--- o0o ---
Trong dòng nhạc tiền chiến mang xu hướng lãng
mạn, nếu như các nhạc sĩ tài hoa còn để lại cho đời một nhạc phẩm tiêu
biểu, đôi khi hai hoặc ba, và trở nên nổi tiếng bằng chính tác phẩm đó,
như Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Suối mơ, Buồn tàn thu của Văn
Cao, Trở về bến mơ của Ngọc Bích, Tiếng còi trong sương đêm
của Lê Chí Trực (Hoàng Việt), Hòn vọng phu của Lê Thương v.v... thì
nhạc phẩm Đên Đông của Nguyễn Văn Thương cũng là một nét tiêu biểu
trong rất nhiều nhạc phẩm nổi tiếng khác của nhạc sĩ. Riêng Đêm Đông
của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương có một chi tiết – nói đúng hơn đó chỉ là hai
từ "Tiếng chuông" – cho đến hôm nay, kể từ ngày nhạc phẩm được ra
đời (1939) gần trọn 60 năm, vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng ngay cả từ
phía tác giả bài hát (hiện đã nghĩ hưu và đang ở tại TP.HCM). Nếu như hơn
nữa thế kỷ qua, "tiếng chuông" trong Đêm Đông đã bị đánh sai
tiếng, chủ yếu là do các nhạc sĩ có trách nhiệm phối âm, các nhà thu băng,
thì những ai từng quý trọng, trân trọng nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương và có ít
nhiều quan tâm đến tính chính xác lịch sử mai sau, không thể xem nhẹ.
Đôi dòng về nhạc sĩ Nguyễn
Văn Thương
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương (NVT) sinh ngày 22-51919 tại
làng Vân Thê, tổng Hương Thủy, Thừa Thiên-Huế. Thân phụ và thân mẫu đều là
những người yêu âm nhạc, nên đã ươm mầm nghệ thuật cho nhạc sĩ từ tấm bé.
Năm lên 9 tuổi đã được học đàn Nguyệt, 13 tuổi được vào học ở trường Quốc
học-Huế. Thời gian này, từ vốn âm nhạc căn bản hò-xự-xang của dân tộc,
nhạc sĩ đã bắt đầu học ký âm Pháp đô-rê-mi của cuốn Marmontel của Pháp.
Kết thúc những năm trung học (Hè 1939), nhạc sĩ NVT đã sáng tác ca khúc
đầu tiên "Trên sông Hương". Năm sau, bài hát được xuất bản ở Hà Nội.
Sự nghiệp âm nhạc bắt đầu từ đó. Bài Đêm Đông là sáng tác thứ hai,
lúc nhạc sĩ NVT đang học tại Hà Nội (1939). Sau đó, nhạc sĩ vào Sài Gòn
học và sáng tác bài thứ ba "Bướm hoa" (1942); bài này, nguồn cảm
hứng lấy từ hình ảnh một rứng áo dài của các nữ sinh trường Trưng Vương
sau giờ tan học. Năm 1948, nhạc sĩ viết Bình Trị Thiên khói lửa...
. Cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của nhạc sĩ NVT cũng từ đó bước vào rẽ
ngoặc quan trọng, gắn liền với vận mệnh dân tộc, đấu tranh chống ngoại xâm
...
Ngoài các ca khúc, nhạc sĩ NVT còn sáng tác nhạc phim,
nhạc giao hưởng, nhạc biến tấu dành cho piano, violon, cello, sáo trúc,
đàn t’rưng v.v... Nhạc sĩ NVT còn là một nhà quản lý, giáo dục kiệt xuất
qua các chức vụ như Giám đốc Bưu điện khu 4, Chi đoàn trưởng Chi đoàn nhạc
sĩ khu 4, Trưởng đoàn Ca múa nhạc Trung ương, Giám đốc nhạc viện Hà Nội.
Với các trọng trách đó, nhạc sĩ NVT từng hướng dẫn, tham gia biểu diễn tại
Phủ Chủ tịch và đã được tiếp xúc với cụ Hồ Chí Minh nhiều lần; hướng dẫn
Đoàn nghệ thuật Việt Nam tham gia biểu diễn nước ngoài, được Thủ tướng
Trung Quốc Chu Ân Lai tiếp xúc (1954); từng làm việc và trao đổi ý kiến
chuyên ngành với Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1973) v.v...
Với công lao và thành tích đóng góp đó, nhạc sĩ NVT –
ngoài học hàm Giáo sư, danh hiệu nghệ sĩ nhân dân – còn được Chủ tịch nước
trao tặng Huân chương Lao Động hạng nhất, Huân chương Độc Lập hạng ba,
Huân chương Lao Động xuất sắc của Xô-viết Tối cao Liên Xô, Huân chương
Hoàng hậu Kosamark của Vương Quốc Camphuchia v.v...
Trên đường cô lữ, Đêm
Đông ra đời
Đó là mùa Đông năm kỷ mão (1939), lúc còn trọ học ở Hà
Nội, nhạc sĩ NVT kể: "Đêm giao thừa (29) tết, không có tiền để về quê đoàn
tụ với gia đình ngày đầu năm, buồn, nhớ tái tê lắm, tôi lang thang ở ga
Hàng Cỏ, nhìn người qua tay xách nách mang, lũ lượt bước lên chuyến tàu
cuối năm với tiếng còi dục giã. Từ nỗi niềm riêng, tôi chạnh lòng liên
tưởng để chia sớt với những ai cùng cảnh ngộ phải xa nhà trong đêm giao
thừa "đêm Đông - xa trông cố hương buồn lòng chinh phu, đêm Đông – bên
song ngẩn ngơ kìa ai mong chồng...". Người chinh phu ở đây có pha chút
lãng mạn của tiểu thuyết đương thời, có nhiều đoạn hư cấu. Tuy vậy, câu "ca
nhi đối gương ôm sầu riêng bóng" là có thật, bởi vì lúc ấy đang buồn
nhớ, tôi lê bước từ ga Hàng Cỏ trở về, đi ngang qua xóm cô đầu (*), nghĩ
rằng chắc đêm giao thừa chẳng có cô nào hành nghề cả, nhưng khi đi ngang
căn nhà còn để đèn, một cô bước ra chào mời, và khi tôi không phải là
khách làng chơi nên cô quay vào, tôi chợt thấy nét buồn đó thoáng qua
chiếc gương soi treo ở cửa ra vào. Lang thang khắp nơi rồi cũng về đến nhà
trọ ở số 10 phố Hội Vũ, cạnh nhà thương Phủ Doãn, lên gác trọ rồi mà nỗi
cô đơn buồn thương cộng vào gió thổi mạnh qua khe cửa sổ mãi đến khuya
không dứt; lấy ý đó, tôi viết tiếp "gió reo sầu miên – gió đau niềm
riêng – gió than triền miên...".
Bài hát được hoàn thành nhanh chóng sau khi kết nối
được các ý tưởng hoàn chỉnh, bắt đầu bằng câu "Chiều chưa đi màn đêm
rơi xuống, đâu đây buông lững lờ tiếng chuông"; và người hát
bài Đêm Đông đầu tiên là nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết (thân phụ của ca
sĩ Hồng Hạnh).
"Lững lờ tiếng chuông"
Những chi tiết quý giá trên về sự ra đời của bài hát
Đêm Đông được chính nhạc sĩ NVT tự tình, ít ra từ sau năm 1975 đến nay
đối với quần chúng hâm mộ.Về sau này, các nhạc sĩ phối âm, các nhà sản
xuất và cả các ca sĩ thể hiện mặc sức tung hoành để đến nỗi công chúng vẫn
cứ nghĩ rằng Đêm Đông được sáng tác trong chiều hướng phục vụ tôn
giáo, từ đó, các nhạc sĩ phối âm, phối khí không ngần ngại tạo ra dòng
nhạc Intro – mở đầu bằng tiếng chuông... nhà thờ! Từ âm sắc êm ả của bài
hát (tranquillo) trở nên pop-rock (kiểu liên khúc)! Hoặc vừa (adlib) đã là
tốt; có người sử dụng cả giọng nam trung cao (ténor) và cho đó là bài hát
chỉ dành cho... thính phòng! Vẫn chưa hết, các nhà kinh doanh xuất bản
cũng vào cuộc hàng loạt lần tái bản tờ nhạc bướm và ảnh bìa là nữ hoặc nam
ca sĩ đứng bên cạnh cây thông!
May mắn thay, nhạc sĩ NVT còn đây và đã lên tiếng giúp
cho giới mộ điệu tìm được ra chất xúc tác cấu thành Đêm Đông.
Thế còn Tiếng chuông? Không gì xác quyết
hơn, có sức mạnh thuyết phục hơn chính lời người sản xuất sản sinh ra bài
hát Đêm Đông. Vâng! Nhạc sĩ NVT đã lên tiếng thật sự, đápﬦ#7841;i
mối quan tâm không chỉ riêng người viết bài này như sau: "Đâu đây buông
lững lờ tiếng chuông. Tiếng chuông buông lững lờ, chỉ có thể là tiếng
chuông chùa. Nhưng không cứ gì tôi phải đi ngang qua một ngôi chùa, mà chỉ
cần nghe tiếng chuông; thường những người tu tại gia, khi niệm kinh buổi
chiều, vẫn thỉnh thoảng gõ chuông từ một gác thờ nào đó. Vì tôi đi từ nhà
ra ga Hàng Cỏ, qua phố Khâm Thiên rồi đi lang thang khắp các nẽo đường
trước khi trở về gác trọ thì có thể nghe được nhiều lần tiếng chuông ấy
lững lờ buông. Còn nếu tiếng chuông nhà thờ thì phải dùng chữ chuông đổ,
chứ không thể dùng buông lững lờ được".
Đó là phần đầu của nội dung lá thư đề ngày 04-11-1997
của chính nhạc sĩ NVT đã xác nhận. Như vậy, tất cả những thắt mắc từ lâu
nay đều đã được giải tỏa, vấn đề còn lại là cách thể hiện, chủ yếu nơi các
nhạc sĩ phối âm, phối khí, góp phần trả lại sự thật hơn nữa thế kỷ qua của
Đêm Đông. Cũng trong lá thu đó, nhạc sĩ NVT còn nói đến hai vấn đề
đã được đặt ra là cách thể hiện dẫn đến sai biệt như đã phân tích phần
trên. Nhạc sĩ NVT vốn rất ôn hòa, bình dị và cũng không nặng câu nệ chữ
nghĩa, song việc hát sai lời, phối âm tiếng chuông sai, thậm chí lợi dụng
Đêm Đông để giới thiệu xiêu vẹo như một băng cassette nước ngoài
rằng, Đêm Đông là bài hát nói về lính viễn chinh Mỹ (dựa vào câu "xa
trông cố hương buồn lòng chinh phu"...) v.v...đã góp phần biến Đêm
Đông trở nên dị dạng. Vấn đề thứ hai là chi tiết tiếng chuông
trong phối âm. Theo nhạc sĩ NVT, tiếng chuông được mô tả trong Đêm Đông
là tiếng chuông gia trì (nhạc sĩ NVT gọi là "tiếng chuông cúng") của giới
Phật tử tại gia dùng để gõ mỗi khi thắp nhang hoặc đọc kinh hàng đêm. Do
đó, vì tính chất nghệ thuật và mang hàm ý bao quát, nó sẽ được nâng lên
thành tiếng chuông chùa (đại hồng chung) là điều dễ dàng chấp nhận được.
Đã qua rồi thời chinh chiến, cách ngăn; nhạc sĩ NVT một
nơi, Đêm Đông một nơi, để ai đó thể muốn làm gì tùy thích "khi mình
không có ở đó" (lời nhạc sĩ NVT). Chỉ một tiếng chuông thôi, đã đẩy
đưa bài hát bất hủ ấy đi vào một nẽo khác hơn nữa thế kỷ qua, để rồi một
người nhạc sĩ sản sinh cho đời một tuyệt tác cũng chỉ hiền từ mà rằng: "Chú
chỉ cười và khen cho họ (những ông bầu) khéo lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia,
để đạt được mục đích hốt bạc!"
(*) Cô đầu tức cô đào, người nghệ sĩ ca trù,
được phiên âm là A=Y (ả đào, người Hoa gọi ả xẩm, ta gọi là cô). Tuiy
nhiên, các cô đầu thời gian này đã biến tướng, chuyên ca xướng
trong các thanh lâu, phục vụ dân ăn chơi một thời, làm mất hết ý nghĩa cao
đẹp của cô đầu.(DKT).