Thiêu thân
huyễn mộng
thuyết pháp vô ngôn
Thành
phố Sydney Úc Ðại Lợi đang vào đông, và cũng là mùa mừng lễ Khánh đản.
Phật tử mọi nơi trên toàn quốc nói chung Sydney nói riêng, rộn ràng chuẩn
bị bày biện lễ vật thiết lễ cúng dường, nhớ ân từ phụ Thích Ca Mâu Ni. Lần
lượt các chùa, Tự viện luân phiên tổ chức; cứ như thế mỗi năm một lần
không khác.
Nhưng năm nay,
năm 2002, Phật lịch 2546, không gian và thời gian thành phố Sydney đã chấn
động tâm người con Phật, khi nghe tin một người vừa thoát hóa ra đi ! Vị
đó là bậc tôn túc trong hàng Giáo phẩm. Thượng Tọa Thích An Thiên, trụ trì
chùa Minh Giác.
Mọi người
không ngờ và không tin được khi nghe tin Thầy vĩnh viễn rời bỏ trần thế
ngay trong mùa mở hội Phật đản sanh. Hầu như Phật tử Sydney quen biết Thầy
đều ngỡ ngàng chấn động, khi hồi tưởng lại thời gian gần nhất đối diện với
Thầy - chẳng thấy một dấu hiệu nào của người suy sụp tinh thần, của người
sắp sửa tự quyết lìa bỏ thế gian . Rồi hiện trạng ngay nơi chùa Minh Giác
cũng không một hình ảnh, sự vật nào cho thấy có sự khác thường dời đổi vật
dụng trong nhà như là một sự dằn co bứt tử. Và càng không ngờ hơn Thầy ra
đi bằng việc tự thiêu, với một thơ di chúc để lại. Sự kiện chứng tõ Thầy
đã có suy xét kỹ càng, điềm tĩnh trước khi thực hiện. Thầy còn tế nhị,
sáng suốt lo liệu cả việc giải quyết tro cốt sau khi hỏa táng. Cẩn trọng
chu đáo không khác chi lúc còn sanh tiền. Khi nhục thể Thầy được mang đi
giảo nghiệm, đến lúc được phép vào tư phòng Thầy, hai đệ tử của Thầy chứng
kiến, đồ đạc trong phòng vẫn ngăn nắp như không có gì, và đặc biệt y hậu
của Thầy được xếp gọn đặt trên gối giường, như để sẵn sàng cho việc tẩn
liệm. Thật đúng Thầy đã tĩnh tâm liệu trước!
Hồi tưởng lại
về Thầy, một dáng người tầm cở, một khuôn mặt điển hình vị tu sĩ chân tu
thật học và một kiến thức với học vị xứng đáng. Tuy nhiên sự ra đi đột
ngột, tự thiêu, không thể không làm mọi người bàng hoàng thương tiếc,
nhưng với hiện trường lưu lại, với cách chọn ra đi có sắp đặt và nhất là
với lời thơ di chúc đã cho thấy Thầy an nhiên tự tại biết được con đường
mình đi .
Con đường Thầy
đi có thể không tránh được nghi ngờ thắc mắc của nhiều người, tuy thế
người Phật tử đã học được thế nào từ sự tự thiêu một cách sáng suốt có
định sẵn của Thầy. Ðiều này Thầy đã thầm lặng cho người ở lại suy nghĩ như
một bài pháp.
Bài pháp về vô
thường, có đó mất đó, thấy đây rồi chốc lát chẳng còn. Sự vật và con người
thật mong manh hạn hẹp. Có tất phải mất, nhưng bao giờ mất thì ai biết
được! Quả Thầy đã để lại bài pháp vô thường cụ thể đích thực.
Bài pháp nữa là ngũ uẩn
bất tịnh giả tạm, trên thân xác thô phù, mà hễ ai có thân đều nếm trải
qua. Thầy đốt thân thể đến cháy đen, Thầy đã chẳng tiếc gì một dung nghi
thanh đẹp đang có, và chẳng ngại gì để người sau quán xét . Bài pháp này
Thầy đã cụ thể hóa ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) giai không, chẳng
chi thật chắc! Chúng chỉ là tập hợp của nhân duyên không là gì cả . Một
khi nhân duyên hết, tâm thức thoát ra, rồi thì phần sắc thể chỉ còn lại
một khối thịt vô tri bất tịnh không ai dám nhìn. Thầy với hình dáng mẫu
người cao đẹp như vậy mà bây giờ xác thân cháy đen như vậy, quả thật Thầy
đã để lại pháp học Ngũ uẩn giai không, thật là cụ thể cao quý.
Rồi bài học
cao siêu hơn nữa là pháp giới mông huân siêu việt, vượt lên khỏi thân xác
thô phù này. Nghĩa là thân xác của Thầy đã bỏ, nhưng tâm thức Thầy, nguyện
lực Thầy sẽ mãi mãi thong dong theo con đường Thầy chọn.
Có lẽ trước
khi đốt thân, tạm bỏ trần cảnh, Thầy đã có nguyện, hướng đến một thế giới
an lành thanh tịnh hơn, để mong chu toàn đạo lực rồi sẽ trở lại tiếp tục
việc hoằng pháp dỡ dang. Chỉ có vậy Thầy mới an nhiên bình tĩnh lo liệu
cho mình một cách minh mẫn .
Theo lời một
Phật tử kể lại Thầy có điện thoại cảm ơn, như thầm nói lời giả biệt đi xa,
chỉ trước khoảng thời gian châm lữa chừng vài chục phút. Vậy thì rõ ràng
Thầy đâu có mất, Thầy chỉ tạm bỏ thân xác thôi, chớ tâm thức nguyện hạnh
của Thầy vẫn còn đó đây trong pháp giới của trùng trùng duyên khởi. Quả
thật Thầy đã để lại bài pháp duyên khởi của một dòng sống bất sanh bất tử.
Ngày nhận nhục
thân Thầy từ nơi tòa giảo nghiệm pháp y (coroner’s court) rồi tẩn liệm,
cho đến hôm đưa linh cửu về lại chùa. Tăng Ni, Phật tử đã tỏ lòng thương
kính, hết lòng chung sức thiết lễ trang hoàng cho đúng nghi tiết một tang
lễ truyền thống. Tất cả đều cầu nguyện cho Thầy đạt được nguyện ước sanh
về Tịnh độ để rồi đủ duyên trở lại Ta Bà tiếp tục hoằng dương chánh pháp .
Suốt tuần tang
lễ, Phật tử khắp nước Úc lần lượt về lễ bái giác linh Thầy, ai ai cũng se
lòng thống thiết tưởng như không tin đượcs sự mất mát lớn lao này. Dù vậy
tất cả đã học được một cách sâu sắc giáo lý vô thường Phật dạy .
Rồi ngày di quan hỏa táng
đã đến - vì Thầy là vị Tăng sĩ người Việt đầu tiên viên tịch tại Úc nên
đám tang Thầy, có lẽ từ trước đến nay chưa bao giờ xảy ra với lễ tiết lạ
lùng nhất mà người bản xứ có thể chứng kiến. Lượng người tham dự đưa Thầy
đến nghĩa trang có tới vài ngàn người . Phần Tăng Ni hầu như trên khắp các
tiểu bang đã tựu về đầy đủ. Tất cả đều trầm tưởng bùi ngùi, nhưng khắc ghi
được lẽ pháp nhiệm mầu để thấy rằng giáo pháp Phật dạy thật đầy ý nghĩa
trong việc đi về sinh tử.
Hai hôm sau,
là ngày cuối cùng còn lại của tất cả; tất cả những gì Thầy để lại, đó là
mớ tro cốt cô đọng của thân ngũ uẩn!
Ngày thứ hai
3/6/2002 đi thỉnh linh cốt Thầy, ngoài Thầy Trưởng Ban tang lễ Thượng Tọa
Thích Quảng Ba, Thầy chứng minh tang lễ Thượng Tọa Thích Bảo Lạc còn có
Ðại Ðức Thích Nhuận An, ÐÐ Thích Phổ Huân, pháp quyến của Thầy, ÐÐ Thích
Hạnh Hiếu, Sư cô Như Nguyệt và một số gần mươi người Phật tử.
Sau khi xin
phép nhà thiêu được xem tro cốt trước khi nghiền nát. Quý Thầy và Phật tử
được hướng dẫn đến nơi lò thiêu. Chỉ vài phút nhân viên làm việc bên trong
mang ra một khay tro cốt, đặt trước mặt mọi người. Trên khay tro cốt bấy
giờ, thấy rõ những lóng xương nhỏ lớn không đồng đều. Giây phút cuối cùng
này càng rõ được huyễn mộng của sắc thân tứ đại vô thường, có sanh có diệt
chẳng gì bền chắc. Quý Thầy đồng nhiếp tâm trì tụng Ðại Bi thần chú, bài
kinh Bát Nhã, quý vị Phật tử cũng nhất niệm tụng theo. Chấm dứt là bài hồi
hướng, sau đó quý Thầy tự tay lựa lấy những mãnh xương lớn nhỏ vừa cở đặt
ra ngoài khay; đây là linh cốt một phần gởi về Việt Nam cho pháp quyến và
gia đình thờ tưởng. Có những mãnh xương nhỏ màu xanh nhạt lá cây, cũng có
những miếng xương ngã màu vàng. Còn có một chiếc răng nhưng tiếc thay lạc
mất trên khay vì một duyên nào đó mà không lấy được, vì chính chúng tôi đã
thấy ngay lúc mới đem ra.
Sau khi nhặt
lựa một số mãnh miếng dễ nhìn, phần còn lại được nghiền nát.
Ðó là tất cả
những gì giả tạm nơi chính xác thân của Thầy còn lại. Rồi đây mọi người
chỉ còn nhìn thấy vài miếng xương nhỏ ngã màu xanh, màu vàng tàng ong mà
được gọi là xá lợi, để tưởng nhớ đến một vị Thầy cũng như gợi lên trong
tâm lời Phật dạy .
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
(Kinh
Kim Cang)
Xưa nay vạn vật trên đời
Bọt bèo mộng huyễn có rồi hoàn không
Kìa như điển chớp trên không
Hạt sương buổi sáng đem lòng quán xem.
(HT Ðức Niệm dịch)
Kính giác linh
cố Hòa Thượng con xin sám hối ghi lại vài lời thô thiển để tưởng niệm Thầy.
Cầu nguyện Thầy đạt được ý nguyện mà Thầy đã thực hiện để rồi Thầy sẽ chắc
chắn sanh về Cực Lạc.
Nam Mô Ðại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát
Thích Phổ Huân
Viết tại Ða Bảo ngày 4/6/2002
--- o0o ---
|
Trở về Trang Kỷ Yếu Tưởng Niệm Cố HT Thích An Thiên |