?người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Đã mấy đời làm nghề canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục,... Ông Lê Lợi khảng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: ?Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người!? (5) (Tâm Trí)

 

B.2 ?Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong. Đến mùa xuân năm mậu tuất (1418), ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch và Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn tự xưng là Bình Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rõ cái mụch đích của mình khởi nghĩa đánh kẻ thù của nước.? (5) (Tâm truyền Tâm)
 

B.3 Bình Định Vương Lê Lợi là bậc anh hùng hội đủ tất cả những đức tính cần thiết để thực hiện chiến lược Tâm Công giải phóng đất nước ra khỏi ách đô hộ của nhà Minh do Nguyễn Trãi dâng lên cho Vương trong ?Bình Ngô Sách?.
 

B.4 Trước khi đi gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã hoàn tất chiến lược cứu nước qua tác phẩm Bình Ngô Sách. (Tâm Trí) 

 

Tiếc thay, bản chiến lược Bình Ngô Sách này đã thất lạc. Tuy không biết Bình Ngô Sách trình bày những nhận định gì về con đường cứu nước và về tình hình ta và địch. Nhưng điều may mắn nhất của chúng ta là vẫn còn biết được yếu chỉ hành động của Bình Ngô Sách nhờ bài tựa của Ngô Thế Vinh (viết năm 1833) trong Ức Trai Di Tập (quyển 1): ?Bình Ngô Sách hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người, cuối cùng nhân dân và đất nước của 15 đạo nước ta đều đem về cho ta cả.? (7) (Chiến lược Tâm Công) 
 

B.5 Sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đã dẹp xong giặc Minh năm 1427, Người đã ra lệnh cho Nguyễn Trãi soạn thảo bài tuyên cáo cho toàn dân biết và Nguyễn Trãi đã minh định chiến lược này qua bản Bình Ngô Đại Cáo (1427): 

...?Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, 

?Lấy chí nhân mà thay cường bạo. ... 

?Ta mưu phạt tâm công , không đánh mà người phải khuất. ...(Tâm Công)

?Tướng giặc bắt tù, xin thương hại vẫy đuôi cầu sống, 

?Uy thần chẳng giết, lấy khoan hồng thể bụng hiếu sinh. ... (Tâm Từ Bi)

?Chúng đã sợ chết xin hòa, thực thà cầu sống,

?Ta muốn toàn quân làm cốt, ngơi nghỉ cùng dân.

?Chẳng những mưu kế cực sâu xa,

?Cũng là cổ kim chưa nghe thấy. ...? (4) (Tâm Trí, Tâm Từ Bi )

B.6 Trong Bình Ngô Đại Cáo, Tâm Từ Bi đã thể hiện hết sức mạnh mẽ trong Chiến lược Tâm Công qua sự bừng nở của Tâm Trí Tuệ áp dụng trong chiến tranh chưa từng nghe thấy từ xưa đến nay để bảo toàn lực lượng khởi nghĩa, giữ đúng lệnh khoan hồng cho các trấn thành cùng quan quân đối phương đầu hàng, giảm thiểu những tổn thất về sinh mạng cho cả hai bên đang trong cuộc chiến, chấm dứt chiến tranh, đi đến chiến thắng sau cùng và mang lại hạnh phúc cho toàn dân. 

B.7 ?Tới giai đoạn này viện quân của Minh triều bị đại bại, tinh thần của đối phương ở nhiều trấn thành sa xuống rất mạnh. Nhiều tướng lĩnh Minh xin quy phục, chỉ còn 4 thành: Tây Đô, Cổ Lộng (nền cũ của thành này còn ở làng Bình Cách, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), Đông Quan và Chí Linh vẫn chưa xao xuyến lắm. Đáng lẽ quân ta tổng tấn công các thành đó trong lúc quân dân của chúng ta đang thừa hăng hái, Bình Định Vương sai viên thông sự Đặng Hiếu Lộc dẫn Thôi Tụ, Hoàng Phúc và một số lớn tù binh cùng quả ấn song hổ và cờ kiếm, sổ sáchđưa vào thành Đông Quan....? (6) ?Mưu thuật này đạt được đúng kết quả mong muốn là đánh một đòn nặng vào tâm lý địch giữa lúc họ đang khủng hoảng tinh thần. Biết tình thế hoàn toàn đổ vỡ, Vương Thông, Sơn Thọ cử phái viên là Thiên Hộ họ Hà đến đại bản doanh của Bình Định Vương đề nghị thành thực cầu hòa và xin mở đường cho chúng lui binh về nước.? (6) (Tâm Trí)
 

B.8 ?Tướng sĩ và nhân dân tỏ ý không tán thành cuộc hòa giải vì lòng người còn căm giận sự tàn bạo trước đây của giặc Minh. Dư luận còn đang phân vân, Nguyễn Trãi bàn: ?- Giặc Minh tàn bạo nhân dịp này giết hết chúng đi là phải, nhưng phải nghĩ nước mình nhỏ, nước chúng lớn gấp mấy chục lần thì xung đột với chúng chỉ là sự bất đắc dĩ. Nếu mối thù ngày một thêm sâu, giặc mất thể diện lại kéo binh sang nữa thì cuộc chiến tranh biết bao giờ mới dứt được. (Tâm Trí). Sao bằng chấp thuận cuộc hòa hiếu để tạo phúc cho sinh linh hai nước. (Tâm Từ Bi). 
 

B.9 ?Tha Vương Thông và đồng bọn về, hẳn chúng không còn lòng nào trở sang nữa. Xem như bài biểu dấu trong thỏi sáp của y gửi về Minh triều có câu: ? Xin thôi đừng vì miếng đất ?hẻo lánh một phương mà làm nhọc nhằn quân lính đi xa muôn dặm. Bấy giờ muốn đánh lại phải huy động đại quân như buổi ra đi, đại tướng phải sáu bẩy người vào hạng Trương Phụ. Nhưng dù lấy lại được thì sự giữ sau này cũng vẫn khó lòng...? (6) Bình Định Vương Lê Lợi gật đầu khen phải, nói: ?Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng bản tâm người nhân không muốn có việc giết người bao giờ, huống hồ người ta đã hàng mà giết thì không hay. Thỏa cái giận một lúc mà đeo cái tiếng muôn đời giết kẻ đầu hàng, sao bằng cho muôn vạn người cùng sống để tránh cuộc chiến tranh cho đời sau, lại còn được tiếng thơm lưu truyền sử xanh mãi mãi.? (6) (Tâm Từ Bi và Trí Tuệ) 
 

C. Chiến Lược Tâm Công trong thế kỷ 20

 

C.1 Mahatma Gandhi đấu tranh bất bạo động ở Ấn Độ

 

Mahatma Gandhi tên thật là Mohandas Karamchand Gandhi, sinh ngày 2 tháng 10, 1869 ở Porbandar, Ấn Độ, nhưng nhà thơ Tagore (giải thưởng Nobel Văn Chương về Thi Ca năm 1913) đã dùng hai chữ Maha (nghĩa là lớn) và Atma (tâm hồn) và nối nhau thành Mahatma (Great Saint, bậc Thánh) như một danh hiệu để vinh danh Người. (8)

 

Tháng Giêng năm 1915, sau khi cuộc đấu tranh thành công về quyền làm người cho những người dân da đen và các chủng tộc khác kể cả người di dân Ấn Độ ở vùng Transvaal, Nam Phi Châu bị người da trắng kỳ thị và đàn áp, Mahatma Gandhi đã được đảng Quốc Đại Ấn Độ (Indian National Congress) mời trở về Ấn Độ để tham gia vào công cuộc đấu tranh giành độc lập. (8)
 

Trong cùng thời điểm với cuộc khởi nghĩa ngày 10 tháng 2,1930 của Việt Nam Quốc Dân Đảng mà sau đó thất bại và bị bắt, đảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí đã hiên ngang hô to câu "Việt Nam vạn tuế" khi lên đoạn đầu đài ở Yên Báy vào ngày 17 tháng 6,1930 và hàng ngàn đảng viên bị đày đi Côn Đảo,Sơn La và Lao Bảo. (6)

Tháng 3 năm 1930,Mahatma Gandhi đã khởi sự cuộc đấu tranh áp dụng tinh thần BẤT BẠO ĐÔNG (AHIMSA, non-violence) và Người cũng đã xử dụng CHIẾN LƯợC TÂM CÔNG:

 

- ngày 12 tháng 3, 1930 Mahatma Gandhi cùng 78 nam thành viên trong ngôi làng (ashram), mà tên tuổi được công bố trên báo Young India, bắt đầu cuộc đi bộ 241 dặm (miles = 386 cây số) trong 24 ngày để đi xuống bờ Ấn Độ Dương và đến bờ biển ở vùng Dandi ngày 5 tháng 4 để làm muối cùng với các nhà lãnh đạo của đảng Quốc Đại Ấn và mấy ngàn người dân Ấn Độ từ hơn ba trăm ngôi làng mà phái đoàn Người đã đi qua, năm đó Người 61 tuổi; những hạt muối Ấn Độ Dương đã là điểm tựa cho đòn bẩy là dân tộc Ấn Độ trang bị bằng CHIẾN LƯợC TÂM CÔNG và tinh thần BẤT BẠO ĐÔNG để đánh bật tảng đá là chế độ đô hộ và thuộc địa của Anh Quốc; Cuộc đấu tranh đã xử dụng ưu điểm của dân tộc Ấn Độ là SỨC MẠNH TÂM LINH (mà tiếng Ấn Độ là SATYAGRAHA, SATYA (gốc là chữ SAT) có nghĩa là sự thật, lẽ phải, GRAHA có nghĩa là quyết tâm; chuyển sang tiếng Anh là SOUL FORCE, SỨC MẠNH TÂM LINH). 

 

Cuộc tranh đấu đã áp dụng chiến lược Dân Chúng không khuất phục, Dân Chúng Bất Cộng Tác (civil disobedience, civil non-cooperation) bằng những cuộc đình công, bãi thị toàn diện (general strike) để làm tê liệt guồng máy cai trị của chế độ đô hộ của người Anh. Chiến lược Dân Chúng Bất Cộng Tác áp dụng song song với sức mạnh của Bất Bạo Động, lẽ phải và sự thật khiến cho dân tộc Ấn Độ không còn mang mặc cảm bị đô hộ, bị đàn áp và đã hiên ngang đứng lên đòi độc lập và tự do;

 

Gandhi đã muốn có một nước Ấn Độ mới ngay vào thời điểm lúc đó, chứ không phải chỉ một nước Ấn Độ tự do trong tương lai. Người tin rằng tự do thật sự cho Ấn Độ phải chính là những người dân Ấn Độ với tinh thần hoàn toàn mới và tự do. 

 

Người đồng ý với nhà thơ Tagore là gông cùm đeo nặng lên dân tộc Ấn Độ là do chính tự mình làm ra. Tagore viết: ?Người tù hỡi, ai là người đã đem đến xích xiềng không thể phá vỡ này? Chính tôi, người tù nói, đã trui rèn (tôi luyện) xiềng xích này rất kỹ lưỡng.? (Prisoner, tell me who was it that brought this unbreakable chain? It was I, said the prisoner, who forged this chain very carefully.) (8)
 

Ngày 15 tháng 8,1947, dân tộc Ấn Độ đã thành công trong việc giải phóng đất nước ra khỏi ách đô hộ của người Anh và đạt được nền độc lập, tự chủ mặc dù Ấn Độ bị chia cắt ra thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pakistan.

 

Gandhi chủ trương hoà giải với Pakistan theo Hồi Giáo và Người đã bị bắn chết ngày 30 tháng 1, 1948 bởi những thành phần quá khích.

 

C. 2 Đức Dalai Lama đấu tranh ở hải ngoại để giải phóng dân tộc Tây Tạng ra khỏi ách thống trị của Trung Quốc
 

Đức Dalai Lama, His Holiness Tenzin Gyatso, sinh năm 1935, và lúc hai tuổi đã được xác nhận là Đức Dalai Lama tái sinh, Người đã phải thương thảo với Mao Trạch Đông năm Người mới 19 tuổi đời về tương lai của đất nước Tây Tạng, sau khi Trung Quốc đã xâm lăng và chiếm đóng Tây Tạng từ năm 1950 cho đến ngày nay. (9) 
 
 

Năm 1959, sau khi những cuộc đàm phán thất bại, Trung Quốc đàn áp đẫm máu những cuộc nổi dậy của dân tộc Tây Tạng mà hàng chục ngàn người đã hy sinh, Đức Dalai Lama đã phải rời bỏ Tây Tạng và sang sống lưu vong ở Dharamsala, Ấn Độ vì Người sợ rằng dân Tây Tạng sẽ phải bạo động trong tuyệt vọng nếu Trung Quốc bắt và giam giữ Người. (9)

 

Đức Dalai Lama, vị lãnh đạo tinh thần của hơn 6 triệu người Tây Tạng, nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1989 cho những nỗ lực tranh đấu không ngừng cho quyền làm người trên toàn thế giới, và nhất là cho nền tự chủ của dân tộc Tây Tạng thoát ra khỏi ách thống trị của Trung Quốc. 
 

Đức Dalai Lama luôn luôn chủ trương áp dụng tinh thần Bất Bạo Động (non-violence) trong công cuộc đấu tranh cho nền tự chủ (self-rule) để quốc gia Tây Tạng và nền văn hóa truyền thống Phật Giáo khỏi bị diệt vong. (9) Người cho rằng sức mạnh của dân tộc Tây Tạng là Lẽ Phải, là Sự Thật (truth) trong tinh thần Bất Bạo Động. (10) 

 

Mặc dù cuộc đấu tranh của Đức Dalai Lama và dân tộc Tây Tạng chưa đạt được nền tự chủ nhưng đã và đang đem lại nhiều thành quả đáng kể nhờ Người luôn luôn áp dụng CHIẾN LƯợC TÂM CÔNG để nêu cao chính nghĩa luôn sáng ngời và được toàn thể thế giới kính phục . Gần đây, có nhiều dấu hiệu cho thấy chính quyền Trung Quốc muốn thương thảo với Đức Dalai Lama để đi đến một giải pháp cho Tây Tạng.

 

C.3 Bà Aung San Suu Kyi đấu tranh cho tự do và dân chủ ở Miến Điện 

 

Năm 1989, chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện, Hội Đồng Phục hồi Luật Pháp và và Trật Tự Quốc Gia (State Law and Order Restoration Council, SLORC), củng cố quyền lực bằng việc bắt giam Bà Aung San Suu Kyi, ái nữ của Aung San vị anh hùng quốc gia của Miến Điện, và lúc đó Bà là Tổng Thư Ký của Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ (National League for Democracy, NLD). Bà đã bị quản thúc tại gia từ tháng 7,1989 và không được vận động tranh cử trong cuộc bầu cử năm 1990. (11) 
 

Mặc dù bị ngăn cản không được vận động tranh cử nhưng Bà Aung San Suu Kyi đã áp dụng CHIẾN LƯợC TÂM CÔNG và được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của dân chúng Miến Điện và nhiều chính phủ trên thế giới. NLD đã toàn thắng trong cuộc bầu cử ngày 27 tháng 5,1990. Sau đó chế độ độc tài quân phiệt (SLORC) hứa hẹn mơ hồ là sẽ trao quyền sau khi hiến pháp mới được soạn thảo. (11) 
 

Sau cuộc bầu cử , SLORC bắt giam phần lớn các lãnh tụ đối lập và Bà Aung San Suu Kyi tiếp tục bị quản thúc tại nhà. 

 

Tháng 7,1991, chính phủ Úc, Gia Nã Đại và Cộng Đồng Âu Châu đã ủng hộ lời kêu gọi của Hoa Kỳ đến sáu quốc gia thành viên của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á Châu (ASEAN), khối giao thương chính của Miến Điện, phải làm áp lực với SLORC để chấm dứt nạn cai trị độc tài. Trong cùng tháng 7,1991 SLORC ban hành đạo luật tước bỏ chức vụ dân biểu trong quốc hội của các thành viên đối lập và không cho họ được ứng cử. 
 

Tháng 10,1991 Bà Aung San Suu Kyi, lúc đó đã bị quản thúc tại nhà hơn hai năm, được trao giải Nobel Hòa Bình. SLORC từ chối không cho Bà đi Na Uy để nhận giải, và đã bắt giam nhiều người ủng hộ Bà ở Rangoon khi con trai Bà là Alexander Aris đã đại diện Bà để nhận giải Nobel Hòa Bình. (12) 
 

Khác với Thánh Gandhi và Đức Dalai Lama đã và đang phải đấu tranh với hai chế độ ngoại xâm, khác chủng tộc và khác văn hóa là chế độ thuộc địa của Anh Quốc và Trung Quốc, Bà Aung San Suu Kyi đã và đang phải đấu tranh với chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện cùng chủng tộc, ngôn ngữ, và văn hóa. 
 

D. Tiếng kêu trầm thống trước sự đàn áp và hủy diệt con người Việt Nam

D.1 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - Diễn Văn Chào Mừng Đại Hội kỳ VIII - 14, 15, 16 tháng 5, 1999

 

Trong Diễn Văn Chào Mừng Đại Hội VIII của Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, gửi từ trong nước ra, chúng ta cần phải nghiên cứu một số những chủ đề quan trọng sau đây để có thể đưa ra những đường lối đấu tranh cho dân chủ, tự do và quyền làm người tại Việt Nam trong những năm cuối của thế kỷ 20 và bước sang thế kỷ 21:

D.1.1 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ở trong nước đã và đang phải chịu sự đàn áp khốc liệt của chế độ cộng sản Việt Nam và HT Thích Quảng Độ đã viết nên tiếng kêu trầm thống này của Giáo Hội, Tăng Ni và Phật tử trong nước: 

 

"Thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, nhân danh Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, tôi kính chuyển lời chào mừng của Chư Tôn Trưởng Lão, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni và toàn thể Phật tử trong nước đến với Đại Hội hôm nay; đồng thời kính chuyển đến Đại Hội tâm nguyện thiết tha của những người đang sống tại một góc trời tăm tối, nơi mà bạo lực chuyên chính đang là một tiền đề triết học thách đố những dòng minh triết Đông và Tây; nơi mà phẩm giá con người đang bị thử thách và lương tâm nhân loại đang được trắc nghiệm." 

 

(trích Diễn Văn Chào Mừng Đại Hội VIII, 14,15,16 tháng 5, 1999 tại Hoa Kỳ, Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, diễn văn đã được gửi từ trong nước ra.) (16)
 

D.1.2 Hòa Thượng Quảng Độ đã nói lên tâm nguyện thiết tha của tất cả những người Việt Nam trong nước và bao gồm luôn tất cả những người Phật tử đang phải sống tại một góc trời tăm tối vì không có được những quyền làm người căn bản, nơi mà bạo lực đang chà đạp phẩm giá con người, và đàn áp tiếng nói của lương tâm.

 

Hòa Thượng Quảng Độ chỉ rõ cho chúng ta thấy là cộng đồng người Việt ở hải ngoại phải cố gắng gióng tiếng chuông nhân quyền làm thức tỉnh lương tâm nhân loại về thảm trạng này. 
 

D.1.3 "Đồng thời, thông qua Đại Hội, tôi xin thay mặt các Tăng Ni và Phật tử trong nước, những người đã và đang bị trấn áp,- vì quyết tâm giữ vững đức tin, kiên cường không khuất phục -, bày tỏ tình cảm sâu sắc đến các Tổ chức Quốc tế về nhân quyền, các chính khách, các nhà hoạt động tôn giáo và xã hội, mà trong suốt một phần tư thế kỷ, đã liên tục không ngừng yểm trợ tiếng nói chính nghĩa, đã kêu gọi lương tri loài người để cho một đất nước dù nghèo đói và lạc hậu không bị tách rời khỏi phần còn lại của thế giới loài người văn minh." (16)

 

Hòa Thượng Quảng Độ đã can đảm nói lên tiếng nói bất khuất của " các Tăng Ni và Phật tử trong nước, những người đã và đang bị trấn áp,- vì quyết tâm giữ vững đức tin, kiên cường không khuất phục". 

 

Đây là tiếng kêu cứu của người Việt Nam trong nước trước sự đàn áp và hủy diệt con người của bạo quyền cộng sản. 

 

Hòa Thượng Quảng Độ đã tri ân bằng cách " bày tỏ tình cảm sâu sắc đến các Tổ chức Quốc tế về nhân quyền, các chính khách, các nhà hoạt động tôn giáo và xã hội, mà trong suốt một phần tư thế kỷ, đã liên tục không ngừng yểm trợ tiếng nói chính nghĩa, đã kêu gọi lương tri loài người để cho một đất nước dù nghèo đói và lạc hậu không bị tách rời khỏi phần còn lại của thế giới loài người văn minh." (16)
 

Ý của Hòa Thượng Quảng Độ muốn nhắc nhở cộng đồng người Việt ở hải ngoại phải liên tục vận động "các Tổ chức Quốc tế về nhân quyền, các chính khách, các nhà hoạt động tôn giáo và xã hội" để kêu gọi lương tri của loài người, và ngõ hầu đạt được những yểm trợ mạnh mẽ, không ngừng cho tiếng nói chính nghĩa ở trong nước. 

 

Hòa Thượng Quảng Độ cũng không quên nhắc nhở cộng đồng người Việt ở hải ngoại phải có chương trình đấu tranh tích cực cho nền dân chủ và quyền làm người tại Việt Nam vì lý do cấp thiết là đất nước Việt Nam nghèo đói và lạc hậu có thể bị nguy cơ "tách rời khỏi phần còn lại của thế giới loài người văn minh." 
 

D.1.4 Hòa Thượng Quảng Độ đã xác quyết rằng: " Tuy nhiên, thời gian như thế cũng quá dài để kiểm chứng huyền thoại bách chiến bách thắng của chủ nghĩa bài trừ tôn giáo. Trong suốt thời gian ấy, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, kế thừa chính thống của hai nghìn năm lịch sử, được xây dựng và trưởng thành từ máu và lửa của tinh thần bất bạo động, đã không ngớt là đối tượng trấn áp chỉ vì không chịu khuất phục bạo lực, không chịu hóa thân làm công cụ chuyên chính, không chịu bóp méo những lời dạy cao cả của Phật và Tổ để bênh vực quyền lợi của tập đoàn giai cấp mới." (16)

 

Hòa Thượng Quảng Độ nhắc nhở mọi người về: "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, kế thừa chính thống của hai nghìn năm lịch sử, được xây dựng và trưởng thành từ máu và lửa của tinh thần bất bạo động" thì cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng nên xử dụng tinh thần bất bạo động trong các chương trình đấu tranh tích cực cho dân chủ và quyền làm người tại Việt Nam.
 

D.1.5 Hòa Thượng Quảng Độ phủ nhận huyền thoại bách chiến bách thắng của chủ nghĩa cộng sản với chính sách bài trừ tôn giáo. Mặc dù Giáo Hội là đối tượng trấn áp không ngừng của bạo lực nhưng Giáo Hội vẫn tồn tại vì:

" Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã tồn tại như là biểu tượng sinh động cho phẩm giá con người, là thể hiện tinh thần hy sinh, vô úy, tinh thần Bi-Trí-Dũng của những người Phật tử Việt Nam. Đó không phải duy chỉ nội dung Đại Hội VIII này. Đó còn là tâm thức, là hiện thực của Phật giáo mọi thời đại nói chung, và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Không một thế lực hung bạo nào có đủ sức mạnh thần kỳ để xóa mờ tâm thức ấy, để triệt tiêu hiện thực ấy." (16)

Hòa Thượng Quảng Độ khẳng định rằng Giáo Hội là biểu tượng sinh động cho phẩm giá của con người nên luôn luôn phải đấu tranh để bảo vệ quyền làm người và Giáo Hội còn thể hiện tinh thần hy sinh, không khiếp sợ (vô uý), tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ và Dũng Lực của người Phật tử Việt Nam.

Hòa Thượng Quảng Độ nhắc nhở cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng nên thể hiện tinh thần hy sinh, sức mạnh của Vô Uý, tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ và Dũng Lực khi đấu tranh ở hải ngoại trong tinh thần bất bạo động.
 

D.1.6 " Nhưng nếu quần chúng bị áp bức, bất kể đó là thế lực ngoại xâm hay thế lực thống trị trong nước, những người Phật tử Việt Nam không quên lý tưởng mà mình tôn thờ nơi Đức Phật đại hùng, đại lực, đại từ bi." (16)

Hòa Thượng Quảng Độ xác định với cộng đồng nhân loại và đặc biệt là cộng đồng người Việt ở hải ngoại rằng nếu dân tộc Việt Nam "bị áp bức, bất kể đó là thế lực ngoại xâm hay thế lực thống trị trong nước, những người Phật tử Việt Nam" phải đấu tranh cho quyền làm người, cho tự do, dân chủ trong lý tưởng tôn thờ mà Đức Phật đã dạy: sáng suốt hành động (Trí Tuệ), dũng cảm tự tồn (Dũng Lực) và tôn trọng sự sống (Từ Bi). 
 

D.1.7 " Vì vậy, Giáo Hội và toàn thể Tăng Ni, Phật tử, những người mà tín tâm không hề dao động, phẩm chất không hề bị hủ hóa, tha thiết gởi tất cả tư duy và nguyện ước của mình vào Đại Hội này. Hy vọng Đại Hội sẽ phát huy tích cực tinh thần Phật Giáo Việt Nam, thể hiện bản lĩnh của Phật tử Việt Nam, để cho mặc dù đang chịu số phận của một dân tộc nghèo đói, lạc hậu mà vẫn có những cống hiến của mình cho một thế giới hòa bình, hạnh phúc và khoan dung."

 

" Cầu mong Đại Hội nói lên những tiếng nói thầm lặng mà Tăng Ni và Phật tử trong nước không nói được, để cho cộng đồng nhân loại nghe rõ giai điệu chân thành đang cùng hòa tiết nhịp theo bước tiến văn minh." (16) 

 

Hòa Thượng Quảng Độ đã nói rõ là Giáo Hội và toàn thể Tăng Ni, Phật tử trong nước tha thiết gởi tất cả những suy nghĩ và nguyện ước của mình vào Đại Hội VIII để:

 

- phát huy tinh thần Phật giáo Việt Nam là từ-bi-hỷ-xả, dân chủ, tự do, bình đẳng giữa các dân tộc, khoan dung trong tư tưởng và tôn giáo;

 

- thể hiện bản lĩnh của Phật tử Việt Nam;

 

- nói lên tiếng nói thầm lặng mà Tăng Ni, Phật tử trong nước không nói được, để cho cộng đồng nhân loại nghe rõ tiếng nói chân thành cũng là tiếng kêu trầm thống trước sự đàn áp và hủy diệt con người Việt Nam. 
 

D.1.8 Đã có một danh sách với ít nhất là 209 Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ và các nhà trí thức ở nhiều quốc gia trên thế giới đã viết thư đề cử Hòa Thượng Thích Quảng Độ làm ứng viên giải Nobel Hòa Bình năm 2000. Danh sách này chỉ bao gồm những người qua các bản tin mà chúng tôi thu nhận được và chắc chắn là còn rất nhiều thư đề cử khác: tại Hoa Kỳ có danh sách 29 Dân Biểu; tại Pháp có danh sách 15 Dân Biểu và 26 Thượng Nghị Sĩ; tại Bỉ có 15 Dân Biểu và 2 Thượng Nghị Sĩ; tại Úc có 22 Dân Biểu, 1 Thượng Nghị Sĩ, và 2 Giáo Sư; tại Đức có 2 Giáo Sư; tại Nhật có 1 Giáo Sư ; và gần đây tại Canada, qua một Thông Cáo Báo Chí ngày 10 tháng 2, 2000, Văn Phòng Trung Ương Liên Minh Dân Chủ Việt Nam cho biết là do sự vận động của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam và Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ Việt Nam, 70 Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội Canada đã cùng đứng tên chung trong danh sách đề cử Hòa Thượng Thích Quảng Độ làm Ứng Viên Giải Hòa Bình Thế Giới Nobel.

Dân Biểu Tiến Sĩ Stan Dromisky, Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do, Khu Bộ Canada cùng với 69 Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ đã gởi văn thư chính thức của Khu Bộ Canada - Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do đến Ủy Ban Tuyển Chọn Giải Hòa Bình Thế Giới Nobel, ở Norway, nội dung văn thư phát biểu:
 

"Hòa Thượng Thích Quảng Độ là một vị lãnh đạo tôn giáo đã hiến dâng đời mình cho cuộc đấu tranh bất bạo động nhằm đòi hỏi công bằng xã hội, bình an và những quyền căn bản của con người. Từ được kính trọng qua việc bênh vực những quyền tự do tín ngưỡng, Hòa Thượng đã đượcc nổi tiếng không những chỉ riêng cộng đồng Phật Giáo, mà còn được nể trọng trên toàn thế giới. Những quyết tâm của Ngài nhằm đòi hỏi sự tôn trọng những quyền căn bản của con người tại Việt Nam đã dẫn đến việc Hòa Thượng bị quản chế liên tục bởi chính quyền Việt Nam. Ngoài ra, Hòa Thượng vẫn tiếp tục lên tiếng chống lại những hành động bất công của chính quyền. 

 

Bằng vào việc thừa nhận Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Ủy Ban của Quý Vị không những chỉ vinh danh một nhân vật dũng cảm bênh vực cho hòa bình mà Quý Vị còn minh thị công nhận công cuộc đấu tranh bất bạo động của những người dám chấp nhận hy sinh tánh mạng của họ cho nhân quyền, cho tự do tín ngưỡng và quyền làm người ở Việt Nam.

 

Chúng tôi tin tưởng rằng Hòa Thượng Thích Quảng Độ đáng nhận được sự vinh danh của toàn thế giới cho cuộc tranh đấu suốt đời của Ngài cho tự do tín ngưỡng và rất xứng đáng nhận lãnh tước hiệu cao quí nhất mà Cộng Đồng Thế Giới có thể ban thưởng cho những ứng viên sáng giá nhất về hòa bình. Hòa Thượng là một người khuôn mẫu thích hợp trong vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh đáng giá với lòng dũng cảm, khoan dung và từ bi, độ lượng. Với quan niệm nêu trên, chúng tôi kính đề nghị Hòa Thượng Thích Quảng Độ làm ứng

 

viên cho Giải Hòa Bình Nobel."
 

E. Chiến Lược Tâm Công áp dụng vào Chiến Lược Đấu Tranh cho Dân Chủ, Tự Do và quyền làm người tại Việt Nam trong thế kỷ 21
 

E.1 Chúng ta sắp bước sang thế kỷ 21, người Việt Nam trong nước đã đứng lên đòi hỏi tự do, dân chủ và quyền làm người từ Bắc vào Nam kể từ sau khi hiệp định Genève ký kết chia đôi đất nước ngày 20 tháng 7, 1954 và sau ngày cộng sản chiếm miền Nam 30 tháng 4, 1975 cho đến nay. 

 

Nhiều người Việt trong nước đã và đang bị chế độ cộng sản giam cầm. 

 

Nhiều nhà lãnh đạo tinh thần đang bị giam giữ, quyền tự do tín ngưỡng và các quyền làm người căn bản khác cũng đang bị tước đoạt. 

 

Chế độ cộng sản Việt Nam cực kỳ tham nhũng và không còn hậu thuẫn vì khối cộng sản Liên Xô và Đông Âu đã xụp đổ. 

 

Cuộc khủng hoảng kinh tế tại Á Châu, tại Nga Xô, tại Nam Mỹ Châu La Tinh đang làm cạn dần những nguồn đầu tư kinh tế tại Việt Nam và bằng chứng hiển nhiên là cộng sản Việt Nam đang phải đối phó với nhiều khó khăn kinh tế, chính trị và xã hội mà chế độ cộng sản, bất tài, tham nhũng không vượt qua nổi. 
 

E.2 Dân chúng đã nổi dậy ở nhiều nơi trong nước để đòi hỏi quyền làm người, tự do, dân chủ và công bằng xã hội.

Dân chúng đã nổi dậy ở nhiều nơi trong nước để chống lại hệ thống chính trị nuôi dưỡng tham nhũng, hối lộ, bóc lột nhân dân, hà hiếp quần chúng.
 

E.3 Hơn hai triệu người Việt tại hải ngoại đang sống lưu vong trên hàng mấy chục quốc gia có thể làm được gì để hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh ở trong nước mà vẫn phù hợp với luật pháp ở những quốc gia tạm dung? 

 

Cộng đồng người Việt tại hải ngoại có thể làm gì để đưa dân tộc Việt vào thế kỷ 21 trong đó quyền làm người được phục hồi trên đất nước, dân tộc Việt được sống trong thể chế dân chủ, ấm no, hạnh phúc để chấm dứt giai đoạn lịch sử đầy những khổ đau và hận thù? 
 

E.4 Noi gương những bậc thánh nhân đầy đủ Tâm Từ Bi, Trí Tuệ, Dũng Lực, và Tâm Bình Đẳng đã dùng Chiến lược Tâm Công trong tinh thần Bất Bạo Động như chiến lược lấy sức mạnh của Tâm (Tâm lực, heart-force) để kết hợp lòng người, thay đổi lòng dạ độc ác và hung tàn của con người, hoán chuyển nghịch cảnh thành thuận cảnh và đi đến mục đích cuối cùng để chấm dứt bạo lực, đàn áp, tù đày, chiến tranh và hận thù hầu đem lại hạnh phúc cho sinh dân.
 

E.5 Người viết tin tưởng Chiến lược Tâm Công kết hợp với tinh thần Bất Bạo Động:

 

E.5.1 Tại hải ngoại:

 

- cộng đồng người Việt hải ngoại có thể xử dụng triệt để mạng lưới truyền thông như các cơ quan báo chí, các hãng thông tấn xã, những hệ thống truyền thanh, truyền hình, mạng lưới điện toán Internet để phổ biến tin tức, tài liệu, hình ảnh nhằm hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh cho dân chủ, tự do ở trong nước của toàn dân;

 

- cộng đồng người Việt hải ngoại có thể vận động những dân tộc, những chính phủ của cộng đồng các quốc gia trên thế giới, các tổ chức quốc tế về nhân quyền lên tiếng đòi trả tự do, hỗ trợ cho những cá nhân và đoàn thể đang tranh đấu cho dân chủ và tự do tại Việt Nam;

 

- cộng đồng người Việt hải ngoại có thể vận động những dân tộc, những chính phủ của cộng đồng các quốc gia trên thế giới, các tổ chức quốc tế về nhân quyền hỗ trợ công cuộc tranh đấu đòi hỏi quyền làm người, dân chủ và tự do tại Việt Nam;

 

- cộng đồng người Việt hải ngoại có thể kêu gọi cộng đồng thế giới hỗ trợ cho một cuộc tổng tuyển cử tự do ở trong nước dưới sự kiểm soát và giám định của quốc tế khi tình hình thuận lợi.
 

E.5.2 Ở trong nước:

 

- cuộc tranh đấu có thể sẽ áp dụng chiến lược Dân Chúng Bất Cộng Tác (civil disobedience, civil non-cooperation) bằng những cuộc đình công, bãi thị toàn diện (general strike) bất bạo động, biểu tình bất bạo động để chống tham nhũng, chống đóng thuế, chống thu mua để ngăn chận bạo quyền cộng sản không được đàn áp, bắt giữ những người đấu tranh dân chủ;

 

- dân chúng đấu tranh còn kêu gọi các đảng viên, cán bộ, bộ đội và công an không tuân theo chỉ thị đảng cộng sản đàn áp dân chúng và kêu gọi họ đứng về phía dân chúng để tranh đấu đòi hỏi dân chủ, tự do và quyền làm người để làm giảm hiệu năng và sức đàn áp của guồng máy cai trị chế độ và tiến tới việc cô lập hàng ngũ lãnh đạo đảng cộng sản; 

 

- dân chúng đấu tranh còn kêu gọi cộng đồng thế giới hỗ trợ và kêu gọi các đảng viên, cán bộ, bộ đội và công an cùng làm áp lực với bạo quyền cộng sản phải giải thể, để tiến tới việc tổ chức một cuộc tổng tuyển cử tự do dưới sự kiểm soát và giám định của quốc tế khi tình hình trong nước thuận lợi. 
 

E.5.3 Phạm Duy qua tâm khúc ?Việt Nam Việt Nam? (13) đã tiên đoán trước vận hội mới này. Tâm khúc này sẽ lại được tất cả người dân Việt hát khắp nơi trên quê hương thân yêu: 

 

?Việt Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau, Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu. Việt Nam trên đường tương lai, lửa thiêng soi toàn thế giới, Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời. Tình yêu đây là khí giới, tình thương đem về muôn nơi.

Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người. Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam muôn đời.? (13)
 

E.5.4 Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện ( sinh ngày 27 tháng 2, 1939 tại Hà Nội, trải qua tất cả 27 năm tù đày trong các lao tù cộng sản trong ba thời kỳ: tháng 5,1961 - tháng 11,1964; tháng 2,1966 - tháng 7, 1977; 1979 - tháng 10, 1991) đã trao tập thơ "Hoa Địa Ngục" cho Tòa Đại Sứ Anh Quốc tại Hà Nội năm 1979 để ngay sau đó Ông đã bị bắt giam cho đến khi bạo quyền cộng sản phải trả tự do cho Ông năm 1991 dưới áp lực của quốc tế và các vận động của cộng đồng người Việt hải ngoại.
 

Trong 192 bài thơ của tập thơ "Hoa Địa Ngục" (14), Nguyễn Chí Thiện đã viết hai bài thơ thật hùng tráng và thật nhân hậu, khoan hoà là hai bài "Trong bóng đêm" và "Sẽ có một ngày". Trong hai bài thơ này, Ông đã tiên đoán trước vận hội đấu tranh mới khi mà dân tộc Việt Nam đứng lên để lật đổ bạo quyền cộng sản, đòi lại quyền làm người, dành lại tự do và xây dựng thể chế dân chủ trên Quê Hương Việt thân yêu đang chịu cảnh lầm than, đói khổ. 

 

Bài thơ "Trong bóng đêm" cho chúng ta thấy sức mạnh của một dân tộc dù bị đàn áp, dù bị đói khổ nhưng khi toàn dân đã quyết tâm cùng đứng lên thì sức mạnh của hàng triệu trái tim lan nhanh bất tận ('tâm truyền tâm') và không thể chận đứng được (như một phản ứng giây truyền của sự phá vỡ các nhân nguyên tử, 'Tất cả thành nguyên tử.') tạo nên chấn động và sức mạnh vô biên đủ để lật đổ bất cứ bạo quyền tàn ác nào đang thống trị đất nước.

 

Bài thơ "Sẽ có một ngày" đã tiên đoán trước vận hội mới khi toàn dân Việt cương quyết vứt bỏ, đào thải chế độ bạo lực biểu tượng bằng "súng, cùm, cờ và đảng cộng sản, tiến quân ca và quốc tế ca của cộng sản" để tất cả người dân Việt cùng đứng bên nhau: "Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân, Đứng bên nhau trên mất mát quây quần." để cùng quay về xây dựng lại Quê Hương đã trải qua "cơn ác mộng", và để " Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng!". 

 

Phạm Duy đã phổ nhạc hai bài thơ "Trong bóng đêm", "Sẽ có một ngày" trong tập Ngục Ca (15) của Ông gồm 20 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện được phổ nhạc.
 

Trong Bóng Đêm Sẽ có một ngày

Trong bóng đêm đè nghẹt Sẽ có một ngày con người hôm nay

 

Phục sẵn một mặt trời Vất súng, vất cùm, vất cờ, vất đảng 

 

Trong đau khổ không lời Đòi lại khăn tang, quay ngang vòng nạng

 

Phục sẵn toàn sấm sét Oan khiên!

 

Trong lớp người đói rét Về với miếu đường, mồ mả, gia tiên 

 

Phục sẵn những đoàn quân Mấy chục năm trời bức bách lãng quên

 

Khi vận nước xoay vần Bao hận thù độc địa dấy lên

 

Tất cả thành nguyên tử. Theo hương khói êm lan, tan về cao rộng

 

Tất cả bị lùa qua cơn ác mộng

 

Nguyễn Chí Thiện (1976) Kẻ lọc lừa, kẻ bạo lực xô chân

 

Sống sót về đây an nhờ phúc phận

 

Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân

 

Đứng bên nhau trên mất mát quây quần

 

Kẻ bùi ngùi hối hận

 

Kẻ bồi hồi kính cẩn

 

Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông

 

Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng !

 

Tiếng sáo mục đồng êm ả

 

Tình quê tha thiết ngân nga

 

Thay tiếng tiến quân ca

 

Và quốc tế ca

 

Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la !
 

Nguyễn Chí Thiện (1971) 
 

Dân chủ, tự do, và quyền làm người là những điểm tựa cho đòn bẩy là dân tộc Việt Nam trang bị bằng Chiến Lược Tâm Công và tinh thần Bất Bạo Động để đánh bật tảng đá là chế độ cộng sản đang đè nặng, đàn áp và kìm hãm dân tộc trong nghèo đói và lạc hậu ngõ hầu đem lại tự do, quyền làm người và hạnh phúc cho toàn dân. 
 

Chiến lược Dân Chúng Bất Cộng Tác áp dụng cùng với sức mạnh của Bất Bạo Động, 

song song với những áp lực chính trị và kinh tế từ các quốc gia khác sẽ buộc bạo quyền cộng sản phải giảm thiểu sự đàn áp. 

Dân tộc Việt Nam không còn tương nhượng hay sợ hãi chế độ cộng sản đàn áp và sẽ hiên ngang đứng lên đòi dân chủ, tự do và quyền làm người, thực hiện việc cô lập hàng ngũ lãnh đạo đảng cộng sản để tiến đến việc thành lập thể chế dân chủ pháp định.

Phan Quang Việt 
 

Bắt đầu viết vào những đêm cuối mùa Đông 1998, viết xong bản thảo vào những đêm đầu mùa Xuân, tháng 9 năm 1998. 

 

Tiếp tục sửa chữa, bổ túc xong vào ngày Phật Đản 2643, ngày 15 tháng 4, năm Kỷ Mão, (29 tháng 5, 1999), mùa Thu ở Sydney.

 

Sửa đổi, bổ túc và hoàn tất ngày Tết Nguyên Đán, Xuân Canh Thìn (5 tháng 2, 2000), mùa Hạ ở Sydney, Úc Đại Lợi, Nam Bán Cầu.
 

Tài liệu học hỏi và tham khảo:

 

Thích Viên Giác dịch, Đại thừa Kim Cang Kinh Luận, Chùa Đức Viên, Hoa kỳ. 

 

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Hịch Tướng Sĩ, 1284.

 

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Binh Thư Yếu Lược, 1284, Quê Mẹ, Paris.

 

Nguyễn Trãi, Ức Trai Di Tập, Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bình Ngô Đại Cáo,1427.

 

Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (quyển 1&2), Bộ Giáo Dục, Sài Gòn,1971.

 

Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, Thư Lâm Ấn Thư Quán, Sài Gòn, 1960.

 

Võ Văn Ái, Nguyễn Trãi: Sinh Thức và Hành Động, Quê Mẹ, Paris 1981.

 

Louis Fisher, Gandhi: His life and message for the world, Mentor Book, 1954.

 

Giáo Sư Robert A. F. Thurman, Bài phỏng vấn Đức Dalai Lama, Columbia University. 

 

The Dalai Lama His Holiness Tenzin Gyatso, A Human Approach to World Peace, Tibet House, Wisdom Publications, London 1996.

 

Burmar (Myanmar), SBS World Guide 1996.

 

Mark Baker, The invisible man of the fight for Burma, báo Sydney Morning Herald, 11 September 1998, (bài viết nói về Cố Giáo Sư Michael Aris, phu quân của Bà Aung San Suu Kyi, khi Ông sang Úc Châu để nhận bằng Tiến Sĩ Danh Dự về Luật Pháp được viện đại học Melbourne trao tặng cho Bà).

 

Nhạc sỹ Phạm Duy, Tâm khúc "Việt Nam Việt Nam".

 

14. Nguyễn Chí Thiện, Hoa Địa Ngục, 1980.

 

15. Nhạc sỹ Phạm Duy, hai bản nhạc "Trong bóng đêm", "Sẽ có một ngày", Ngục Ca, phổ nhạc 20 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện.

16. Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Diễn Văn Chào Mừng Đại Hội VIII, 14,15,16 tháng 5, 1999 tại Hoa Kỳ, diễn văn đã được gửi từ trong nước ra.

 


Cập nhật ngày : 01-01-2002


Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Trang Diễn Đàn

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com