"Nghe
tiếng hoa khai…“
Tưởng niệm Hòa thượng Thích Mãn Giác
Thái Kim Lan
Sáng 13. 10. 2006, được tin Thầy Mãn
Giác viên tịch. Mặc dù đã biết Thầy mang trọng bệnh, có
thể „mất“ đi bất cứ lúc nào, và chuyện sinh tử, „có,
không“ đã như những „đùa bỡn tháng ngày“
đối với vị Thiền sư có giọng nói mềm hiền như mật ấy,
nhưng tin đến vẫn làm giật mình!
Chỉ duy, cùng với nỗi giật mình sửng sờ,
câu thơ của thi sĩ Huyền Không
bỗng hiện rõ như những tia điện lóe sáng trước mắt, vang
động trong tâm và trong một thoáng, tôi nghĩ, tôi nhìn
thấy, cảm nghiệm trực tiếp được đồng thời vị Thầy, nhà
thơ mà tôi chỉ được gặp hai lần trong đời, nhưng câu thơ
từ đó được mang theo:
Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ
Nghe tiếng hoa khai, bỗng giật mình!
Mọi khởi đầu của sáng tạo – cũng như
xuân đến, hoa bừng nở - đến từ sự rung động thể lý ban
sơ của trái tim, nơi „cái giật mình“ của nhà thơ bước ra
khỏi tĩnh lặng quán tưởng để nhập cuộc, vào đời.
Khác với nỗi giật mình hoảng hốt của
tôi, mà cũng khác với Tú Xương „giật mình còn tưởng
tiếng ai gọi đò“
trong nỗi xa lìa giữa mộng và thực, cũng khác với nàng
Kiều „giật mình, mình lại thương mình xót xa“
trong tủi nhục ê chề giữa hèn mọn phận mình và tàn nhẫn
tay người, cái „giật mình“ của thi sĩ Huyền Không đưa ta
vào một chiều kích hiện sinh trong vũ trụ, được cảm
nghiệm như „vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh“.
Trong chiều kích hiện sinh MỚI mẻ này,
thế giới được tạo lập bằng sự hòa nhịp của nhạy cảm thể
xác, bằng rung động thể lý trong tiếp xúc với ngoại vật
thiên nhiên, tựa như sự va chạm của hai dòng điện thần
kinh nối mạch, từ đó tất cả những giây thần kinh của cơ
thể con người, của thế giới loài người và những tầng
trời vũ trụ chuyển cùng một điệu hòa đồng. Mọi đối đãi,
phân li, chia cắt, nghịch lý gây khổ đau giữa ta và
người, ta và vũ trụ đều được hàn gắn, vượt qua. Ở đây
không còn sau trước giữa „tiếng hoa khai“ và niềm rung
động thấy hoa, nghe hoa; cũng không trước sau giữa ngạc
nhiên choàng tỉnh và mùa xuân đã đến tự bao giờ, mà tất
cả đều như xảy ra cùng một lúc trong cú „giật mình“ đầy
hạnh ngộ ấy. Cơn „sốc“ (choc) nhẹ như cánh hoa hé nở
chính là tiếng không lời, bước đi không tiếng hay „âm
vang vô thanh“ của tiếng „vỗ của một bàn tay“ đánh động
sự xôn xao chỗi dậy một thế giới đầy sáng tạo.
„Bỗng giật mình“ diễn tả một biến động
thần kinh không trọng lượng của thể xác hòa nhập vũ trụ,
đột biến như ngôn ngữ vô ngôn mà nhà thơ Mãn Giác đã
dùng làm bè để chuyển đến cho chúng ta kinh nghiệm liễu
ngộ của Thiền sư Mãn Giác về đạo Phật từ thuở sơ sinh và
cũng ngay tại đây, bây giờ:
"Sáng nay thức dậy choàng thêm áo
Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh“.
Cái đạt của bốn câu thơ - chừng đó cũng
đủ cho „ông thầy tu đáng được gọi là thi sĩ“, như Ðại
lão tỳ kheo Thích Trí Quang có lần hóm hĩnh (theo lời kể
của chính tác giả) nhận xét - nằm ngay ở tầng số nhạy
cảm của trái tim nhà thơ truyền đến cho người thế tục để
người ấy có thể trực diện khám phá và giác ngộ thể tính
„vạn pháp bình đẳng“ hay tính „nhất thể của chân như“
trong chính giờ phút „ô hay xuân đến“ mà nhà sư Mãn Giác
suốt cả 58 năm thể nghiệm và thuyết giảng.
Ðồng thời chính cái TÂM nhạy cảm ấy tạo
nên yếu tính đồng nhất (Identité) hay bản lai diện mục
của nhà sư hay Hoà thượng Mãn Giác, hay, khi tất cả nhãn
hiệu rơi xuống, hiển hiện con người, một thực thể
(sattva) được ngộ (bodhi) „Mãn Giác“ trong thệ nguyện
chúng sinh đều độ khắp.:
„Tâm và Vật - nếu có thể nói như vậy-
đối với đạo Phật vốn là những gì bất tương ly, bất khả
ly phân. Và từ đó, nói đến con người là nói đến toàn
diện của nó. Chữ Tâm nằm trong ý nghĩa toàn diện đó“
Trong mọi thể nghiệm, nhà sư biết hơn
ai, thật không dễ để nói về „chân như“ mà không đánh mất
chính „chân như“ và trở nên vọng ngữ. Dù cho trong kinh
Hoa Nghiêm ghi lời Ðức Phật: „chân như vô thỉ, vô chung,
vô minh vô thỉ hữu chung“
thì cũng chỉ là những ý niệm trừu tượng và ngược lại với
lời dạy Ðức Phật, nếu chúng ta không khởi hành, lên
đường, đi…cho hết mọi nẻo, đến cùng đường „ngôn ngữ đoạn
đạo, tâm hành xứ diệt“, qua khỏi mọi bắt đầu và kết
cuộc, vượt trên mê mờ và tĩnh thức đối nghịch, để
thấy…bầu trời thật xanh:
"Qua
Thiền Môn thấy trời xanh
Kim Cang kinh tụng chân thành từng trang
Khói hương quyện cảnh mơ màng
Không gian là chiếc y vàng quấn thân…
Với nhà sư Mãn Giác, mỗi cuộc đi là một
cuộc trở về, trở về bắt kịp giờ phút „hoa nở“ bằng nhịp
đập „tĩnh hồn ngàn xưa“.
Và ngay trong khoảnh khắc ấy, ở đây, bây giờ, trái tim
của Thiền sinh Mãn Giác „giật mình“ ngộ đạo triết học
bát nhã „Ðêm qua sân trước một cành mai“ của Ðại thiền
sư Mãn Giác đời Lý, cách 10 thế kỷ. Một người chỉ cho
thấy cành mai nở, có kẻ giật mình khi hoa khai, hay
chẳng có người nào cả, chỉ có hoa nở và có giật mình.
Tính bình đẳng nhất thể xảy ra trong phút chốc.
Ðó là cảm nghiệm mà tôi nhận được, và
cám ơn người gửi điện thư báo tin đã nhầm nhà sư Mãn
Giác „đời nay“
với Mãn Giác Thiền sư đời Lý
khi viết thêm cho chúng tôi hai câu của bài thơ „Cáo
tật thị chúng“ truyền tụng cổ kim:
"Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Ðêm qua sân trước một cành mai“
Chính sự nhầm lẫn này lại không lầm,
ngược lại nó chỉ cho tôi điều mà nhà sư Mãn Giác thọ
nhận, thể nghiệm và truyền đạt từ gia tài văn học Phật
giáo Việt nam, cái „hồn ngàn xưa“ ấy, rốt cuộc cũng chỉ
nằm ở trái tim, ở chữ Tâm, chẳng có một danh hiệu hay
duy ngã nào cả trong giòng chảy trí huệ bát nhã ấy.
Triển khai chữ Tâm trong dòng đời, nhập
cuộc, hành trì tu chứng, đánh thức, „kêu lên một tiếng,
tĩnh hồn ngàn xưa“
chính là nổ lực văn hoá mà nhà sư Mãn Giác đã mang trách
nhiệm:
„ Nếu đời đã là bể khổ như Phật giáo
quan niệm, và đất chỉ sanh chông gai, trái đắng như
Thánh kinh nói thì hiện hữu hẳn là một nỗ lực tiên quyết
để thoát khổ, để canh tác cho đất ươm mầm sống, cho thêm
màu mỡ. Nỗ lực ấy chính là văn hoá và tất cả những thành
quả của nỗ lực ấy cũng chính là văn hóa vậy“
Văn hóa dân tộc là dòng chảy liên tục
trong khoảnh khắc hiện tại, mỗi khoảnh khắc nỗ lực sáng
tạo là một tiếp nối TÂM dân tộc trong tĩnh thức, cho
nên:
„Nhắc lại kinh nghiệm Lý, Trần..không có
nghĩa đẩy Việt nam lùi lại…“ mà „chỉ là để suy nghiệm
lại bài học lịch sử, và từ đó rút ra những ưu điểm
thường hằng…có tác dụng dẫn khởi cho việc tựu thành một
giải pháp hữu hiệu khả dĩ đưa dân tộc ra khỏi những quay
cuồng sân hận, oán thù, ly tán…Một đường hướng văn hoá
hóa giải. Một đường hướng khả dĩ giúp mọi người Việt nam
thể nghiệm được giá trị Nhân chủ và ước vọng Dân tộc
thâm trầm của mình mà khỏi phải xem đồng loại như thù
nghịch, đồng bào như công cụ“
Lời nói đã 32 năm qua, mà ước vọng thì
vẫn trẻ như mới vừa sinh ra. Và cũng trẻ như nụ cười của
nhà sư Mãn Giác khi thuyết giảng về văn hoá. Văn hóa là
hiện tượng đơm bông kết trái trên mảnh đất chung của một
dân tộc, của cả loài người cho nên nó phải luôn luôn mới
và trẻ. „Mới và trẻ“ trong mỗi giây mỗi phút của sáng
tạo bằng tâm vô quái ngại, không nề hà mà Lục tổ thiền
sư Huệ Năng gọi là „vô niệm“, vị „Tổ“ mà chúng ta tưởng
là già, nhưng lại trẻ măng. Ðó là điều mà nhà sư Mãn
Giác khám phá và nhấn mạnh:
„… mỗi khi ta nhắc đến ngài Huệ Năng
thì lập tức chúng ta hình dung rằng ngài có hình dáng
một cụ Hòa thượng già nua…Chúng ta thường hình dung nét
mặt của ngài Huệ Năng là nét mặt hiền hậu của một cụ
già, nhưng chúng ta đã quên rằng Huệ Năng đã từng rất
trẻ, và chính tuổi trẻ của Huệ Năng quyết định hết tất
cả sự nghiệp tâm linh vĩ đại của Huệ Năng…“ „….Ngay
ở Việt Nam ngày nay, cũng không thấy một thanh niên trẻ
măng mới đến chùa xin đi tu mà dám cả gan đối đáp như
vậy với một vị Hòa thượng nổi tiếng (như Hoằng Nhẫn),
huống chi đây là một thanh niên ngoại quốc ở vùng nhược
tiểu “man rợ” mà dám đối đáp với Đại lão Hòa thượng đại
cường quốc thống trị Trung Hoa thịnh Đường như vậy;
Hoằng Nhẫn giả vờ hỏi một câu chê trách về nguồn gốc
Việt Nam của Huệ Năng thì Huệ Năng trả đũa ngay lập tức
như một kẻ đã chứng ngộ rồi mới dám khẳng định rằng:
“Con người tuy có Tàu có Việt, tuy thân mọi rợ này không
giống với thân Hòa thượng, nhưng Phật tánh trong Hòa
thượng và trong tôi chẳng có gì là sai biệt”.
Trong tinh thần „làm trẻ Huệ Năng“, mỗi
cuộc trở về với gia tài văn hóa Phật giáo đối với nhà sư
Mãn Giác là một cuộc làm trẻ lại mảnh đất trí tuệ trong
tinh thần „Phật tánh không sai biệt“, đốn ngộ của Huệ
Năng.
Nhưng trong „vũ trụ muôn đời vẫn mới
tinh“ ấy, vẫn ẩn hiện một quê hương cho ngũ uẩn „Mãn
Giác“
:
Bởi vì ngũ uẩn cũng chính là quê hương
cho những ai đã lên đường, đi tìm hay đi xa, truy tầm
hay chạy trốn, cho những ai đã từng trải qua bão táp,
sóng dồn nơi tha hương, cho những ai lênh đênh phương
trời, không còn đạp chân trên mảnh đất mình sinh ra:
„Dù bất cứ chúng ta lưu lạc ở phương
trời nào, mỗi khi chúng ta không quên được tiếng nói của
quê hương, tiếng nói suối nguồn trong khiết của đạo lý,
thì “chính thân thể mình là quê hương” như ngài
Huệ Năng đã nói, và dù có ai đã đem vô minh đen tối đến
cho quê hương và đạo pháp, nhưng chơn lý vẫn luôn luôn
chiến thắng như ngài Huệ Năng đã nhắn lại với chúng ta:
“Cũng như một ngọn đèn có thể trừ được một ngàn năm bóng
tối thì một ánh sáng của trí tuệ cũng có thể diệt được
một vạn năm ngu si đen tối”.
Tôi đã được chứng kiến hiện trạng „thân
thế mình là quê hương“ ấy ở chùa Việt nam tại Cali khi
gặp Thầy lần đầu. Nụ cười trẻ trên gương mặt lão bệnh
nhưng tỏa sáng trí tuệ, bình an tự tại trong mọi tất bật
mà một vị sư có thể nhẫn nại cho mình: không chỉ là vị
tu sĩ, thầy giảng, thiền sư (Zenmaster như Phật tử người
Mỹ gọi), mà còn là cha, mẹ, anh, em, bằng hữu và… Bồ tát
hay là Phật nữa. Trong căn phòng đơn sơ của mái chùa
Việt nam ở Los Angeles, cuộc đàm đạo với Thầy thường
được xen lẩn với những lễ nghi quì lạy xưng tụng của đủ
hạng tín hữu. Suốt buổi diện kiến, một Phật tử mới qui y
quì cung kính bên chân thầy, dâng trà, dâng cơm ngay cả
trong lúc thọ trai. Và có ai ngạc nhiên hơn tôi, khi
chưa nuốt trôi được tô bún chay nhạt nhẽo, bỗng thấy
Thầy đứng lên, chân còn khập khiểng sau một cơn tai
biến, đi vào bếp. Tôi bỏ đũa đi theo thì thấy, chính nhà
sư vừa được quì lạy như Phật sống ấy đang nhen lửa, bắt
chảo, cắt các loại su, để xào cho chúng tôi một dĩa bún
chay tuyệt vời. Thật là:
„Lạ lùng thay! trong khoảng thời gian
bằng một bữa ăn mà thấy đủ công việc làm trong nhiều
năm…“
Ấy cũng bởi nhà sư đã nắm được yếu quyết
đi vào Nhất Tâm: „Ðúng ra, toàn diện con người cũng
chính là toàn diện của vạn pháp“ hay „Vạn pháp duy Nhất
tâm“.
Ðiểm đạt đạo thơ của thi sĩ Huyền Không,
hay quả tu chứng đạt đạo của nhà sư Mãn Giác nằm trong
thực chứng „Nhất Tâm“ khi tổng hợp được trái tim Việt
nam với trái tim vô ngã của Ðức Phật trong khoảnh khắc
„hoa nở“. Cành mai mà (Ðại sư) Mãn Giác trao lại cho
(Thiền sư) Mãn Giác chính là cành sen mà Ðức Phật Gotama
đã giữ trong tay với nụ cười yên lặng, khoảnh khắc duy
nhất của Vô Sanh:
"Hoa
nở, thấy Phật, chứng vô sanh
Bồ tát bất hối đều là bạn hữu“
Có lẽ trong cõi bất sanh bất diệt ấy,
nếu thiền sư Mãn Giác đạt đạo vô ngôn:
"Còn đâu nữa Kim cang kinh
Thiền môn biến mất mà mình vô ngôn“
Thì nhà thơ Huyền Không sẽ lên tiếng,
vẽ trên bầu trời xanh một bóng người:
" Ta từ sinh tử về chơi
Ngồi trên đỉnh núi mĩm cười với trăng“
Và cả hai „bỗng giật mình“ NHƯ THẬT!
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Với tâm thành kính dâng Thầy
Phật tử Thái
Kim Lan kính bái
|