Giới học giả đã
bỏ ra không ít thời gian và giấy mực để bàn về chuyện bình đẳng hay
không bình đẳng giữa Tăng và Ni với những giới luật chênh lệch từ thời
đức Phật. Nhận thấy đây là vấn đề hay nên tôi cũng thường lưu tâm khi có
những ý kiến mới, nhằm đúc kết những nhận định khách quan với lòng mong
mõi là đáp ứng được phần nào về mặt nhận thức cho giới học giả. Trong
khi chờ đợi cộng đồng Phật giáo thế giới tìm ra câu trả lời đúng đắn
nhất qua logic, Lịch sử, Khảo cổ, Ngôn ngữ học… và đặc biệt là sự thể
nghiệm tâm linh của Ni đoàn!
Đầu tiên chúng
ta hãy nhận định đức Phật là người như thế nào? Nhà Khoa học, Tâm lý
học, sử học, Toán học, Y học, nhà Minh triết…cộng tất cả những cái ấy
lại cũng chưa đủ để chỉ cho bậc Toàn Giác như Ngài! Vì những gì Ngài nói
ra đã hơn 2600 năm: “trong vũ trụ này không phải chỉ có trái đất là có
sự sống và mầm sống là do duyên sinh…”, vậy mà mãi cho tới ngày nay các
nhà khoa học và ngành không gian của con người mới phỏng đoán được ngoài
trái đất này còn có vô số sự sống khác: “Hai nhà khoa học Charles
Lineweaver và Tamara Davis, Đại học New South Wales ở Sydney (Australia)
mới đưa ra phỏng đoán trên sau khi dùng phương trình Drake để tính xác
suất của sự sống trong vũ trụ. Theo đó, ở các hành tinh có điều kiện
tương tự trái đất, sự sống có thể đã hình thành và đang phát triển song
song với chúng ta. Và như lời đức Phật nói sự sống này là Duyên sinh:
“Jeffrey Bada và Antonio Lazcano, Đại học California ở San Diego (Mỹ),
đã nhận định những mầm sống đầu tiên trên trái đất có lẽ đã không hình
thành ở điều kiện nhiệt độ rất cao như người ta vẫn tưởng, mà ở nhiệt độ
giá lạnh dưới các lớp băng dày cách đây hàng tỷ năm. Và sự sống cũng
không chỉ xuất hiện một lần, mà nhiều lần…” (vnexpress 16/6/2002) Các
nhận định trên cho chúng ta suy luận tiếp, với trí tuệ siêu việt của Đức
Phật đã vượt xa các khối óc khoa học thượng thặng ngày nay! Như vậy,
chắc chắn rằng trong đời sống của Ngài không có hành động dư thừa và
phát biểu thiếu thận trọng mà đặc biệt là đưa ra các giới điều cho hàng
đệ tử được thanh tịnh thân và tâm! Nên chuyện chấp nhận cho nữ giới
xuất gia làm Tỳ khoe Ni là cả một vấn đề nan giải trong bối cảnh của xã
hội Ấn Độ lúc đó, khi phải trở thành đời sống “khất sĩ”, phải đối mặt
với thú dữ, cướp bóc, thời tiết khắt nghiệt…và đặc biệt là phải đưa ra
những giới cấm nào cho thích hợp để Tăng Ni sinh hoạt chung một đoàn thể
mà không phát sinh tình cảm! Vì nó là bức tường ngăn cản bước chân của
Hành giả tiến đến giải thoát. Chỉ đặt chừng ấy vấn đề thôi thì đủ thấy
cả một tấm lòng “bi mẫn” và trí tuệ siêu việt để giải quyết vấn đề chứ
không đơn giản như bao nhiêu học giả đã lấy lăng kính của thế kỷ 21 soi
ngược lại trước Công nguyên, rồi cho rằng đức Phật thiếu Từ bi thiếu
bình đẳng giữa Tăng và Ni. Đó là những chi tiết hết sức quan trọng,
nhưng có bao giờ các học giả tự đặt mình vào hoàn cảnh Nữ Khất sĩ? chứ
đừng nói là đã trải qua đời sống Tu sĩ! Nên “Diana Y. Paul giải thích
giới luật: “Bản văn đầu tiên được dịch dưới đây trình bày sự lệ thuộc
của Ni đoàn đối với Tăng đoàn, cho thấy Ni đoàn bị mất đi quyền tự trị,
và bị tước đoạt quyền lực để định nghĩa những bổn phận tôn giáo mà nữ
giới phải thực hiện. Không giống như hệ thống tổ chức bên Thiên chúa
giáo, các ma-sơ không bị lệ thuộc bên các linh mục. Chư Ni Phật giáo
trong xã hội Ấn Độ cổ đại bị phụ thuộc vào chư Tăng, cơ cấu tổ chức của
chư Ni cũng lệ thuộc hệ thống tổ chức của chư Tăng. Họ được chư Tăng
trực tiếp hướng dẫn trong các buổi họp của nhị bộ Tăng”. (Buddhismtoday-Quan
điểm Phật giáo về nữ giới-so sánh luật Tỳ Kheo và Tỳ Khoe Ni dựa trên
giới bổn tiếng Hoa-Liên Hiếu dịch)
Chúng ta thử đặt
lại vấn đề tại sao đức Phật đã chấp nhận phụ nữ làm Tỳ khoe Ni mà lại
cho họ giữ nhiều giới hơn Tăng? Sao Ngài lại bất công đến thế? Trong khi
Ngài đang kêu gọi xã hội lúc bấy giờ xoá bỏ giai cấp, vậy mà Ngài lại
thiết lập giai cấp trong đoàn thể của Ngài? Nên Susan Murcott phát biểu:
“Tăng đoàn quản lý Ni đoàn, các giới luật và quy tắc của chư Ni lại
nghiêm khắc hơn chư Tăng. Mục đích của các giới nghiêm khắc này là để
kềm chế bản chất ngang ngạnh của phụ nữ và để giành quyền hành tuyệt đối
cho chư Tăng. Các vấn đề vừa nêu trên,
Tỳ-kheo-ni In Young Chung
nhận định: “Mặc dù, hầu hết các học giả và các nhà nghiên cứu Phật
giáo đều tán thành Tỳ-kheo-ni dưới quyền Tỳ-kheo Tăng là do có quá nhiều
giới thêm vào cho Tỳ-kheo-ni và Bát Kính Pháp buộc họ phải tuân thủ, tôi
vẫn không đồng ý với những ý kiến này. Hơn nữa, dựa vào thực tế của đời
sống khi các giới hình thành, nếu khảo sát hoặc so sánh các điều luật
của cả Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni một cách tỉ mỉ, chúng ta sẽ thấy rằng các
điều luật ấy hết sức thực tiễn và cảm thông cho đời sống tu sĩ cả Tăng
lẫn Ni. Điều này phải được nhìn nhận một cách sâu sắc về “đời sống khất
sĩ” của chư Ni như đã mô tả trong Luật Tạng. Thật sai lầm khi chúng ta
chỉ dựa vào sự hiện diện của các giới trội hơn cho Tỳ-kheo-ni mà lại
khái quát hoá quan điểm của Phật giáo về phụ nữ nếu không khảo sát nguồn
gốc của các giới đó hoặc bối cảnh xã hội”
Từ đây, chúng ta
có thể suy luận thêm cùng một vấn đề chênh lệch về giới, nhưng các học
giả đều có mỗi góc độ nhìn khác nhau. Và những người “trong cuộc” lại có
cái nhìn thực tiển và chính xác hơn! Ngay điểm này, chúng ta có thể tạm
chia ra làm hai khái niệm:
1/ Học giả: là
một chuyên gia đi thu thập dữ liệu, nghiên cứu, so sánh, thậm chí chẻ
sợi tóc ra thành ngìn mảnh nhỏ để đi đến kết luận: 1+1=2 mà không cần
trải qua thực nghiệm!
2/ Hành giả: là
người giai đoạn sau của Học giả, là sau khi nghe rồi suy nghĩ, thấy sự
việc đó đúng, đi đến thực hành (Văn như tư, tư như tu). Nên Hành giả là
người: 1+1=1. Hai phạm trù hoàn toàn trái ngược nhau, nên đứng về mặt
khách quan nhận xét thì các Học giả đúng về mặt so sánh số lượng với số
lượng Tỳ Kheo Tăng giữ 250 giới, Tỳ Kheo Ni giữ 348 giới. Nhưng ngay nơi
2 danh từ Tăng và Ni đã nói lên sự khác khác biệt giữa hai giới tính.
Như
vậy, chúng ta suy luận thêm, đức Phật là người biết rõ tâm sinh lý của
chúng sinh! Vì Ngài đã chứng nghiệm tự thân: “Chính bản thân ta chịu
sanh, già, bệnh, chết, sầu khổ và phiền não, khi nhận chân được sự nguy
hiểm của chúng, ta đã tìm kiếm cái không bị sanh (ajaata), không
bị già, (ajara) không bị bệnh (abyaadhi'm), không bị chết
(amata), không bị sầu khổ (asoka'm), không bị phiền não (asankili.t.tha'm),
sự an tịnh tối thượng vượt thoát khỏi mọi trói buộc - ta đã chứng đạt
niết-bàn. Tuệ nhãn và tuệ tri sau đây đã xuất hiện trong ta; sự giả
thoát của tâm trở thành bất động. Đây là đời sống cuối cùng. Ta không
còn phải tái sanh nữa”. (Niết bàn và sự chấm dứt luân hồi-Buddhismtoday).
Cho nên Ngài đã mạnh dạng chỉ dạy cho hàng đệ tử phải gìn giữ giới luật
như thế nào, và Tỳ kheo cần phải giữ bao nhiêu và Tỳ Kheo Ni cần phải
giữ bao nhiêu là đủ, để đạt được Trí tuệ và đạo quả Giải thoát! Như vậy,
trong sự chênh lệch này đức Phật không hề có sự nhầm lẫn và Ngài đã có
sự cân nhắc hết sức tận tường và tinh tế. Vì những người nữ đầu tiên
phát tâm xuất gia là Mẹ và những nhưng người thân thuộc của Ngài, nên
chắc chắc là Ngài không phải bị sức ép của xã hội, phong tục tập quán và
bất cứ một thế lực nào! Đứng ở góc độ này Việt Nam có câu Ca Dao khá
giống cách xử sự của Ngài: “thương con cho roi cho vọt, ghét con thì cho
ngọt cho bùi”! Như thế, giới luật của Ngài cho Tăng và Ni giữ là cả một
tấm lòng bi mẫn như một người “Cha” đối với tất cả các “con”, chứ không
phải vì chư Tăng có cùng giới tính với Ngài nên được giảm bớt giới cấm!
Làm sao Ngài
không biết sự khác biệt về cơ thể vật lý và tâm sinh lý của Nam và Nữ !
Trong chúng ta đây điều thừa nhận rằng: Người nữ hầu như 80% là sống
thiêng về tình cảm và người Nam có đến 85% sống thiêng về lý trí. Nên
chúng ta không thể quy nạp đoàn thể Tăng già như một tập đoàn Dầu hoả
Rockerfeller hoặc công ty phần mềm của Bill Gate là dù Nam hay Nữ khi
hội đủ điều kiện làm việc là cùng tuân thủ chung một nội quy của tổng
giám đốc đưa ra! Hay phải theo văn hoá Tây phương, phụ nữ phải được
hưởng ưu tiên trên mọi lĩnh vực, hiểu như thế là hết sức tai hại và sai
lầm với lộ trình hướng đến Vô ngã trong đạo Phật!
Thật ra, chư
Tăng giữ 250 và chư Ni 348 giới ( theo Bắc tông) chỉ là con số tượng
trưng cho giới “Tướng”, chứ giới “Tánh” không hẳn là dừng lại ở đó! Ví
dụ: giới không được uống rượu, nhưng chúng ta phải hiểu là không được
dùng những chất kích thích! Không được khởi tâm nghĩ đến chất kích thích,
chứ không thể hiểu một cách đơn giản là chỉ có cấm không được uống rượu
mà thôi! Nên giới luật của Tăng Ni là khác hẳn với điều lệ của xã hội.
Vì vậy, giới còn được ví: người mù được sáng mắt, giữa biển khơi tìm
được hải đảo như châu báu lấy hoài không biết chán! Còn người phá giới
như tên bắn, như thác đổ, như ngựa chạy và như xe đang vào đường đèo mà
bị bể bánh đứt thắng….những lời dạy đó bàng bạc khắp nơi trong giáo lý
của Ngài cho chư Tăng qua các kinh Tứ Thập Nhị Chương và phẩm An Lạc
Hạnh trong kinh Pháp Hoa…nhưng có học giả nào phản ảnh đức Phật đã bất
công cho Tỳ kheo giữ thêm ngoài 250 giới?
Có thể nói
đây là vấn đề lớn và khó cho các Học giả và những ai mới bắt đầu nghiên
cứu giáo lý Phật giáo, nó không giản đơn như chuyện 1+1=2, nên một hành
giả đã phát biểu: “nếu chẳng một phen sương thấm lạnh, hoa kia đâu dễ
ngửi mùi hương”! Vì vậy, Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni có chênh lệch giới điều
là không hẳn trong đạo Phật bất bình đẳng mà đó là nhu cầu cần thiết cho
từng cơ thể vật lý và tâm sinh lý của mỗi Hành giả đang trên đường tìm
đến giải thoát. Một khi đã hết bệnh thì tất cả các loại thuốc đều trở
thành vô nghĩa, nên trước khi vào Vô dư y Niết Bàn Ngài đã khẳng định:
“trong suốt 49 năm ta chưa hề nói một lời!” Vậy mà ngày nay chúng ta cứ
đem cái đầu óc phân tích, hý luận chia chẻ giáo lý của Ngài ra hàng tỷ
mảnh vụn, rồi phê phán chổ này không logic, chổ kia không công bằng…trong
khi hai phạm trù Phân tích và thực nghiệm hoàn toàn trái ngược nhau. Hãy
mạnh dạng buông bỏ tất cả thì chúng ta sẽ thấy được trong đạo Phật là
bình đẳng tuyệt đối!
Delhi, 18/06/2002
T. Lệ Thọ